Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN Kinh nghiệm dạy học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.71 KB, 21 trang )

PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tầm quan trọng của đề tài.
Tiếng có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Tiếng là
đơn vị trung tâm của ngôn ngữ. Câu là đơn vị có thể thực hiện chức năng
giao tiếp. Vai trò của tiếng trong hệ thống ngôn ngữ quyết định tầm quan
trọng của dạy học luyện từ và câu ở bậc Tiểu học.
Dạy Luyện từ và câu nhằm mở rộng, hệ thống hoá làm phong phú vốn
từ của học sinh, cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về cấu tạo của
tiếng, rèn cho học sinh kĩ năng dùng âm, vần để ghép thành tiếng đặt câu và
sử dụng các kiểu câu để thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình, đồng thời có
khả năng hiểu và sử dụng các kiểu câu của người khác nói ra trong hoàn cảnh
giao tiếp nhất định. Luyện từ và câu có vai trò hướng dẫn học sinh trong việc
nghe, nói, đọc, viết, phát triển ngôn ngữ trí tuệ.
Tuy nhiên trong thực tế ở nhưng nơi vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc
thiểu số có hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn, việc dạy học Luyện từ và
câu gặp rất nhiều khó khăn vì các em học sinh trước khi bước vào ngưỡng
cửa của nhà trường phổ thông thì hầu hết các em chưa biết hoặc chưa có thể
nói được tiếng phổ thong một cách thành thạo như các vùng khác. Chính vì
vậy khi tiến hành dạy học đòi hỏi người giáo viên trước khi dạy chữ cho các
em là phải tiến hành dạy cho học sinh biết nghe, nói trước rồi mới dạy đọc và
viết. Việc dạy Luyện từ và câu là dạy cho các em hiểu những gì người khác
nói ra, viết ra và trước khi mình nói, viết ra một điều gì đó thì câu văn đó
phải có đầy đủ ý nghĩa, có chủ, có vị, tuy vậy ở nhưỡng nơi này các em học
sinh thường nói năng mang tính chất tự do nghĩ sao nói vậy, cho nên thường
khi nói câu nói thường hay sai lỗi chính tả.
Luyện từ và câu là một khái niệm mới đối với các em nên khi dạy người
1
thầy giáo phải thiết kế bải giảng hết sức công phu từ hệ thống câu hỏi, nội
dung bài tập đêu phải thiết kế làm sao đơn giản hơn, gọn nhẹ và dễ hiểu nhất


phù hợp với đối tượng học sinh, cần tạo hứng thú cho học sinh trong khí dạy,
cần có những biện pháp động viên khích lệ để học sinh nắm nội dung bài và
vận dụng vào thực tế một cách tốt nhất.
I. MỤC ĐÍCH NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Dạy học Luyện từ và câu là nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục và vốn
hiểu biết cho học sinh. Để đạt được mục đích đó đề tài đi giải quyết các
nhiệm vụ sau:
Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để dạy bài “Cấu tạo của tiếng” (TV4 tập 1)
1. Những đề xuất điều chỉnh nội dung dạy học bài “Cấu tạo của tiếng”
2. Thực nghiệm dạy học.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đề tài thành công trong quá trình nghiên cứu về dạy học Luyện từ và
câu cho học sinh lớp 4 của trường tôi sử dụng Phương pháp tổng kết kinh
nghiệm là chủ yếu, ngoài ra còn đan xen các phương pháp khác như: Nghiên
cứu lí thuyết, Phương pháp quan sát, Phương pháp thực nghiệm và nghiên
cứu các tài liệu khác liên quan đến môn học như: Phương pháp giảng dạy, tài
liệu bồi dưỡng giáo viên thường xuyên chu kì III …
PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA DẠY HỌC LUYỆN
TỪ VÀ CÂU Ở TIỂU HỌC.
- Việc thay tên gọi hai phân môn Từ ngữ - Ngữ pháp của chương trình
Tiếng Việt cũ bằng Luyện từ và câu của chương trình Tiếng Việt mới không
chỉ đơn thuần là việc đổi tên mà là sự phản ánh quan điểm giao tiếp trong dạy
học Luyện từ và câu. Nó đòi hỏi việc dạy học từ, câu nhằm đáp ứng cho việc
dạy tiếng như một công cụ giao tiếp, nhằm thực hiện mục tiêu của chương
trình Tiếng việt tiểu học mới “hình thành và phát triển ở học sinh kĩ năng sử
2
dụng tiếng việt (Nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi
trường hoạt động của lứa tuổi”. Quan điểm này chi phối nội dung chương

