Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN CÁC THIÊN TAI LIÊN QUAN ĐẾN DÒNG CHẢY (LŨ LỤT, KHÔ HẠN) TỈNH QUẢNG NAM, VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.8 MB, 98 trang )

VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
VIỆN ĐỊA LÝ
  
DỰ ÁN P1-08-VIE



Chuyên đề 5
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN CÁC THIÊN TAI LIÊN
QUAN ĐẾN DÒNG CHẢY (LŨ LỤT, KHÔ HẠN)
TỈNH QUẢNG NAM, VIỆT NAM



Chủ trì nhiệm vụ:
PGS.TS. Nguyễn Bá Quỳ
Đơn vị:
Văn phòng tư vấn thẩm định thiết kế và giám định chất lượng công trình,
Trường Đại học Thủy Lợi Hà Nội









Hà Nội - 2010



1

MỞ ĐẦU
Tỉnh Quảng Nam có diện tích lớn (10.406km
2
) nằm ở khu vực Trung bộ Việt Nam
thuộc vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, là nơi có 3 di sản văn hóa (khu Di tích Mỹ
Sơn, phố cổ Hội An và khu bảo tồn Cù Lao Chàm) được thế giới công nhận Vị trí địa
chính trị là những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Tuy nhiên đây
cũng là nơi chịu tác động mạnh mẽ của các thiên tai vì vậy tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn
còn rất chậm so với những khu vực xung quanh. Trong những năm gần đây, do ảnh
hưởng của sự thay đổi về khí hậu toàn cầu và sự phát triển kinh tế xã hội, thiên tai nói
chung, bão lũ nói riêng trên địa bàn tỉnh ngày càng gia tăng một cách bất thường và gây
thiệt hại ngày càng lớn hơn. Trong các dạng thiên tai, các thiên tai liên quan đến dòng
chảy sông suối (như lũ lụt, hạn kiệt) được xếp hàng đầu về phạm vi ảnh hưởng, mức độ
nghiêm trọng, số lần xuất hiện và cũng là loại thiên tai gây thiệt hại lớn nhất về kinh tế,
môi trường và xã hội. Theo thống kê 5 năm gần đây từ 2003 - 2007, thiên tai đã gây thiệt
hại trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ước tính trung bình gần bằng 6,26% tổng GDP. Những
năm mưa lũ lớn, thiệt hại có thể lên đến 18 - 20% GDP, trong đó thiên tai bão lũ, hạn hán
gây thiệt hại nặng nề nhất cả về người và tài sản của tỉnh Quảng Nam. Đây là một tổn thất
rất lớn đòi hỏi phải có nghiên cứu đồng bộ để tìm ra nguyên nhân và đưa ra các biện pháp
phòng tránh giảm nhẹ thiệt hại các tai biến thiên nhiên gây ra. Mặc dù có rất nhiều các
nghiên cứu về các tai biến lũ lụt, hạn hán nhưng do còn bị hạn hẹp về phạm vi chuyên
ngành và địa bàn, đặc biệt sau các trận lũ lịch sử cuối năm 1999, 2007, 2009 và đợt hạn
nặng nề năm 2005 nhiều tính toán, đánh giá về các yếu tố gây lũ lụt, hạn hán ở đây cần
được xem xét. Cùng với sự biến đổi khí hậu toàn cầu, sự biến động dòng chảy ngày càng
mang tính chất cực đoan hơn và các thiên tai liên quan đến dòng chảy như lũ lụt, hạn hán
xảy ra với tần suất cao hơn và gây thiệt hại trầm trọng hơn. Việc xác định các nguyên
nhân, các yếu tố tác động gây ra các dạng thiên tai (lũ lụt, hạn hán) tỉnh Quảng Nam và
đưa ra các cảnh báo về tình hình thiên tai lũ lụt, hạn hán theo các kịch bản biến đổi khí

hậu là rất cấp thiết, làm cơ sở cho các cấp lãnh đạo của tỉnh xây dựng kế hoạch hành động
triển khai Chiến lược Quốc gia phòng chống và giảm nhẹ thiên tai trên địa bàn tỉnh.



2
I. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I.1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Ở nước ta, liên tiếp trong những năm gần đây hiện tượng cực đoan của dòng chảy
như lũ lớn, khô hạn đã xảy ra với quy mô và cường độ rất lớn, đặc biệt là các lưu vực
sông vùng Trung Trung Bộ (từ Quảng Bình tới Quảng Ngãi) nơi có địa hình chia cắt
mạnh, lòng sông ngắn dốc, là vùng có chế độ khí hậu khắc nghiệt, là nơi hứng chịu nhiều
thiên tai: bão, nước dâng do bão, lũ lụt, hạn kiệt, hoang mạc. Các dạng thiên tai liên quan
đến dòng chảy xảy ra do chịu sự tác động của các yếu tố ngoại sinh, nội sinh cùng với các
hoạt động kinh tế - xã hội của con người trên bề mặt lưu vực gây thiệt hại nghiêm trọng
cả về người và của, tàn phá môi trường sinh thái cho nhiều tỉnh miền Trung. Lưu vực
sông Vu Gia - Thu Bồn có diện tích hứng nước 10350km
2
, là lưu vực sông lớn nhất vùng
Trung Trung Bộ thuộc tỉnh Quảng Nam là nơi chịu thiệt hại nặng nề do bão, lũ lụt, hạn
kiệt. Tính trung bình hàng năm, các thiên tai này đã làm thiệt hại ước tính hàng ngàn tỷ
đồng và gây thiệt hại nghiêm trọng về người. Vì vậy đã có rất nhiều các chương trình, đề
tài, dự án đã triển khai vừa qua đã thu được các kết quả có giá trị về mặt khoa học và thực
tiễn, góp phần phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai liên quan đến dòng chảy như lũ lụt hoặc
hạn hán cho tỉnh Quảng nam.
Về lũ lụt:
* Trong thời kỳ 1996 – 2000: lũ lớn xuất hiện liên tục trong thời kỳ này như lũ
1996, lũ 1998 và lũ lịch sử 1999 nên đã có rất nhiều các nghiên cứu về lũ và ngập lụt trên
lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn, tuy nhiên các nghiên cứu hạn chế về mặt mục tiêu, nội
dung nên các nghiên cứu thường mang tính chất chuyên ngành như:

- Nghiên cứu hiện trạng, xác định nguyên nhân lũ lụt các tỉnh Nam Trung Bộ, bước
đầu đề xuất các giải pháp khắc phục của PGS.TSKH Nguyễn Văn Cư đã bước đầu đi vào
đánh giá các yếu tố mặt đệm (địa hình, địa mạo, lớp phủ thổ nhưỡng, lớp phủ thực vật,
cảnh quan sinh thái ) nhằm đưa ra nguyên nhân gây lũ lụt cho các tỉnh Nam Trung Bộ
trong đó có Quảng Nam. Đây là công trình có ý nghĩa khoa học tuy nhiên do hạn chế về
mặt số liệu, dữ liệu nên bản đồ ngập lụt được xây dựng trên nền địa hình 1/500.000 không
có giá trị ứng dụng thực tiễn.
- Vấn đề quy hoạch hành lang thoát lũ cho sông ngòi miền Trung do GS. Đặng Đình
Bảng thực hiện nhưng cũng bước đầu đưa ra những nhận định chung về lũ và ngập lụt
- Nghiên cứu dự báo và cảnh báo diện ngập lụt lưu vực các sông Vu Gia - Thu Bồn
- Tam Kỳ do PGS.TS. Trần Thục chủ trì đã bước đầu nghiên cứu công nghệ dự báo lũ.
Các mô hình lũ được áp dụng ở đây chưa thích ứng trình độ kỹ thuật.
* Trong thời kỳ 2000 – 2005:


3
- Điều tra, nghiên cứu và cảnh báo lũ lụt phục vụ phòng tránh thiên tai ở các lưu
vực sông miền Trung (từ Thừa Thiên Huế đến Quảng Ngãi) do PGS.TS. Cao Đăng Dư
thực hiện đã bước đầu nghiên cứu, đánh giá lũ lụt nói chung và các trận lũ 1998, 1999 nói
riêng ở các lưu vực sông miền Trung nhằm nâng cao năng lực cảnh báo lũ lụt và làm cơ
sở cho việc kiểm soát lũ lụt.
- Nghiên cứu cơ sở khoa học cho các giải pháp tổng thể dự báo phòng tránh lũ lụt ở
miền Trung do TS. Nguyễn Lập Dân thực hiện đã đánh giá thực trạng và làm sáng tỏ các
tác nhân gây lũ lụt miền Trung trong đó có lưu vực trọng điểm Vu Gia - Thu Bồn, tính
toán xây dựng chương trình dự báo lũ lụt, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp tổng thể
phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai lũ lụt ở miền Trung.
- Ứng dụng mô hình toán trong nghiên cứu dự báo, cảnh báo lũ và ngập lụt cho
vùng đồng bằng các sông lớn ở miền Trung của PGS.TS. Lê văn Nghinh
- Định hướng qui hoạch lũ Trung Bộ của PGS.TS. Tô Trung Nghĩa
Tuy nhiên lũ trên lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn rất ác liệt, đối với các phụ lưu ở

