Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Quy chế pháp lý các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia được hình thành trên cơ sở sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.39 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Biển và đại dương chiếm hơn 71% diện tích bề mặt hành tinh mà chúng ta
đang sống. Ngay từ thời cổ đại, loài người đã biết sử dụng và khai thác biển phục
vụ cho các nhu cầu sinh hoạt và đời sống của mình. Cho tới ngày nay, với sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, các hoạt động mọi mặt trên biển đã
được triển khai một cách mạnh mẽ, rộng rãi, quy mô ngày càng lớn. Lợi ích của
biển và đại dương đem đến cho các nước ven biển ngày càng có ý nghĩa quan
trọng và đa dạng, từ đó các mâu thuẫn về biển cũng ngày càng nảy sinh và diễn
ra gay gắt, đặc biệt về mặt kinh tế và quân sự. Vì vậy, một nhu cầu rất thiết thực
được đặt ra là cần có công ước quốc tế để điều chỉnh các mối quan hệ về biển.
Sau Đại chiến thế giới thứ hai, quá trình pháp điển hoá của Luật biển phát triển
mạnh thông qua ba hội nghị lớn của Liên hợp quốc vào các năm 1958, 1960 và
năm 1973 – 1982. Trong các hội nghị đó, nhiều vấn đề pháp lý về biển được đặt
ra trong thực tiễn quốc tế đã dần dần được giải quyết. Đặc biệt, với việc thông
qua Công ước 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển (Công ước 1982) tại
Môngtêgobay (Jamaica), ngày 10-12-1982, với 320 điều khoản, 17 phần và 9
phụ lục, Công ước thực sự là bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế, đề
cập toàn diện tất cả các vấn đề thuộc pháp lý, kinh tế, khoa học kỹ thuật, hợp tác,
giải quyết tranh chấp... Có thể nói, Công ước Luật biển 1982 chính là kết quả của
một cuộc đấu tranh gay go để giải quyết nhiều loại mâu thuẫn phức tạp khác
nhau về lợi ích giữa nhiều loại quốc gia, đặc biệt là trong các quy phạm về quy
chế pháp lý các vùng biển.Vì vậy, hoàn toàn đúng đắn khi có ý kiến cho rằng:
“Quy chế pháp lý các vùng biển theo quy định của Công ước Luật biển 1982
được hình thành trên cơ sở sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia”. Với việc
xem xét quy chế pháp lý các vùng biển theo quy định của Công ước Luật biển
1982, bài viết sau đây sẽ chứng minh cho nhận định trên.
1
NỘI DUNG
Như ta đã biết, biển và đại dương mang lại nguồn lợi rất lớn, không chỉ về
kinh tế mà biển còn có ý nghĩa vô cùng to lớn với nhiều mặt của đời sống xã hội.
Chính vì vậy mà có biển thực sự là một lợi thế lớn đối với các quốc gia ven biển.


Trên thế giới, các nước có biển, nhất là các nước lớn đều vươn ra biển, tăng
cường tiềm lực mọi mặt để khai thác và khống chế biển. Tuy nhiên, bên cạnh
những quốc gia ven biển, trên thế giới tính đến năm 2008 có tổng cộng 45 quốc
gia không giáp biển. Vậy, những quốc gia không giáp biển có được hưởng lợi ích
từ biển hay không? Công ước Luật biển 1982 với việc định ra khung pháp lý cho
các quốc gia trong việc xác định các vùng biển và quy chế pháp lý của chúng, đã
cho phép các quốc gia không có biển được hưởng một số quyền nhất định. Theo
Công ước, mỗi quốc gia ven biển có năm vùng biển, bao gồm: nội thuỷ, lãnh hải,
vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Ngoài năm vùng
biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia ven biển thì Công ước còn
quy định các vấn đề về biển cả và vùng (di sản chung của loài người) trên đó tất
cả các quốc gia đều có quyền sử dụng, khai thác... với điều kiện không làm
phương hại hoặc đe doạ làm phương hại đến các nước khác vì mục đích hoà bình
và bảo vệ, giữ gìn môi trường biển. Quy chế pháp lý đối với mỗi vùng biển có sự
khác nhau, nhưng đều được hình thành trên cơ sở sự dung hoà về lợi ích giữa các
quốc gia, dù có biển hay không có biển.
I. Quy chế pháp lý các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia được hình
thành trên cơ sở sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia
Các quốc gia ven biển có chủ quyền đối với vùng nước nội thuỷ và lãnh
hải của mình cũng như đối với vùng trời bên trên, vùng đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển bên dưới các vùng nước đó. Chủ quyền của quốc gia ven biển là
quyền tối cao của quốc gia được thực hiện trong phạm vi vùng biển của quốc gia
đó. Công ước Luật biển 1982 quy định rất rõ tính chủ quyền đối với hai vùng
2
biển này. Tuy vậy, quy chế pháp lý đối với nội thuỷ và lãnh hải vẫn cho phép các
tàu thuyền của các quốc gia khác được quyền “đi qua không gây hại” ở mức độ
nhất định. Điều đó đã thể hiện bên cạnh tính chất chủ quyền quốc gia, quy chế
pháp lý hai vùng biển này đã thể hiện sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia.
1. Nội thuỷ:
Theo quy định của Điều 8 Công ước Luật biển 1982, nội thuỷ là “các

vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải”. Một
quốc gia có thể có một hay nhiều vùng nước nội thuỷ với các chế độ pháp lý
khác nhau như nội thuỷ thông thường và nội thuỷ trong đó quyền đi qua không
gây hại của tàu thuyền được tôn trọng.
Nội thuỷ thông thường là các vùng nước nằm bên trong đường cơ sở dùng
để tính chiều rộng lãnh hải, giáp với bờ biển như vịnh, cửa sông, vũng đậu tàu...
Các vùng nước nội thuỷ này được coi như đất liền và tại đó, quốc gia ven biển
thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ. Ở đây, mọi sự ra vào của tàu
thuyền hay phương tiện bay nước ngoài trên vùng trời nội thuỷ đều phải xin
phép. Ngoài nội thuỷ thông thường, theo khoản 2 Điều 8 Công ước 1982, còn có
nội thuỷ mà trong đó tồn tại quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước
ngoài. Đó là các vùng nước có các đường hàng hải quốc tế đi qua mà vốn trước
đó chưa được coi là nội thuỷ nhưng do việc vạch đường cơ sở thẳng, vùng này
đã bị gộp vào nội thuỷ. Quy chế về quyền đi qua không gây hại đối với vùng
nước nội thuỷ này chính là một biểu hiện của sự dung hoà về lợi ích giữa các
quốc gia. Mặc dù nội thuỷ có quy chế pháp lý như đất liền của quốc gia ven biển,
nhưng với quy định của Công ước, tàu thuyền của các quốc gia khác (kể cả có
biển hay không có biển) vẫn được phép đi qua không gây hại trên vùng nước bị
gộp vào nội thuỷ này. Quy định này vừa đảm bảo tính chủ quyền tuyệt đối của
quốc gia ven biển, vừa đảm bảo quyền lợi cho các quốc gia khác khi cần lưu
thông trên biển.
3
2. Lãnh hải:
Theo quy định chung của luật biển, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn
toàn và đầy đủ đối với vùng lãnh hải của nước mình. Chủ quyền này không phải
là hoàn toàn và tuyệt đối như đối với vùng nội thuỷ của quốc gia ven biển, do
việc cộng đồng quốc tế đã thừa nhận quyền “đi qua không gây hại” của tàu
thuyền nước ngoài trong vùng lãnh hải. Quyền này đã được ghi nhận tại Điều 17
Công ước – là một quy chế pháp lý điển hình đối với vùng lãnh hải của quốc gia
ven biển: “Với điều kiện phải chấp hành Công ước, tàu thuyền của tất cả các

quốc gia, có biển hay không có biển, đều được hưởng quyền đi qua không gây hại
trong lãnh hải”. Đi qua không gây hại, theo Công ước Luật biển 1982 là việc đi
qua nhưng không làm phương hại đến hoà bình, an ninh, trật tự hay lợi ích của
quốc gia ven biển. Các quốc gia ven biển không được phép đặt điều kiện cho các
tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải của mình phải xin phép hoặc thông báo
trước. Đi qua không gây hại tồn tại đồng thời với chủ quyền quốc gia trong lãnh
hải nhưng không làm mất đi chủ quyền đó. Như vậy, có thể thấy rằng, với việc
thừa nhận quyền qua lại không gây hại này, các quốc gia ven biển đã chấp nhận
quyền tự do qua lại của các quốc gia khác (kể cả quốc gia có biển và quốc gia
không có biển) trên vùng lãnh hải của mình. Tuy nhiên, quyền tự do ấy là “tự do
trong khuôn khổ”, khi nó không được làm phương hại đến hoà bình, an ninh, trật
tự hay lợi ích của quốc gia ven biển. Nói cách khác, quyền qua lại không gây hại
không làm ảnh hưởng đến chủ quyền của quốc gia ven biển đối với vùng lãnh
hải của mình. Theo truyền thống, qua lại không gây hại là một quyền mang tính
tập quán (vụ các hành động quân sự và bán quân sự tại Nicaragoa và chống lại
Nicaragoa ngày 27-6-1986). Vì lợi ích phát triển hàng hải quốc tế dựa trên cơ sở
tự nguyện, bình đẳng và có đi có lại, các quốc gia đã chấp nhận quyền qua lại vô
hại trong lãnh hải. Có thể thấy, chủ quyền quốc gia từ nội thuỷ ra lãnh hải giảm
dần và quyền của tàu thuyền nước ngoài từ nội thuỷ ra lãnh hải tăng dần. Sự tồn
4
tại của quyền đi qua không gây hại trên lãnh hải của tàu thuyền nước ngoài đã
thể hiện tính “hải” xuất phát từ nguyên tắc tự do biển cả. Đồng thời, tại lãnh hải,
quốc gia chỉ có quyền hạn chế, thể hiện tính “lãnh”. Như vậy, Công ước Luật
biển đã ghi nhận quyền đi qua không gây hại này dựa trên cơ sở tập quán quốc tế
đã có từ lâu đời về sự thoả thuận giữa các quốc gia, nhằm dung hoà lợi ích phát
triển kinh tế chung giữa quốc gia ven biển và các quốc gia khác (kể cả quốc gia
không có biển.
Hơn nữa, Công ước Luật biển 1982 còn quy định quyền tài phán hình sự
của quốc gia ven biển đối với một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải tại Điều 27.
Theo đó, quốc gia ven biển không được thực hiện quyền tài phán hình sự của