trình môn Tiếng Việt nói chung cũng như phân môn Luyện từ và câu nói
riêng. Trật tự các khái niệm được đưa ra “Liều lượng” kiến thức và phương
pháp của giờ học Luyện từ và câu đều bị chi phối bởi quan điểm này;
- Nguyên tắc giao tiếp (hay cũng chính là sự vận dụng của nguyên tắc
thực hành của lý luận dạy học vào dạy học tiếng mẹ đẻ nên còn gọi là nguyên
tắc thực hành) trong dạy học Luyện từ và câu không chỉ được thể hiện trên
phương diện nội dung mà cả phương pháp dạy học. Về phương pháp dạy
học, trước hết, các kĩ năng Tiếng Việt phải được hình thành và phát triển
thông qua hệ thống bài tập mang tính tình huống phù hợp với những tình
huống giao tiếp tự nhiên. Chính vì vậy, trong Sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu
học, phần thực hành nhiều, lượng lý thuyết ít và khái niệm được hình thành ở
phần lý thuyết cũng như ở dạng đơn giản nhất. Như vậy, nguyên tắc giao tiếp
trong dạy học Luyện từ và câu đòi hỏi học sinh phải tiến hành hoạt động
ngôn ngữ thường xuyên, đó là việc yêu cầu thực hiện những Bài tập miệng,
bài viết trình bày ý nghĩ, tình cảm, đọc, ứng dụng tri thức lý thuyết vào bài
tập, vào việc giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của ngữ pháp, tập đọc, chính tả,
tập làm văn,…;
- Quán triệt nguyên tắc giao tiếp trong dạy học Luyện từ và câu chính là
hướng đến xây dựng nội dung dạy học dưới hình thức dạy học các bài tập
Luyện từ và câu, để hướng dẫn học Luyện từ và câu, thầy giáo phải tạo ra hệ
thống nhiệm vụ và hệ thống câu hỏi nhằm hướng dẫn học sinh thực hiện.
Thứ hai, ngôn ngữ văn bản của dạy từ cần được xem là kinh nghiệm
sống của cá nhân học sinh và những quan sát thiên nhiên, con người, xã hội
của các em. Việc làm giàu vốn từ, dạy từ phải gắn với đời sống, gắn với việc
làm giàu những biểu tượng tư duy, bằng con đường quan sát trực tiếp và
thông qua những mẫu lời nói. Phải thiết lập được quan hệ đúng đắn giữa hình
ảnh bằng lời (từ ngữ) với những biểu tượng của trẻ em về đối tượng. Mọi quy
3
luật cấu trúc và hoạt động của từ và câu chỉ được rút ra trên cơ sở nghiên cứu
lời nói sinh động, những kinh nghiệm lời nói và kinh nghiệm sống của các