thượng nguồn nằm trong vùng núi có độ dốc địa hình lớn nên thường xuyên xuất hiện lũ
quét lên nhanh, xuống nhanh, thời gian tập trung lũ và truyền xuống hạ lưu ngắn nên việc
thời gian dự kiến của dự báo thường rất ngắn vì vậy các phương án dự báo lũ phải nhằm
vào việc tăng thời gian dự kiến và độ tin cậy của dự báo. Xây dựng phương án dự báo lũ
trên cơ sở áp dụng các mô hình mưa - dòng chảy và mô hình truyền lũ là hướng đi có
nhiều triển vọng. Tuy nhiên các mô hình thường được áp dụng như mô hình TANK, HEC
– HMS, NLRMM, RUNOFF chưa cho kết quả cao do lưới trạm đo mưa và mực nước,
lưu lượng lũ chưa đủ để áp dụng một cách hiệu quả các mô hình trong dự báo tác nghiệp.
Ngập lụt ở hạ lưu các sông là do lũ lớn dồn về, mưa nội đồng và còn chịu ảnh
hưởng của thuỷ triều. Do diện tích của đồng bằng nhỏ (chỉ chiếm khoảng 20% diện tích
lưu vực), lượng nước lũ dồn về rất lớn, lại bị cản bởi các công trình thuộc hạ tầng cơ sở
nhất là đường Quốc lộ 1A và đường sắt thống nhất nên độ sâu ngập lụt tăng nhanh là mối
đe doạ nghiêm trọng đối với các điểm dân cư, các cơ sở kinh tế xã hội vùng hạ lưu. Công
tác cảnh báo ngập lụt cần được triển khai mạnh mẽ và rộng khắp, cần được thể hiện một
cách trực quan nhất (dưới dạng thông tin bản đồ). Tuy nhiên các tập bản đồ ngập lụt tại hạ
lưu lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn được xây dựng trên cơ sở diễn toán lũ bằng mô hình
DHM. Các thông số của mô hình tính toán ngập lụt được hiệu chỉnh và kiểm nghiệm theo
số hiệu quan trắc yếu tố mưa, lũ, các vết lũ điều tra và bản đồ ngập lụt xây dựng theo kết
quả điều tra lũ năm 1998 – 1999, khó sử dụng và độ chính xác còn chưa cao. Mặc dù đã
cố gắng tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau, bản đồ địa hình hạ lưu sông, tài liệu mặt cắt
ngang sông được sử dụng vẫn mang tính chắp vá, tỷ lệ khác nhau nên độ tin cậy của bản
đồ phần nào bị hạn chế


4
Về hạn hán: Trong những năm gần đây, cùng với bão lụt, hạn hán cũng gây nên
nhiều thiệt hại cho kinh tế, môi trường và xã hội ở các tỉnh miền Trung nói chung và tỉnh
Quảng Nam nói riêng. Với đặc điểm bất lợi cả về địa hình dốc, hẹp và nằm trên vành đai
hoạt động của các hiện tượng biến đổi khí hậu EN-Nino và La-Nila thêm vào đó là luồng
gió Tây Nam khô nóng thổi vào trong các tháng mùa khô đã làm tăng thêm tính khốc liệt

của hạn hán của tỉnh. Đợt hạn từ cuối năm 1997 đến tháng 4/1998, thiệt hại của các tỉnh
miền Trung riêng về nông nghiệp đã lên 1.400 tỷ đồng. Ngoài ra, các chi phí cho phòng
chống hạn cuối năm 1997 và năm 1998 gần 700 tỷ đồng, làm các trạm bơm dã chiến, thực
hiện các giải pháp chống hạn khác với kinh phí khoảng 300 tỷ đồng. Hạn hán làm ảnh
hưởng lớn đến thu nhập của người dân, ở nông thôn miền Trung, số hộ đói nghèo còn
khoảng 17 - 22%. Đợt hạn năm từ tháng 5 đến tháng 8/1998 miền Trung đã có tới 2,4
triệu người thiếu nước sinh hoạt. Vì vậy, bên cạnh nghiên cứu về lũ lụt, cũng rất nhiều
các công trình nghiên cứu về hạn hán ở miền Trung như:
Đề tài cấp Nhà nước: “Nghiên cứu các giải pháp giảm nhẹ thiên tai hạn hán ở các tỉnh
Duyên hải Miền trung từ Hà tĩnh đến Bình Thuận” do GS.TS. Đào Xuân Học Trường Đại
học Thuỷ lợi làm chủ nhiệm thực hiện từ năm 1999 - 2001. Đề tài đã đánh giá tình hình
hạn hán và ảnh hưởng của hạn hán tới 7 vùng kinh tế của Việt Nam, phân tích xác định
nguyên nhân gây ra hạn hán, phân loại và phân cấp hạn. Dựa trên các nguyên nhân gây
hạn hán, đề tài đã đưa ra các biện pháp phòng chống và giảm nhẹ hạn hán.
Đề tài cấp Nhà nước: Nghiên cứu ứng dụng các giải pháp KHCN phòng chống hạn hán
phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững ở các tỉnh miền Trung, 2007-2009 do TS. Lê
Trung Tuân Viện Khoa học Thuỷ lợi làm chủ nhiệm đã và đang triển khai với mục tiêu
nghiên cứu ứng dụng các giải pháp phòng chống hạn cho các tỉnh miền trung. Các giải
pháp đề xuất ứng dụng được chia thành 3 nhóm: (i) Thu trữ nước, bảo vệ đất và giữ ẩm;
(ii) Quản lý vận hành công trình thuỷ lợi trong điều kiện hạn hán, chế độ tưới và (iii) Kỹ
thuật tưới tiết kiệm nước.
Đề tài cấp Nhà nước:“Nghiên cứu dự báo hạn hán vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên
và xây dựng các giải pháp phòng chống”, mã số KC.08.22, thực hiện năm 2003 - 2005,
do PGS.TS. Nguyễn Quang Kim, trường Đại học thủy lợi (cơ sở 2) làm chủ nhiệm đã
nghiên cứu hiện trạng hạn hán, thiết lập cơ sở khoa học cho quy trình dự báo hạn, cơ sở
dữ liệu khu vực nghiên cứu để lập trình các phần mềm tính toán chỉ số hạn và phần mềm
dự báo hạn khí tượng và thủy văn. Việc dự báo hạn được dựa trên nguyên tắc phân tích
mối tương quan giữa các yếu tố khí hậu, các hoạt động ENSO và các điều kiện thực tế
vùng nghiên cứu.
Đề tài cấp Nhà nước:“Nghiên cứu xây dựng giải pháp tổng thể sử dụng hợp lý các dải cát

ven biển miền Trung từ Quảng Bình - Bình Thuận”, mã số KC-08-21 do Viện Địa lý thực
hiện năm 2003 - 2005, chủ nhiệm TS. Trần Văn Ý. Nội dung chính của đề tài là nghiên


5
cứu tìm ra các giải pháp tổng thể bao gồm sự kết hợp của 4 hợp phần (giải pháp quy
hoạch; giải pháp khoa học kỹ thuật; giải pháp tăng cường quản lý môi trường; giải pháp
về chính sách) sử dụng dải cát ven biển miền Trung, trên cơ sở phân vùng sinh thái vùng
cát ven biển và quy hoạch các ngành nghề cũng như việc đánh giá nguồn nước, các nguồn
tài nguyên liên quan kết hợp với các kiến nghị về tăng cường cơ chế chính sách để đưa ra
giải pháp tốt nhất.
Có thể thấy rằng các nghiên cứu về thiên tai trên lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn
đã được nghiên cứu rất nhiều tuy nhiên Tuy vậy do hạn chế về mục tiêu, nội dung vì vậy
các dạng thiên tai thường xảy ra trên bề mặt lưu vực (lũ lụthạn hán) chưa được đầu tư tập
trung nghiên cứu đồng bộ, thường được tách ra từng dạng thiên tai, trong khi mối quan hệ
về thời gian, không gian về quy luật hình thành và quá trình xảy ra các dạng thiên tai qua
các kết quả nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ rõ rệt. Việc đánh giá tổng hợp các yếu tố
tác động (nội sinh, ngoại sinh cùng với các hoạt động kinh tế - xã hội) của con người trên
bề mặt lưu vực gây ra các dạng thiên tai (lũ lụt, lũ quét, hạn hán) chưa được triển khai
nghiên cứu, đánh giá tổng hợp cùng một thời điểm theo các lưu vực sông, các nghiên cứu
đề xuất các giải pháp phòng tránh các dạng thiên tai trên còn bị bó hẹp trong phạm vi
chuyên ngành.
I.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sẽ sử dụng tổng hợp các phương pháp kỹ thuật sau trong quá trình thực hiện
chuyên đề:
I.2.1. Phương pháp điều tra, khảo sát ngoài thực địa
Đây là phương pháp chủ yếu trong quá trình thực hiện chuyên đề bao gồm các
bước chính sau:
+ Điều tra thực địa tổng hợp toàn vùng nghiên cứu về điều kiện tự nhiên địa hình,
khí tượng thủy hải văn, địa chất công trình, lớp phủ thực vật; điều kiện kinh tế xã hội;

+ Điều tra thực địa toàn vùng nghiên cứu về các công trình được xây dựng vì nhiều
mục đích khác nhau trên dòng chính các sông lớn;
+ Khảo sát vết lũ bằng GPS, tuân thủ theo đúng quy trình quy phạm hiện hành.
Điều tra, khảo sát đo đạc ngoài hiện trường theo tuyến, điểm đặc trưng nhằm bổ
sung tài liệu và kiểm tra kết quả nghiên cứu. Khảo sát đo đạc thường xuyên tại các điểm,
trạm quan trắc theo dõi diễn biến quá trình dòng chảy, đặc biệt quan tâm là các giá trị
dòng chảy cực đoan kết hợp với các số liệu điều tra trên bề mặt sẽ đưa ra hình ảnh trung
thực về các tác động của các dòng chảy cực đoan như dòng chảy lớn nhất gây ngập lụt
theo diện, thời gian, mức độ hoặc dòng chảy nhỏ nhất gây hạn hán thiếu nước dùng và các
vấn đề sinh thái môi trường khác. Các kết quả khảo sát sẽ là tài liệu kiểm định tốt nhất
cho các mô hình tính toán đối với dòng chảy lũ gây ngập lụt.