mình ở trên một tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải để tiến hành việc bắt giữ
hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trên con tàu trong
khi nó đi qua lãnh hải, trừ 4 trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 27 Công ước.
Quy định này của Công ước vừa bảo vệ quyền lợi về an ninh của quốc gia ven
biển, vừa đảm bảo thẩm quyền tài phán của quốc gia mà con tàu mang quốc tịch.
Qua đó, có thể thấy rõ sự dung hoà về lợi ích giữa các quốc gia này.
II. Quy chế pháp lý các vùng biển quốc gia có quyền chủ quyền và
quyền tài phán được hình thành trên cơ sở sự dung hoà về lợi ích giữa các
quốc gia
Trong Luật biển quốc tế hiện đại, mở rộng các vùng biển gần bờ đối với
các quốc gia ven biển là một xu hướng tất yếu. Nhưng xu hướng này được thực
hiện song song với yêu cầu không để ảnh hưởng thái quá đến các quyền tự do
truyền thống của cộng đồng quốc tế trong những vùng nước bị tác động bởi xu
thế mở rộng này. Đây là đòi hỏi mang tính pháp lý thiết thực trong quá trình
pháp điển hoá Luật biển quốc tế hiện đại. Nhằm bảo đảm sự dung hoà giữa xu
thế đòi duy trì các quyền tự do vốn có của cộng đồng quốc tế và xu thế tiến ra
biển của các nước ven bờ - đặc biệt là các nước đang phát triển, Công ước Luật
5
biển 1982 đã quy định chế độ pháp lý cho các vùng biển vốn thuộc về cộng đồng
quốc tế cũng như các vùng biển gần bờ mà tại đó quốc gia ven biển có những
quyền nhất định nhưng không phải là chủ quyền lãnh thổ. Đó chính là quy chế
pháp lý các vùng biển thuộc quyền chủ quyền quốc gia, bao gồm vùng tiếp giáp
lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
1. Vùng tiếp giáp lãnh hải:
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm ngoài lãnh hải và tiếp liền với
lãnh hải, tại đó quốc gia ven biển thực hiện các quyền có tính riêng biệt và hạn
chế đối với các tàu thuyền nước ngoài. Khoản 2 Điều 33 Công ước Luật biển
1982 quy định: “Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ
sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải”. Đây là bộ phận đặc thù của vùng đặc
quyền kinh tế. Vùng tiếp giáp là sản phẩm thoả hiệp giữa nhóm quốc gia đòi mở

rộng lãnh hải và nhóm quốc gia chống lại đòi hỏi đó. Quy chế pháp lý vùng tiếp
giáp được quy định trong Công ước Luật biển 1982 được hình thành trên cơ sở
sự dung hoà về lợi ích giữa hai nhóm quốc gia này. Điều đó được thể hiện ở đặc
quyền kiểm tra, kiểm soát của quốc gia ven biển đối với tàu thuyền đi ra, đi vào
và hoạt động trong nội thuỷ và lãnh hải và quyền tự do hàng hải, tự do hàng
không, tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm tại vùng tiếp giáp của các quốc gia
khác và tàu thuyền nước ngoài.
Nhằm phù hợp với xu thế mở rộng chủ quyền của nước ven biển, Công
ước Luật biển 1982 đã thừa nhận vùng tiếp giáp mang mang tính chất vùng đệm
vì nó không phải là vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia và cũng không phải là
vùng biển có quy chế tự do biển cả (khác với Công ước 1958 cho rằng vùng tiếp
giáp là một phần của biển cả). Công ước Luật biển 1982 đã cho phép các quốc
gia ven biển “có thể thi hành sự kiểm soát cần thiết” nhằm ngăn ngừa và trừng trị
những vi phạm đối với các luật và quy định hải quan, thuế khoá, y tế hay nhập
cư trên lãnh thổ hay lãnh hải của mình. Qua đó, quốc gia ven biển có thể thực
6

×