em đã được bổ sung các bài tập Luyện từ và câu phải được xây dựng trên
kinh nghiệm ngôn ngữ của học sinh.
Thứ ba, dạy học Luyện từ và câu phải bảo đảm sự thống nhất giữa lý
thuyết ngữ pháp và thực hành ngữ pháp với mục đích phát triển các kĩ năng
giao tiếp ngôn ngữ: việc phân tích từ, câu không có mục đích tự thân mà là
phương tiện để nhận diện các phương tiện ngữ pháp, nắm chức năng của
chúng, từ đó sử dụng chúng trong lời nói. Chương trình hướng đến gắn lý
thuyết với thực hành. Trên quan điểm thực hành, các tác giả Sách giáo khoa
đã chọn những giải pháp ngôn ngữ có nhiều lợi thế nhất trong sử dụng tiếng
mẹ đẻ. Đối chiếu nội dung từng khái niệm ngữ pháp được dạy ở tiểu học với
các khái niệm được trình bày trong các giáo trình Việt ngữ học, ta thấy rằng
nội dung các khái niệm ở tiểu học như từ, câu,… đều được đưa ra ở dạng đơn
giản nhất.
Quy tắc ngữ pháp:
- Chương trình nặng về thực hành nên bên cạnh hệ thống khái niệm để
trình bày một cách đơn giản lại rất chú trọng dạy hệ thống quy tắc ngữ pháp.
Quy tắc ngữ pháp là những điều phải tuân theo để tạo nên những đơn vị ngữ
pháp cụ thể nhằm thực hiện nhiệm vụ giao tiếp (nói, viết) nào đó. Hệ thống
quy tắc ngữ pháp giúp học sinh chuyển từ nhận thức sang hành động, ví dụ,
liên quan đến các khái niệm câu có các quy tắc chính tả, dấu chấm câu, viết
hoa chữ cái đầu câu, quy tắc nói, đọc: nói, đọc hết câu phải nghỉ hơi, đọc
đúng giọng điệu phù hợp với các kiểu câu chia theo mục đích nói. Liên quan
đến danh từ riêng có quy tắc viết hoa tên riêng,… Như vậy tính quy luật của
ngữ pháp đã được phản ánh trong ngữ pháp thực hành bằng hệ thống quy
tắc. Tương ứng với khái niệm ngữ pháp có một loạt các quy tắc. Trong
chương trình Tiểu học, quy tắc ngữ pháp có vai trò rất quan trọng;
- Dựa vào sự phân tích ngôn ngữ, Sách giáo khoa nêu các quy tắc trong
4
mục “Ghi nhớ” do ưu tiên thực hành nên đã có những trường hợp bỏ qua lô
gíc và tính cân đối của lý thuyết. Ví dụ, danh từ riêng dạy trong nhiều bài để

trang bị quy tắc viết hoa cho học sinh.
Nguyên tắc tích hợp.
- Không có vốn từ phong phú, không hiểu nghĩa và đặc điểm ngữ pháp
của từ thì không thể đặt câu đúng, đồng thời nếu không nắm vững quy tắc đặt
câu thì dù có vốn từ phong phú, dù nắm chắc nghĩa của từ vẫn không trình
bày được ý kiến của mình một cách đúng đắn, mạch lạc, rõ rang. Vì vậy
luyện từ và luyện câu không thể tách rời. Bên cạnh đó các bộ phận của
chương trình Luyện từ và câu như từ, cấu tạo từ, từ loại, câu, các thành phần
câu, các kiểu câu và liên kết câu cũng phải được nghiên cứu trong sự gắn bó
thống nhất;
- Mặt khác ta đã biết lượng từ, mẫu câu và các câu nói cụ thể học sinh
thu nhận được trong các giờ học khác, các hoạt động ngoài giờ lên lớp, cũng
như rất nhỏ so với vốn từ, vốn câu cần có của các em. Do đó không thể dạy
từ và câu bó hẹp trong tiết Luyện từ và câu mà cần đề ra nguyên tắc tích hợp
trong dạy từ, câu. Nguyên tắc này đò hỏi việc dạy Luyện từ và câu phải được
tiến hành ở mọi nơi, mọi lúc, trong tất cả các môn học, trong tất cả các giờ
học khác của phân môn Tiếng việt;
- Không phải chỉ trong giờ học Tiếng việt mà trong tất cả các hoạt động
khác và trong các giờ học khác, giáo viên cần chú ý điều chỉnh kịp thời
những cách hiểu từ sai lạc, những cách nói, viết câu không đúng ngữ pháp
của học sinh, kịp thời loại ra khỏi vốn từ tích cực của học sinh những từ ngữ
không văn hoá.
- Tất cả các môn học và các phân môn Tiếng việt đều có vai trò to lớn
trong việc Luyện từ và câu. Chúng mở rộng sự hiểu biết về thế giới, con
người, góp phần làm giàu vốn từ và khả năng diễn đạt tình cảm, ý tưởng của
học sinh. Để nắm bất kỳ môn học nào: Toán, TNXH, Đạo đức,… Học sinh
phải nắm vốn từ và mẫu câu tối thiểu của môn học đó. Đó là những từ ngữ và
5
cách trình bày có tính chất chuyên ngành. Chúng sẽ bổ sung cho vốn tiếng
mẹ đẻ của học sinh. Người giáo viên khi dạy tất cả các môn học đều phải có