6
Trong khuân khổ của chuyên đề, nhóm thực hiện chuyên đề đã tổ chức 01 đợt
khảo sát thực địa ở địa bàn tỉnh Quảng Nam từ ngày 16 – 26/11/2009, sau trận lũ lớn
tháng 10/2009. Các công việc đã thực hiện bao gồm:
Làm việc với địa phương: Nhóm thực hiện chuyên đề làm việc với các sở, ban ngành
của tỉnh như Ban Chỉ huy PCLB, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Sở Tài nguyên
môi trường, Trung tâm dự báo Khí tượng thủy văn tỉnh và đã được cung cấp các tài liệu:
- Số liệu thống kê thiệt hại liên quan đến thiên tai lũ lụt, hạn hán trong những năm
vừa qua (từ 1997 đến 2008)
- Số liệu đo đạc khí tượng thủy văn trong những năm từ 2005 – 2008
- Tài liệu về các công trình thủy lợi, thủy điện (thông số công trình, tình trạng
công trình ) hiện tại và quy hoạch đến năm 2020.
- Tài liệu về các công trình giao thông (đường bộ, đường sắt, đường sông ), công
trình cầu cống hiện tại và quy hoạch đến năm 2020.
- Hiện trạng sử dụng đất của toàn tỉnh
- Các sơ đồ, bản đồ địa hình ở các tỷ lệ khác nhau.
Khảo sát vết lũ: Căn cứ vào tình hình ngập lụt và địa hình trong tỉnh, các tuyến điều tra

vết lũ được bố trí ở những khu vực ngập lụt dọc theo các triền sông ở vùng đồng bằng và
một số nơi ở trung lưu, trọng điểm là các vùng ngập nghiêm trọng ở vùng đồng bằng, các
thị xã, thị trấn trên cơ sở các cột mốc đã được xác định của Ban Chỉ huy phòng chống lụt
bão tỉnh. Các vị trí điều tra vết lũ trên các tuyến đã được lựa chọn để có tính đại biểu,
phản ảnh mức độ ngập lụt ở từng khu vực (như thôn, xã, phường, huyện, thị xã ). Đồng
thời, vết lũ còn được lưu giữ khá rõ và đảm bảo có thể xác định tương đối chính xác độ
cao và cũng như độ sâu ngập lụt.
Thực tế, các vết lũ được điều tra thường ở trên các cộc mốc đo lũ, cột trụ, tường
nhà, cột nhà, cổng của nhà dân, Uỷ ban nhân dân xã, phường, huyện, trạm y tế, trường
học, bưu điện, xí nghiệp, nghĩa trang liệt sỹ Để đảm bảo kết quả điều tra tiêu biểu và
chính xác, trong quá trình điều tra đã tiến hành điều tra trong nhân dân về tình hình ngập
lụt ở xung quanh vị trí điều tra vết lũ, độ cao ngập lũ, thời gian lũ (lúc bắt đầu nước lên,
mức nước lũ cao nhất và thời gian ngập lụt, và khi nào thì lũ rút ), tình hình thiệt hại do
lũ gây ra Sau khi các vết lũ đã được điều tra, thu thập đã tiến hành xác định vị trí vết lũ
trên bản đồ UTM tỷ lệ 1/25.000 của tỉnh Quảng Nam. Từ các vết lũ được xác định trên
bản đồ địa hình, đồng thời đối chiếu với các điểm độ cao và các đường bình đồ của bản
đồ nền đã tiến hành xác định phạm vi ngập lụt. Căn cứ vào mức độ ngập lụt trong toàn
tỉnh, đã chia ra các cấp độ sâu ngập lụt (h
n
): dưới 1m, 1 - 2m, 2 - 3m và trên 3m.
Từ bản đồ nền phân vùng ngập lụt đã xác định, tiến hành số hoá trên bản đồ số tỷ


7
lệ 1/25.000. Việc số hoá bản đồ, ngoài việc nhập thuộc tính cho các đối tượng trên bản
đồ, còn tiến hành chuyển đổi hệ toạ độ, do khu vực tỉnh Quảng Nam nằm trên 2 múi giờ
48 và 49. Đây là dữ liệu nhằm kiểm chứng kết quả của mô hình thủy lực 2D.
Bảng 1. Tình hình ngập lụt ở hệ thống sông Thu Bồn
(khi mực nước lũ ở mức báo động III)
Số

TT
Vùng có khả năng ngập lụt Mức ngập
bình quân
(m)
Mức ngập
lớn nhất
(m)
Xã Huyện
1
Duy Hoà, Duy Châu, Duy Sơn, Duy
Trung, Duy An, Duy Phước, Duy Nghĩa,
Duy Thành, Duy Vinh
Duy Xuyên 0,90 2,40
2
Đại An, Đại Hoà, Đại Thắng, Đại
Cường, Đại Nghĩa, Đại Quang, Đại
Phước, Đại Phong, Đại Hiệp
Đại Lộc 0,80 2,20

3
Điện Hồng, Điện Quang, Điện Thọ, Điện
Trung, Điện Phước, Điện An, Điện
Minh, Điện Phương, Điện Nam, Điện
Hoà, Điện Thắng, Điện Tiến, Điện
Dương
Điện Bàn 0,90 2,50
4
Cẩm Nam, Cẩm Kim, Cẩm Thanh, Cẩm
Châu, và một vài đoạn đường phố ở thị
xã Hội An nằm ven sông

Thị xã
Hội An
0,6 2,00
5
Hoà Châu, Hoà Tiến, Hoà Thọ, Hoà
Phước, Hoà Quí, Hoà Xuân, Hoà
Khương, Hoà Phong, Hoà Nhơn,
Hoà Hải
Hoà Vang 0,80 2,50
6 Quế Xuân, Quế Phú Quế Sơn 0,30 1,00
7 Bình Phước Thăng Bình 0,20 0,70
I.2.2. Phương pháp thống kê
+ Có được các tài liệu cơ bản, các tài liệu đã nghiên cứu từ trước đến nay liên quan
đến dự án. Các tài liệu thống kê sẽ giúp tư vấn đánh giá được một cách tổng quát nhất đối
với chuyên đề;
+ Thống kê, chập bản đồ và so sánh địa hình để xác định mức độ ngập lụt qua các
trận lũ lịch sử khác nhau.
I.2.3. Phương pháp mô hình toán: Là phương pháp cơ bản nhất để mô phỏng và dự báo
các giá trị cực đoan của dòng chảy. Cho đến nay, có rất nhiều mô hình đã và đang được
sử dụng để mô phỏng chế độ thủy lực hệ thống sông ngòi. Mỗi mô hình đều có thế mạnh,


8
hoặc là về lý thuyết thủy lực và toán học, hoặc là về áp dụng trong thực tiễn, hoặc là có
những tiện ích về phân tích kết quả. Trong khuôn khổ luận văn này tác giả chỉ chú trọng
về phần tính toán kết quả
Mô hình KOD của GS- TSKH Nguyễn Ân Niên ra đời đầu năm 1974 sử dụng hệ phương
trình Sant-Venant trong tính toán dòng chảy và giải bằng sơ đồ hiện với phương pháp sai
phân 4 điểm Preismann. Đến năm 1980 tác giả đã phát triển sơ đồ 2D. Năm 2005, sơ đồ
này đã được hoàn thiện thêm.

Mô hình VRSAP do cố PGS Nguyễn Như Khuê khởi thảo năm 1969 với đối tượng là
mạng lưới sông kênh trên đồng bằng thấp, có trao đổi nước với vùng đồng ruộng ngập
nước, vận động dưới ảnh hưởng của thủy triều, lũ nguồn và mưa rào trên đồng bằng. Đến
nay, VSRAP được tiếp tục cải tiến nâng cao tính năng, hoàn thiện phần tính diễn biến
mặn, thay đổi cấu trúc chương trình và chuyển sang ngôn ngữ lập trình Visual Basic trong
môi trường Windows để tăng tốc độ tính toán và quy mô bài toán. Mô hình sử dụng hệ
phương trình Saint-Venant và giải bằng phương pháp sai phân hữu hạn dùng sơ đồ sai
phân 4 điểm Pressman.
Mô hình HYDROGIS được TS Nguyễn Hữu Nhân phát triển từ năm 1995 cho mô phỏng
dòng chảy trong sông kênh và truyền tải chất trên cơ sở hệ phương trình Saint-Venant và
giải bằng phương pháp sai phân 4 điểm Pressmann. Mô hình có hệ thông tin địa lý (GIS)
hỗ trợ
Mô hình ISIS do công ty Halcrow và Viện Nghiên Cứu Thủy Lực Wallingford xây dựng,
sử dụng chương trình thủy động lực học dòng chảy một chiều mô phỏng dòng chảy không
ổn định trong hệ thống sông kênh và ô đồng. Mô hình dựa trên hệ phương trình Saint-
Venant cho dòng một chiều và giải theo phương pháp sai phân dùng sơ đồ sai phân ẩn 6
điểm của Abbott và Ionescu. Hệ phương trình viết cho một mạng sẽ tạo nên hệ phương
trình bậc nhất có chứa ẩn số. Mực nước tại một điểm bất kỳ có thể biểu diễn bằng hàm
của mực nước tại các nút lân cận.
Mô hình HEC-HMS là sản phẩm của tổ chức các Kỹ sư Thủy văn Quân đội Hoa Kỳ. Hầu
hết các phương pháp tính diễn toán dòng chảy lũ trong HEC – HMS dựa trên phương
trình liên tục và các quan hệ lưu lượng – lượng trữ. Các phương pháp được sử dụng bao
gồm: Phương pháp Muskingum, Phương pháp Muskingum - Cunge, Phương pháp sóng
động học và lag
Mô hình MIKE
Hiện nay, bộ mô hình họ MIKE, với những cải tiến mới nhất của phiên bản 2007
cho tính toán nghiên cứu dòng chảy và được ứng dụng tốt cho các lưu vực trong các dự án
do các cơ quan trong nước và quốc tế thực hiện như lưu vực sông Hồng, Vu Gia – Thu
Bồn, Srepok, Sài Gòn - Đồng Nai, mạng lưới sông toàn Đồng bằng sông Cửu Long Bộ



9
mô hình MIKE được phát triển bởi DHI bao gồm các mô hình: MOUSE, MIKE11,
MIKE21, MIKE3, MIKE SHE, MIKE NAM, MIKE BASIN và MIKE FLOOD
WATCH Đây là bộ mô hình hiện đại và đầy đủ nhất hiện này trong việc giải quyết các
bài toán liên quan đến tài nguyên nước. Sử dụng bộ mô hình này cho phép mô tả toàn
diện các thành phần có trên lưu vực và hệ thống sông. Riêng phần tính toán dòng chảy lũ,
bộ mô hình thủy văn (NAM, MIKE – SHE), thủy lực (MIKE 11, MIKE 21, MIKE3) và
GIS (MIKE 11 GIS) có thể cho phép diễn toán vận động của dòng nước từ lúc mưa rơi
cho đến khi chảy ra biển. Ưu điểm lớn nhất của mô hình là khả năng liên kết các mô hình
đơn lẻ thành một bộ mô hình thống nhất và hoàn chỉnh. Sự liên kết giữa các thành phần
thành phần dòng mặt, dòng sát mặt và dòng ngầm, mô hình mưa – dòng chảy với mô hình
thủy lực, mô hình 1D với 2D, 2D với 3D mô hình thủy lực với GIS giúp mô hình không
những có khả năng mô phỏng đầy đủ vận động của dòng nước trên lưu vực mà còn có
đưa ra kết quả một cách trực quan và đễ hiểu dưới dạng các bản đồ ngập lụt. Ngoài ra,
công cụ hỗ trợ ra quyết định MIKE FLOOD WATCH còn giúp người ra quyết định đưa
ra những quyết định chính xác và kịp thời (phát cảnh báo, sơ tán dân ) ứng phó khi lũ
lớn và đặc biệt lớn xảy ra. Cùng với đó, do công cụ được phát triển trên nền Web nên
không chỉ các nhà quản lý mà cả cộng đồng dân cư cũng có thể truy cập tra cứu thông tin
và xác định nguy cơ ngập lụt ở khu vực mình đang sống và do đó có thể chủ động ứng
phó với tai biến.
Mô hình MIKE11 là một bộ phần mềm chuyên tính toán kĩ thuật phục vụ tính toán
dòng chảy, vận chuyển trầm tích trong khu vực sông, cửa sông và các quá trình sinh hóa
phức tạp trong hệ thống sông dạng 1D. Đây là một công cụ mô hình một chiều rất có ích
với người sử dụng trong việc thiết kế chi tiết, quản lý và điều hành các hệ thống sông và
kênh từ đơn giản tới phức tạp. Vì vậy chuyên đề đã lựa chọn mô hình Mike 11 (là một
modul của bộ mô hình họ Mike) cho tính toán thủy lực dòng chảy lũ cho hệ thống sông
Vu Gia – Thu Bồn.
MÔ HÌNH MIKE - NAM
Cấu trúc mô hình MIKE - NAM được xây dựng trên nguyên tắc các hồ chứa theo

chiều thẳng đứng và các hồ chứa tuyến tính, gồm có 5 bể chứa theo chiều thẳng đứng như
hình 4
- Bể chứa tuyết tan được kiểm soát bằng các điều kiện nhiệt độ. Đối với điều kiện
khí hậu nhiệt đới ở nước ta thì không xét đến bể chứa này.
- Bể chứa mặt: lượng nước ở bể chứa này bao gồm lượng nước mưa do lớp phủ
thực vật chặn lại, lượng nước đọng lại trong các chỗ trũng và lượng nước trong tầng sát
mặt. Giới hạn trên của bể chứa này được ký hiệu bằng Umax.
- Bể chứa tầng dưới: là vùng đất có rễ cây nên cây cối có thể hút nước cho bốc, thoát
hơi. Giới hạn trên của lượng nước trong bể chứa này được ký hiệu bằng Lmax, lượng nước


10
hiện tại được ký hiệu là L và tỷ số L/Lmax biểu thị trạng thái ẩm của bể chứa.
- Bể chứa nước ngầm tầng trên.
- Bể chứa nước ngầm tầng dưới.

Hình 1: Cấu trúc của mô hình NAM
Các thông số cơ bản của mô hình MIKE - NAM:
CQOF: Hệ số dòng chảy tràn không có thứ nguyên, có phạm vi biến đổi từ 0.0
đến 0.9. Nó phản ánh điều kiện thấm và cấp nước ngầm. Vì vậy nó ảnh hưởng nhiều đến
tổng lượng dòng chảy và đoạn cuối của đường rút. Thông số này rất quan trọng vì nó
quyết định phần nước dư thừa để tạo thành dòng chảy tràn và lượng nước thấm. Các lưu
vực có địa hình bằng phẳng, cấu tạo bởi cát thô thì giá trị CQOF tương đối nhỏ, ở những
lưu vực mà tính thấm nước của thổ nhưỡng kém như sét, đá tảng thì giá trị của nó sẽ rất
lớn.
CQIF: Hệ số dòng chảy sát mặt, có thứ nguyên là thời gian (giờ)-1. Nó chính là
phần của lượng nước trong bể chứa mặt (U) chảy sinh ra dòng chảy sát mặt trong một đơn
vị thời gian. Thông số này ảnh hưởng không lớn đến tổng lượng lũ, đường rút nước.
CBL: là thông số dòng chảy ngầm, được dùng để chia dòng chảy ngầm ra làm hai
thành phần: BFU và BFL. Trường hợp dòng chảy ngầm không quan trọng thì có thể chỉ

dùng một trong 2 bể chứa nước ngầm, khi đó chỉ cần CBFL=0- tức là lượng cấp nước
ngầm đều đi vào bể chứa ngầm tầng trên.
CLOF, CLIF: Các ngưỡng dưới của các bể chứa để sinh dòng chảy tràn, dòng


11
chảy sát mặt và dòng chảy ngầm, không có thứ nguyên và có giá trị nhỏ hơn 1. Chúng có
liên quan đến độ ẩm trong đất. Khi các giá trị của ngưỡng này nhỏ hơn L/Lmax thì sẽ
không có dòng chảy tràn, dòng chảy sát mặt và dòng chảy ngầm. Về ý nghĩa vật lý, các
thông số này phản ánh mức độ biến đổi trong không gian của các đặc trưng lưu vực sông.
Do vậy, giá trị các ngưỡng của lưu vực nhỏ thường lớn so với lưu vực lớn.
Umax, Lmax: Thông số khả năng chứa tối đa của các bể chứa tầng trên và tầng
dưới. Do vậy, Umax và Lmax chính là lượng tổn thất ban đầu lớn nhất, phụ thuộc và điều
kiện mặt đệm của lưu vực. Một đặc điểm của mô hình là lượng chứa Umax phải nằm
trong sức chứa tối đa trước khi có lượng mưa vượt quá, PN xuất hiện, tức là U< Umax.
Do đó trong thời kỳ khô hạn, tổn thất của lượng mưa trước khi có dòng chảy tràn xuất
hiện có thể được lấy làm Umax ban đầu.
CK1,2, CKBF: là các hằng số thời gian về thời gian tập trung nước. Chúng là các
thông số rất quan trọng, ảnh hưởng đến dạng đường quá trình và đỉnh.
Thành phần cơ bản của mô hình:
Bốc thoát hơi nước:
Nhu cầu bốc thoát hơi đầu tiên được thoả mãn từ lượng trữ bề mặt với tốc độ tiềm
năng. Nếu lượng ẩm U trong lượng trữ bề mặt nhỏ hơn yêu cầu (U < Ep) thì phần còn
thiếu được coi rằng là do các hoạt động của rễ cây rút ra từ lượng trữ tầng thấp theo tốc
độ thực tế Ea. Ea tương ứng với lượng bốc hơi tiềm năng và biến đổi tuyến tính theo quan
hệ lượng trữ ẩm trong đất, L/Lmax, của lượng trữ ẩm tầng thấp
Dòng chảy mặt:
Khi lượng trữ bề mặt đã tràn, U > Umax, thì lượng nước thừa PN sẽ gia nhập vào
thành phần dòng chảy mặt. Thông số QOF đặc trưng cho phần nước thừa PN đóng góp
vào dòng chảy mặt. Nó được giả thiết là tương ứng với PN và biến đổi tuyến tính theo

quan hệ lượng trữ ẩm đất, L/Lmax, của lượng trữ ẩm tầng thấp.

trong đó: CQOF = hệ số dòng chảy tràn trên mặt đất (0 ≤ CQOF ≤ 1),
TOF = giá trị ngưỡng của dòng chảy tràn (0 ≤ TOF ≤ 1).
Phần lượng nước thừa PN không tham gia vào thành phần dòng chảy tràn sẽ thấm
xuống lượng trữ tầng thấp. Một phần trong đó, ∆L, của nước có sẵn cho thấm, (PN-QOF),
được giả thiết sẽ làm tăng lượng ẩm L trong lượng trữ ẩm tầng thấp. Lượng ẩm còn lại, G,
(1)


12
được giả thiết sẽ thấm sâu hơn và gia nhập lại vào lượng trữ tầng ngầm.
Dòng chảy sát mặt
Sự đóng góp của dòng chảy sát mặt, QIF, được giả thiết là tương ứng với U và
biến đổi tuyến tính theo quan hệ lượng chứa ẩm của lượng trữ tầng thấp.

trong đó CKIF là hằng số thời gian dòng chảy sát mặt và TIF là giá trị ngưỡng
tầng rễ cây của dòng sát mặt (0 ≤ TIF ≤ 1).
Diễn toán dòng chảy mặt và dòng sát mặt
Dòng sát mặt được diễn toán qua chuỗi hai hồ chứa tuyến tính với cùng một hằng
số thời gian CK13. Diễn toán dòng chảy mặt cũng dựa trên khái niệm hồ chứa tuyến tính
nhưng với hằng số thời gian có thể biến đổi

trong đó OF là dòng chảy tràn (mm/hr) OFmin là giới hạn trên của diễn toán tuyến
tính (= 0,4 mm/giờ), và õ = 0,4. Hằng số õ = 0,4 tương ứng với việc sử dụng công thức
Manning để mô phỏng dòng chảy mặt.
Theo phương trình trên, diễn toán dòng chảy mặt được tính bằng phương pháp
sóng động học, và dòng chảy sát mặt được tính theo mô hình NAM như dòng chảy mặt
(trong lưu vực không có thành phần dòng chảy mặt) được diễn toán như một hồ chứa
tuyến tính.

Lượng gia nhập nước ngầm
Tổng lượng nước thấm G gia nhập vào lượng trữ nước ngầm phụ thuộc
vào độ ẩm chứa trong đất trong tầng rễ cây.

(2)
(3)
(4)



13
trong đó TG là giá trị ngưỡng tầng rễ cây đối với lượng gia nhập nước ngầm
(0 ≤ TG ≤ 1).
Độ ẩm chứa trong đất
Lượng trữ tầng thấp biểu thị lượng nước chứa trong tầng rễ cây. Sau khi phân chia
mưa giữa dòng chảy mặt và dòng thấm xuống tầng ngầm, lượng nước mưa còn lại sẽ
đóng góp vào lượng chứa ẩm (L) trong lượng trữ tầng thấp một lượng ∆L.

Dòng chảy cơ bản
Dòng chảy cơ bản BF từ lượng trữ tầng ngầm được tính toán như dòng chảy ra từ
một hồ chứa tuyến tính với hằng số thời gian CKBF.
3.3. MÔ HÌNH MIKE 11
3.3.1 Hệ phương trình
Mô hình MIKE 11 là mô hình tính toán mạng sông dựa trên việc giải hệ phương
trình một chiều Saint –Venant, với các giả thiết cơ bản sau đây:
- Chất lỏng (nước) là không nén được và đồng nhất (xem như không có sự khác
biệt về trọng lượng riêng của nước)
- Độ dốc đáy sông (kênh) là tương đối nhỏ
- Chiều dài sóng là tương đối dài so với độ sâu dòng chảy (điều kiện nước nông,
xem rằng tại mọi điểm trong hệ thống, véctơ lưu tốc luôn song song với đáy kênh và

không có sự biến đổi của lưu tốc theo phương thẳng đứng, từ đó có thể áp dụng giả thiết
áp suất thủy tĩnh trong kênh)
- Dòng chảy trong hệ thống là dòng chảy êm (có số Froude lớn hơn 1)
3.3.2 Phương pháp giải
Hệ phương trình Saint – Venant về nguyên lý là không giải được bằng các phương
pháp giải tích, vì thế trong thực tế tính toán người ta phải giải gần đúng bằng cách rời rạc
hóa hệ phương trình. Trong mô hình MIKE 11 đã sử dụng phương pháp sai phân hữu hạn
6 điểm ẩn Abbott, được mô tả qua hình 2a và 2b.

Hình 2a Sơ đồ sai phân hữu hạn 6 điểm ẩn Abbott
(5)



14

Hình 2b Sơ đồ sai phân 6 điểm ẩn Abbott trong mặt phẳng x~t
Trong phương pháp này, mực nước và lưu lượng dọc theo các nhánh sông được
tính trong hệ thống các điểm lưới xen kẽ như dưới đây (hình 3).


Hình 3 . Nhánh sông với các điểm lưới xen kẽ

Đối với mạng lưới sông phức tạp, mô hình cho phép giải hệ phương trình cho
nhiều nhánh sông và các điểm tại các phân lưu/nhập lưu. Cấu trúc của các nút lưới ở nhập
lưu, tại đó ba nhánh gặp nhau, thể hiện trong hình sau (hình 4):

Hình 4 Cấu trúc các điểm lưới xung quanh điểm nhập lưu



15

Hình 5 Cấu trúc các điểm lưới trong mạng vòng
Cấu trúc các điểm lưới trong mạng vòng được thể hiện trong hình 5. Tại một điểm
lưới, mối quan hệ giữa biến số Zj (cả mực nước hj và lưu lượng Qj) tại chính điểm đó và
tại các điểm lân cận được thể hiện bằng phương trình tuyến tính sau:
j
n
jj
n
jj
n
jj
ZZZ






1
1
11
1
(6)
Từ giờ trở đi ta quy ước các chỉ số dưới của các thành phần trong phương trình
biểu thị vị trí dọc theo nhánh, và chỉ số trên chỉ khoảng thời gian. Các hệ số , ,  và 
trong phương trình 6 tại các điểm h và tại các điểm Q được tính bằng sai phân hiện đối
với phương trình liên tục và với phương trình động lượng. Tất cả các điểm lưới theo
phương trình 6 được thiết lập. Giả sử một nhánh có n điểm lưới; nếu n là số lẻ, điểm đầu

và cuối trong một nhánh luôn luôn là điểm h. Điều này làm cho n phương trình tuyến tính
có n+2 ẩn số. Hai ẩn số chưa biết là do các phương trình được đặt tại điểm đầu và điểm
cuối h, tại đó Zj-1và Zj+1 là mực nước, theo đó phần đầu/cuối của nhánh phân/nhập lưu
được liên kết với nhau.
I.2.4. Phương pháp đánh giá tổng hợp trên quan điểm hệ thống: để xác định nguyên
nhân tác động của các yếu tố mặt đệm đến việc hình thành, diễn biến tài nguyên nước trên
lưu vực cũng như các dạng thiên tai liên quan.
I.3. CƠ SỞ TÀI LIỆU
I.3.1. Mạng lưới trạm quan trắc khí tượng
Mạng lưới trạm đo mưa trên lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn được hình thành vào
những đầu thế kỷ XX (trạm Đà Nẵng được xây dựng từ 1931) và số liệu của trạm này bị
gián đoạn bởi chiến tranh. Cho đến nay trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và lân cận có 3 trạm
khí tượng: trạm Đà Nẵng, Trà My và Tam Kỳ. Ngoài các trạm còn 1 số trạm đo mưa nhân
dân được xây dựng từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, như vậy cho đến nay phần lớn các
trạm đo mưa có số liệu quan trắc trên 30 năm. Nhìn chung, chất lượng số liệu quan trắc
mưa là đáng tin cậy. Nhưng chất lượng số liệu quan trắc ở một số trạm đo mưa nhân dân
(do nhân dân quan trắc) hay trạm đo mưa dùng riêng còn bị hạn chế. Có thể thấy rằng


16
mật độ lưới trạm còn thưa, nhất là thiếu những trạm đo mưa và dòng chảy ở một số sông
nhánh. Đặc biệt, trong lưu vực chỉ có trạm Trà My ở thượng lưu sông Thu Bồn quan trắc
mưa bằng máy tự ghi (trạm Đà Nẵng cũng quan trắc mưa tự ghi nhưng ở hạ lưu), trang
thiết bị quan trắc, truyền tin còn lạc hậu, nên gây khó khăn cho công tác cảnh báo, dự báo
mưa, lũ ngập lụt.
Bảng 2: Mạng lưới các trạm đo khí tượng thuỷ văn
TT Tên trạm Tên sông Diện tích lưu
vực (km
2
)

Yếu tố quan trắc Số năm
quan trắc
1 Thành Mỹ Vũ Gia 1.850
Q, H, , X
23
2 Nông Sơn Thu Bồn 3.150
Q, H, , X
23
3 Sơn Giang Trà Khúc 2.440
Q, H, , X
22
9 Đà Nẵng X, T, U, Z, V 57
10 Trà My X, T, U, Z, V 33
11 Quảng Ngãi X, T, U, Z, V 65
12 Ba Tơ X, T, U, Z, V 31
13 Hội An Thu Bồn X 49
14 Giao Thuỷ Thu Bồn X, H 23
15 Câu Lâu Thu Bồn X, H 23
16 Ba Na X 17
17 Tiên Phước X 20
18 Cẩm Lệ Vu Gia X, H 23
19 Ái Nghĩa Vu Gia X, H 23
20 Thăng Bình X 17
21 Sơn Tân X 21
22 Hiên X 16
23 Quế Sơn X 20
24 Khâm Đức X 15
25 Phước Sơn X 14
26 Hội Khách X 15



17
27 Tam Kỳ X 21
28 Sơn Giang X 22
29 Trà Khúc X 22
30 Ba Tơ X 22
31 Giá Vực X 21
32 Trà Bồng X 22
33 An Hoà X 14
34 An Chỉ X 22
35 Mộ Đức X 22
36 Sơn Hà X 22
Ghi chú: H mực nước, Q lưu lượng,  phù sa,
X mưa, T nhiệt độ, Z bốc hơi, U độ ẩm, V tốc độ gió.
I.3.2. Mạng lưới trạm quan trắc thủy văn
Có thể thấy được mạng lưới sông suối dải duyên hải miền Trung nói chung và trên
lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn tương đối dày, quy luật biến đổi rất phức tạp nhưng
mạng lưới trạm quan trắc thủy văn trên sông rất thưa thớt. Sự phân bố trạm đo chưa đặc
trưng theo không gian và không đồng nhất về thời gian quan trắc. Do chiến tranh nên thời
gian bắt đầu quan trắc của các trạm thủy văn trên lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn đều từ
sau năm 1975, ổn định hoạt động từ năm 1977. Với quy hoạch mạng lưới trạm quan trắc
đài trạm của Tổng cục Khí tượng Thủy văn năm 1987, số lượng các trạm thủy văn trên
lưu vực giảm đi rất đáng kể.
Tính đến năm 2008 trên lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn có 7 trạm quan trắc thủy
văn trong đó có 2 trạm thủy văn hạng I, 5 trạm thủy văn hạng III:
- Trạm thủy văn hạng I (Nông Sơn và Thạnh Mỹ): Có nhiệm vụ theo dõi diễn biến
của chế độ thủy văn nước sông liên tục. Tổ chức đo tối thiểu các yếu tố như mực nước,
nhiệt độ nước, nhiệt độ không khí, lượng mưa, lưu lượng nước và lượng phù sa lơ lửng.
- Trạm thủy văn hạng III (Giao Thủy, Câu Lâu, Hội An, Cẩm Lệ, Ái Nghĩa): Tổ
chức đo đạc các yếu tố như mực nước, nhiệt độ nước, nhiệt độ không khí, lượng mưa.



18
II. ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN TÁC ĐỘNG HÌNH THÀNH DÒNG
CHẢY CỰC ĐOAN TRÊN LƯU VỰC SÔNG VU GIA – THU BỒN
II.1. ĐẶC ĐIỂM KHÍ HẬU
Nằm ở Trung Bộ, cho nên cũng như các nơi khác ở nước ta, khí hậu ở lưu vực hệ
thống sông Vu Gia - Thu Bồn cũng mang đặc điểm chung là khí hậu nhiệt đới gió mùa.
Nhưng lưu vực nằm ở ngay phía nam dãy Bạch Mã và sườn phía đông dãy Trường Sơn,
các đồi núi cao bao bọc ở phía bắc, tây và nam còn phía đông là biển, cho nên khí hậu
trong lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn có những đặc điểm dưới đây:
Số giờ nắng: Số giờ nắng trung bình năm từ dưới 1800giờ ở vùng núi cao đến
2260 giờ tại Đà Nẵng. Số giờ nắng trung bình của từng tháng là 200 - 255giờ trong mùa
hè và dưới 150 giờ trong mùa đông. Tháng 7 là tháng có số giờ nắng trung bình cao nhất,
tháng 12 có số giờ nắng thấp nhất.
Nhiệt độ không khí: Nhiệt độ không khí trung bình năm vào khoảng 24 - 26
0
C, có
xu thế cao ở vùng đồng bằng ven biển và thấp ở miền núi - giảm theo sự tăng của độ cao
địa hình. Nhiệt độ không khí cũng biến đổi theo mùa. Nhiệt độ trung bình tháng biến đổi
trong phạm vi 25 - 30
0
C. Tháng 6 hoặc 7 là tháng có nhiệt độ không khí trung bình tháng
cao nhất (trên 29
0
C). Tháng 1 là tháng có nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất. Nhiệt độ
không khí tối cao tuyệt đối đạt tới trên 35
0
C. Nhiệt độ không khí tối thấp tuyệt đối dưới
15

0
C.
Độ ẩm không khí tương đối: Độ ẩm không khí tương đối trung bình năm khoảng
80-90%, thấp ở đồng bằng ven biển, cao ở miền núi. Độ ẩm tương đối trung bình tháng
tương đối cao trong các tháng mùa đông xuân (từ tháng 9 đến tháng 4) và thấp trong các
tháng cuối mùa hè đầu mùa thu (tháng 5 - 8), thấp nhất vào tháng 5, có thể chỉ đạt 40%.
Lượng mây tổng quan: Lượng mây tổng quan trung bình năm biến đổi trong phạm
vi 6,5-8,2 phần mười. Lượng mây tổng quan trung bình tháng ít thay đổi trong năm. Tuy
vậy, trong các tháng từ cuối mùa xuân đến đầu mùa thu (3 - 7) lượng mây tương đối thấp,
riêng tháng 6 tương đối lớn do có mưa do gió mùa tây nam gây nên.
Tốc độ gió: Tốc độ gió trung bình năm từ 0,8m/s tại Trà My đến 1,8m/s tại Tam
Kỳ. Nhìn chung, tốc độ gió phụ thuộc lớn vào điều kiện địa hình. Trong năm có 2 mùa
gió chính: gió mùa tây nam thường vào các tháng 5, 6, 7 với tần suất 20 - 30% mang theo
không khí nóng và khô; gió mùa đông bắc thịnh hành trong các từ tháng 11 đến tháng 2
mang theo không khí lạnh.
Tốc độ gió lớn nhất trong mùa đông có thể tới 15 - 25m/s với hướng bắc hoặc
đông bắc, trong mùa hè có thể tới 20 - 35m/s, thậm chí 40m/s và thường do bão gây nên.
Bốc hơi: Lượng bốc thoát hơi tiềm năng trung bình năm từ khoảng trên dưới


19
1000mm ở vùng núi cao đến gần 1500m ở vùng đồng bằng ven biển. Trong các tháng
mùa hè thu (3 - 10), lượng bốc hơi tiềm năng trung bình tháng đều lớn hơn 100mm, lớn
nhất vào tháng 5 (120 - 130mm ở miền núi, 150 - 160mm ở đồng bằng). Trong mùa đông
xuân, lượng bốc hơi tiềm năng trung bình tháng vào khoảng 50 - 100mm, thấp nhất vào
tháng 12 (50 - 70mm).
Bảng 1: Đặc trưng trung bình tháng, năm của các yếu tố khí tượng
Trạm
Giá trị trung bình tháng
Năm

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Số giờ nắng (giờ)
Đà Nẵng 141,5

140,7

187,7

208,3

243,9

239,2

255,0

218,9

177,2

146,9

121,4

102,3

2200,6

Tam Kỳ 138,6


151,9

211,4

223,5

257,8

235,8

254,0

230,3

197,2

157,0

109,0

88,9

2255,4

Trà My 114,8

136,9

190,6


196,2

213,5

193,2

209,4

197,5

156,5

121,4

76,0

64,2

1874,0

Nhiệt độ không khí trung bình (oC)
Đà Nẵng 21,4

22,3

24,1

26,4

28,3


29,3

29,3

28,9

27,5

25,9

24,1

22,1

25,8
Tam Kỳ 21,4

22,6

24,4

26,7

28,1

28,8

28,9


28,6

27,2

25,5

23,8

21,7

25,6
Trà My 20,6

22,0

24,1

26,1

26,8

26,9

26,9

26,9

25,7

24,2


22,4

20,6

24,4
Độ ẩm không khí tương đối trung bình (%)
Đà Nẵng 84 84 83 83 79 76 75 77 82 84 85 85 81
Tam Kỳ 87 87 84 82 79 77 76 77 83 86 88 88 83
Trà My 89 87 84 82 84 84 84 84 88 90 93 92 87
Lượng mây tổng quan (phần mười)
Đà Nẵng 7,2 7,0 6,7 6,8 6,7 7,1 6,8 7,3 7,3 7,4 7,7 7,6 7,1
Tam Kỳ 7,3 6,7 5,8 6,1 6,0 6,5 6,2 6,7 7,2 7,4 8,0 8,3 6,8
Trà My 8,2 7,6 6,6 6,3 6,6 7,1 6,7 7,4 7,6 8,2 8,7 8,9 7,5
Tốc độ gió (m/s)
Đà Nẵng 1,5 1,8 1,9 1,7 1,6 1,2 1,3 1,2 1,4 1,7 2,1 1,6 1,6
Tam Kỳ 1,5 1,5 1,7 1,8 1,9 1,9 1,8 1,8 1,8 1,9 2,4 1,8 1,8
Trà My 0,8 1,0 1,0 0,9 0,8 0,8 0,7 0,7 0,7 0,8 0,7 0,6 0,8
Bốc thoát hơi tiềm năng (mm)
Đà Nẵng 80,7

86,7

121,0

134,9

155,5

152,3


158,6

151,5

126,8

107,9

91,0

73,0

1439,8

Tam Kỳ 77,0

86,8

126,1

140,1

160,5

155,8

163,5

157,5


134,0

106,4

82,6

71,4

1461,6

Trà My 62,0

74,4

107,6

119,0

128,0

119,7

124,0

121,7

102,5

83,4


59,0

51,3

1152,5




20
Lượng mưa:
Nằm trong khu vực Trung Bộ, chịu ảnh hưởng thuần tuý của khí hậu Đông Trường
Sơn, mưa trên tỉnh Quảng Nam tương đối phong phú, trung bình đạt 2612mm (tương ứng
với 27 tỷ m
3
nước mưa). Do có sự phân mùa khí hậu nên (70 – 75%) lượng mưa cả năm tập
trung trong các tháng 9 - 12.
Nhìn chung lượng mưa tăng dần từ bắc – nam , từ vùng có địa hình thấp đến địa
hình cao. Theo hướng Nam – Bắc, trạm Trà My, Nông Sơn, Thạnh Mỹ có lượng mưa
năm trung bình nhiều năm lần lượt là 4066mm, 2895mm và 2239mm; Trạm Đà Nẵng, ở
khu vực đồng bằng có lượng mưa trung bình năm là 2236mm, trong khi đó ở vùng núi
cao, trạm Nông Sơn lượng mưa trung bình năm đạt 2895mm, Giao Thuỷ đạt 2452mm.
Tóm lại, thượng lưu các sông ở khu vực miền núi phía tây và tây nam tỉnh Quảng Nam có
lượng mưa lớn nhất (trên 3000mm), lớn nhất ở khu vực Trà My. Vùng đồng bằng ven
biển có lượng mưa trung bình năm khoảng 2000 - 2400mm). Đặc biệt, lượng mưa năm
1998 tại khu vực hồ Phú Ninh đạt tới 7055mm
Bảng 4: Lượng mưa tháng, năm trong lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn
Trạm
Lưu lượng trung bình tháng, m

3
/s
Năm
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Đà Nẵng 76,2

24,6

19,3

28,9

84,2

90,9

89,9

110,9

320,0

641,2

413,5

189,2

2088,7


Ái Nghĩa 82,4

19,0

24,1

50,0

138,1

143,8

81,0

115,8

278,9

612,2

566,7

198,6

2310,7

Hội An 71,4

40,7


21,2

36,9

91,3

97,0

66,6

91,9

341,4

612,4

495,6

244,5

2211,0

Hội Khách 48,7

19,3

25,7

94,3


213,9

203,6

137,2

139,3

315,9

498,3

471,1

130,6

2298,0

Thạnh Mỹ 32,5

18,1

26,0

82,0

248,9

223,9


150,0

155,6

275,1

521,9

373,5

96,3

2203,7

Thăng Bình 54,8

20,6

20,1

27,4

89,4

102,8

66,8

110,2


248,5

548,4

410,2

178,8

1878,2

Trao 18,1

15,7

30,9

92,9

223,8

196,0

130,5

124,8

275,1

513,5


286,0

104,6

2012,0

Tam Kỳ 115,4

46,3

41,2

50,2

97,3

100,2

72,4

89,3

344,5

691,1

616,3

364,7


2629,0

Khâm Đức 57,3

24,1

36,4

70,1

145,0

101,8

58,6

94,5

341,3

852,9

772,7

263,3

2818,2

Nông Sơn 61,8


33,8

29,4

78,5

234,2

216,4

157,9

155,9

340,6

683,3

610,0

268,3

2870,2

Quế Sơn 74,0

26,0

18,7


41,9

157,0

173,7

92,6

143,2

319,5

658,0

556,7

235,4

2496,7

Trà My 119,1

61,6

58,5

93,4

271,5


233,3

175,8

185,2

405,8

944,7

977,3

440,8

3967,0

Tiên Phước 75,3

36,5

33,5

67,0

199,2

126,1

85,3


107,9

353,7

811,8

753,2

412,1

3061,6



21
Phân phối lượng mưa có tính biến động rất mạnh mẽ với hệ số biến động lượng
mưa năm Cv
năm
dao động từ 0,25 – 0,30. Trong năm lượng mưa cũng biến đổi theo mùa:
Mùa mưa và mùa khô (mùa ít mưa). Mùa mưa hàng năm thường xuất hiện vào các tháng
9 - 12 và chiếm tới 60 - 80% tổng lượng mưa năm, còn trong mùa khô chỉ chiếm 20 -
40%. Trong mùa khô, tháng 5, 6 hàng năm thường có mưa tiểu mãn. Trong năm tháng lớn
nhất gấp từ 15 – 20 lần lượng mưa tháng nhỏ nhất. Sự phân phối mưa năm bất điều hòa là
nguyên nhân gây các tai biến tự nhiên trên lưu vực sông.
II.1.1. Đặc điểm khí hậu trong mùa mưa gây lũ lớn và ngập lụt
Một trong những yếu tố khí hậu quan trọng nhất tác động đến dòng chảy lũ và
ngập lụt là mưa lớn, đặc biệt là mưa cực đại và thời gian tập trung mưa.
Mưa lớn ở dải duyên hải miền Trung nói chung và ở tỉnh Quảng Nam nói riêng là
hệ quả tổng hợp của 3 nhân tố: luồng gió Đông dày với hàm lượng ẩm cao; các nhiễu
động khí quyển quy mô lớn và tác động động lực mạnh mẽ của địa hình Trường Sơn. Cả

ba nhân tố nêu trên đều rất quan trọng nhưng mưa lớn chỉ xảy ra khi có nhiễu động khí
quyển, chủ yếu là các vùng gió xoáy (bão, ATNĐ), dải hội tụ nhiệt đới (HTNĐ) và front
lạnh. Với các dạng hình thế thời tiết gây mưa lớn ở đây lượng mưa ngày có thể đạt tới
200 - 300mm thậm chí là 500mm. Trong vòng 10 năm gần đây, đã xuất hiện những trận
mưa rất lớn với giá trị lượng mưa ngày lớn nhất vào loại kỷ lục trong chuỗi quan trắc. Giá
trị lượng mưa ngày lớn nhất tương ứng với tần suất 1% (X
max
ngày1%) trong lưu vực đạt
tới 900mm.
Với các hoạt động của các hình thế thời tiết khác nhau, việc hình thành mưa (cả về
lượng lẫn phân bố mưa theo không gian, vị trí trung tâm mưa) cũng là nguyên nhân gây lũ
lớn và ngập lụt các lưu vực sông vùng nghiên cứu. Các lưu vực trải dài từ vùng núi xuống
vùng đồng bằng nên mưa xuất hiện không đều trên toàn lưu vực. Nếu tâm mưa nằm ở khu
vực thượng nguồn và trung lưu thường xảy ra lũ quét nhưng khả năng ngập lụt vùng hạ
du không cao so với nếu tâm mưa nằm ở phần trung lưu xuống hạ lưu. Trên cơ sở phân
tích trên cho thấy, lũ lụt đặc biệt lớn, lũ lụt lịch sử trên lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn
trong thời gian qua do mưa rất to, đặc biệt to dưới tác động của bão, áp thấp nhiệt đới
(ATNĐ); của bão hoặc bão và ATNĐ đổ bộ liên tiếp; của bão và ATNĐ có tác động của
không khí lạnh (KKL) và tác động của KKL lên rìa phía bắc của dải HTNĐ. Tác động
đơn lẻ của các hình thế thời tiết khác hoặc tổ hợp của chúng đều chưa thấy gây ra lũ lụt
đặc biệt lớn lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn.
Đặc điểm hoạt động của các hình thế thời tiết gây mưa lớn chính trên lưu vực
sông Vu Gia - Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam
(1). Trường hợp bão hoạt động riêng rẽ (dạng A)
Thời gian bão đổ bộ vào chủ yếu từ tháng 7 - 12, khoảng 30% số cơn bão là bão


22
mạnh, trong đó có 50% là bão rất mạnh. Lượng mưa không quá lớn, thời gian không quá
dài chỉ khoảng 200mm đến 400 mm trong 4 đến 5 ngày. Thời gian duy trì gió mạnh khác

nhau rất nhiều giữa các cơn bão có thể chỉ một vài giờ, có thể tới 15 - 20 giờ đối với
những cơn bão mạnh, di chuyển chậm. Trước khi bão tới thời gian gió mạnh dài hơn 2 lần
so với thời gian gió mạnh sau cơn bão. Bão thường kèm theo mưa lớn, lượng mưa thời
gian mưa và diện mưa khác nhau rất nhiều giữa các cơn bão, tùy thuộc vào cường độ bão,
hướng di chuyển của bão.
Nói chung bão vào khu vực nào thì gây lũ lớn ở khu vực đó, tuy nhiên hướng đổ
bộ hoặc sự kết hợp của hình thế thời tiết khác thì khu vực phía dưới hoặc phía trên vẫn có
lũ lớn. Do ảnh hưởng của địa hình, phía Tây có dãy núi cao chạy gần dãy Trường sơn.
Chế độ mưa phụ thuộc vào hướng di chuyển và tốc độ di chuyển của bão. Bão vào nhanh
thì hướng Tây ít mưa, bão vào chậm theo hướng tây tây nam thì mưa kéo dài. Ví dụ như
bão đổ bộ vào lưu vực Vu Gia - Thu Bồn ngày 6/9/1982 và ngày 25/5/1989 lượng mưa là
400mm, tâm mưa ở Huế và Đà nẵng gây nên mực nước đỉnh lũ tại Câu Lâu là 367cm.
(2) Trường hợp bão hoạt động kết hợp với KKL hoặc sau khi bão vào 12 đến 24 giờ vẫn
còn KKL xâm nhập (dạng B1)
Vào cuối tháng 9, đã có không khí lạnh ảnh hưởng đến miền Trung. Bản thân bão
là một hệ thống thời tiết nóng ẩm với dòng thăng mạnh mẽ, khi có tác động kết hợp với
không khí lạnh ở phía Bắc thì phân bố mưa sẽ khác biệt với trường hợp bão vào đơn độc,
lũ xảy ra cũng ác liệt hơn, nhất là từ Nam đèo Ngang trở vào. Bão hoặc ATNĐ kết hợp
với không khí lạnh thường gây mưa rất lớn ở khu vực miền Trung. Khu vực mưa lớn lan
rất rộng, ở tâm mưa đạt 500 - 600mm, có khi trên 1000mmm và thường ở cách xa nơi đổ
bộ của bão từ 2,5 đến 5,5 vĩ độ.
(3) Trường hợp bão vào sau khi có ảnh hưởng của không khí lạnh (dạng B2)
Bão chỉ có thể duy trì và phát triển trong điều kiện nóng ẩm, khi nhiệt độ nước
biển trên 27
o
C. Khi có không khí lạnh cường độ mạnh xâm nhập vào bão, bão sẽ suy yếu
nhanh, có khi tan ngay trên biển. Ví dụ cơn bão ngày 12/11/1988 tan ở bờ biển Quảng
Nam - Đà Nẵng. Tuy vậy nó vẫn có thể gây mưa lớn, diện hẹp, lũ lớn có thể xảy ra riêng
biệt ở một vài sông
(4) Trường hợp bão đổ bộ vào liên tiếp, kết hợp với không khí lạnh (dạng C)

Các cơn bão cách nhau 4 đến 5 ngày gây mưa lớn, diện rộng và dài ngày. Lượng
mưa có nơi tới 1000mm hoặc 1500mm trong hơn chục ngày. Lượng mưa 1 ngày có thể
tới 400mm đến 500mm. Đây là trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, gây mưa lớn và lũ lớn
trên diện rộng: Bốn cơn bão đổ bộ liên tiếp vào miền Trung từ Quảng Bình đến Tuy Hoà
trong vòng 3 tuần từ 9/10 đến 29/10/1983. Ba cơn bão đầu gây mưa lũ vừa. Trước cơn
bão thứ 3 có ảnh hưởng của không khí lạnh, tiếp đến cơn bão thứ 4 (ATNĐ) đổ bộ vào


23
Tuy Hoà ngày 29/10 đã gây mưa rất lớn giữa hai khu vực đổ bộ của cơn bão thứ 3 và thứ
4. Trung tâm mưa trên 1000mm tại Huế và Quảng Ngãi. Lũ trên mức BĐIII xuất hiện
đồng thời trên các sông từ Huế đến Qui Nhơn. Năm 1978 cũng có 3 cơn bão đổ bộ liên
tiếp trong 11 ngày từ 15 - 26/9/1978 trên phạm vi hẹp giữa Quảng Bình và Quảng Nam
Đà Nẵng: 159/1978 bão số 7 vào Quảng Nam – Đà Nẵng, 20/9/1978 bão số 8 vào Huế -
Đà Nẵng, hai trận này gây mưa ở Miền Trung Trung Bộ từ 11 đến 23/9 tâm mưa lớn hơn
1000mm ở Thừa Thiên Huế, vùng mưa 400 - 600mm bao trùm phía Nam Nghệ Tĩnh đến
Huế. Tiếp theo là cơn bão số 9 đổ bộ vào vùng Hà Tĩnh, Quảng Bình ngày 25/9 gây mưa
lớn ở Đô Lương, Kỳ Anh 1281mm trong 3 ngày 25-28/9/1978. Lũ ở các sông Cả, Gianh,
sông Hương đều ở mức BĐ III.
(5) Ảnh hưởng của không khí lạnh và không khí lạnh kết hợp với hoạt động của dải hội tụ
nhiệt đới
- không khí lạnh ảnh hưởng đến miền Trung bắt đầu từ tháng 9 nhưng mạnh nhất
là trong tháng 10,11. Mưa nhiều kéo dài 3 - 4 ngày, có khi 10 đến 11 ngày. Trung tâm
mưa lại thay đổi, có khi ở Nghệ An, Thừa Thiên, có khi vào tận Bình Định. Đợt mưa lớn
kéo dài 11 ngày từ 6 - 16/11/1981 trung tâm mưa ở Quảng Trị chỉ lớn hơn 650mm, ở
Bình Định 762mm đã gây ra lũ lớn vượt BĐ III Trên các sông từ Huế đến Tuy Hoà. Hai
đợt không khí lạnh vào ngày 23 - 28/10/1981 đã gây mưa lớn trong 9 ngày từ 22 - 30/X
trên một diện rộng từ Huế đến Tuy Hoà hơn 500mm. Trên các sông Hương, Thu bồn,
Kone đều xuất hiện lũ vượt BĐ III. Tại Đà Nẵng mưa do ảnh hưởng của không khí lạnh
từ ngày 12 - 17/11/1983 gây nên mực nước lũ tại Câu Lâu là 412cm.

Tóm lại: Bão, ATNĐ hay không khí lạnh dù hoạt động riêng lẻ hay kết hợp hoạt
động đều có thể gây ra mưa lớn, lũ lớn trên mức báo động III trên sông Vu Gia Thu Bồn,
bão đổ bộ vào đồng thời với không khí lạnh hoặc sau bão có không khí lạnh thì mưa lũ
lớn hớn trường hợp bão vào sau không khí lạnh, lũ xảy ra đồng bộ hơn. Ngoài ra không
khí lạnh hoạt động kết hợp với hoạt động của giải hội tụ nhiệt đới là một hình thế nguy
hiểm có thể mưa to đến rất to gây lũ lớn trên các sông.
Mưa gây lũ: Như trên trình bày, đối với lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn, các hình
thế thời tiết chính gây ra mưa lũ là: bão, ATNĐ, không khí lạnh, dải HTNĐ. Đặc điểm
riêng biệt là các trận lũ lụt lớn, lũ lụt lịch sử chỉ xảy ra khi có tác động tổ hợp của bão,
ATNĐ với không khí lạnh. Lũ lụt lớn do mưa bão, ATNĐ hoặc bão, ATNĐ kết hợp với
không khí lạnh chiếm 73%; do không khí lạnh kết hợp với các dạng hoàn lưu khác - 21%
tổng số trận.
Quy luật xuất hiện các nhiễu động thời tiết trên dải ven biển Việt Nam nói chung
và dải ven biển tỉnh nói riêng khá phức tạp. Theo các thống kê nhiều năm cho thấy trong
những năm gần đây đặc biệt trong hai thập kỷ 80 và 90 số lượng các nhiễu động thời tiết
tăng rất đáng kể trên dải ven biển Việt Nam đồng thời tỷ trọng phân bố trên từng đoạn dải


24
ven biển cũng thay đổi. Nếu như trong các thập kỷ trước bão và ATNĐ đổ bộ chủ yếu vào
dải ven biển Bắc Bộ thì trong những năm gần đây số lượng bão và ATNĐ đổ bộ vào dải
ven biển miền Trung đặc biệt khu vực Nam Trung bộ gia tăng một cách đáng kể (thường
chiếm tới 64,3% số cơn bão đổ bộ vào bờ biển Việt Nam). Thêm vào đó cấp độ của các
cơn bão cũng lớn hơn nhiều so với trước đây, các cơn bão làm nước biển dâng cao trên
2m chiếm 11% số lượng cơn bão đổ bộ vào dải ven biển Nam Trung bộ. Hàng năm bão
thường xuất hiện vào các tháng từ (4 - 12) nhưng chủ yếu tập trung vào tháng 10, 11.
* Theo thống kê, trung bình hàng năm có 4 cơn bão và 4 áp thấp nhiệt đới ảnh
hưởng đến khu vực miền Trung, chiếm 65% tổng số cơn bão và áp thấp nhiệt đới ảnh
hưởng đến nước ta, trong đó 26,2% ở khu vực Quảng Bình - Thừa Thiên Huế, 20,4 % ở
khu vực Đà Nẵng - Bình Định. Theo thống kê, từ năm 1975 đến 1999 đã có 102 cơn bão

và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến trung và nam Trung Bộ. Bão ảnh hưởng đến khu vực
Miền Trung đều có thể gây mưa ở Đà Nẵng - Quảng Nam. Bão ảnh hưởng nhiều nhất vào
các tháng 9, 10, 11 (chiếm 70%). Đặc biệt, không ít trường hợp một số cơn bão hay áp
thấp nhiệt đới đổ bộ liên tiếp vào miền Trung trong một thời gian ngắn, gây ra mưa lũ đặc
biệt lớn trên diện rộng. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê chưa thấy bão đổ bộ trực tiếp vào
đồng bằng sông Vu Gia - Thu Bồn gây ra mưa lũ lớn. Số liệu quan trắc trong thời kỳ 1975
- 2008 cho thấy, lượng mưa tháng lớn nhất tại Trà My đạt tới 1894mm (10/1981);
1716mm (11/1985); 1495mm (11/1999). Lượng mưa ngày lớn nhất ứng với tần suất 5%
đạt tới 800 - 1000mm ở thượng lưu, 500 - 700mm ở hạ lưu. Nhìn chung, mưa giảm dần từ
thượng lưu xuống hạ lưu. Trong gần 40 năm qua, trận lũ 11/1964 là lớn nhất, trận lũ này
do bão gây ra. Trong vòng 13 ngày từ 4 đến 16/11/1964 đã có 3 cơn bão liên tiếp đổ bộ
vào Quy Nhơn, Tuy Hoà, Nha Trang kết hợp với không khí lạnh gây ra trận mưa lũ rất
lớn trên các sông suối Miền Trung, một số sông như sông Vu Gia - Thu Bồn, Trà Khúc,
Vệ xuất hiện lũ lịch sử.
- Từ 9 đến 29/9/1983, đã có 3 cơn bão và 1 áp thấp nhiệt đới đổ bộ vào khu vực từ
Quảng Bình đến Tuy Hoà, gây ra lũ rất lớn ở các sông, nhất là ở các sông Hương.
- Trong vòng 18 ngày, từ 16/10 đến 3/11/1996 đã có 2 cơn bão và 1 áp thấp nhiệt
đới tác động vào khu vực Đà Nẵng - Bình Định.
- Khi bão và áp thấp nhiệt đới đơn thuần ảnh hưởng trực tiếp đến khu vực thường
gây ra mưa với lượng mưa 120 - 200mm trong thời gian 2 ngày; tổng lượng mưa lớn nhất
trong một đợt có thể tới 300 - 400mm ở đồng bằng và 500 - 600mm ở miền núi hoặc lớn
hơn. Thí dụ cơn bão Frit 2 hoạt động ngoài khơi Quảng Nam - Quảng Ngãi trong các
ngày 16 - 26/9/1997 đã gây ra mưa từ 400mm đến hơn 800mm (Huế 525mm, Đà Nẵng
528mm, Trà Bồng 848mm).
* Không khí lạnh tràn từ phía bắc xuống cũng gây ra mưa trên diện rộng với
lượng mưa 100 - 200mm, có khi trên 300mm. Đặc biệt, sự kết hợp tác động giữa không

×