ý thức gắn dạy về cấu tạo của tiếng. Trên lớp cũng như khi hướng dẫn một
hoạt động khác cho học sinh: Tham quan, hoạt động tập thể, ngoại khoá …,
giáo viên cần dạy học sinh phát hiện ra các từ mới, tìm hiểu nghĩa và cách sử
dụng chúng trong câu, đoạn. Việc hoàn thiện những từ này sẽ được tiếp tục
trong giờ Luyện từ và câu.
Nguyên tắc trực quan.
- Những hình ảnh cảm tính, những biểu tượng của trẻ em về thế giới
xung quanh là một tổ hợp cần thiết cho bất kỳ việc dạy học nào. Quan điểm
này là cơ sở của nguyên tắc trực quan. Nguyên tắc trực quan được xây dựng
còn dựa vào sự thống nhất giữa trừu tượng và cụ thể trong ngữ pháp. Đặc
điểm của việc vận dụng nguyên tắc trực quan trong dạy từ là ở chỗ: từ là một
tổ hợp kích thích nghe, nhìn, vận động, cấu âm. Một quy luật tâm lý là càng
có nhiều cơ quan cảm giác tham gia vào việc tiếp nhận đối tượng (hiện
tượng) thì càng ghi nhớ một cách chắc chắn đối tượng ấy, có nghĩa là ghi nhớ
cả từ mà nó biểu thị, do đó, khi giải nghĩa từ trong phạm vi có thể, cần sử
dụng các phương tiện tác động lên các giác quan. Thực hiện nguyên tắc trực
quan trong việc dạy nghĩa từ là cần làm sao trong giải nghĩa, việc tiếp nhận
của học sinh không phiến diện mà hình thành trên cơ sở của sự tác động qua
lại của những cảm giác khác nhau: nghe, nhìn, phát âm, viết. Giai đoạn đầu
khi giới thiệu cho học sinh một từ mới, một mặt cần phải đồng thời tác động
bằng cả kích thích vật thật và bằng lời. Mặt khác học sinh cần nghe, thấy,
phát âm và viết từ mới, đồng thời phải để học sinh nói thành tiếng hoặc nói
thầm điều các em quan sát được. Giáo viên cần giúp các em biểu thị thành
lời, thành từ ngữ tất cả những gì đã quan sát. Vì vậy, quán triệt nguyên tắc
trực quan ở một khía cạnh nào đó cũng đồng thời đã tuân thủ nguyên tắc thực
hành;
- Đối tượng nghiên cứu của Luyện từ và câu là từ ngữ, câu, thành phần
6
câu,… do đó, bên cạnh biểu bảng, sơ đồ, vật thật, tranh vẽ…. như người ta
vẫn thường quan niệm về đồ dùng trực quan trong giờ học, trực quan trong

giờ dạy Luyện từ và câu còn được hiểu là sử dụng những ngữ liệu (lời nói)
trực quan - những bài văn, những câu, những từ;
- Trong các giai đoạn khác nhau của dạy Luyện từ và câu, cần phải sử
dụng trực quan với mục đích khác nhau: giai đoạn đầu, khi cho học sinh tiếp
xúc với các dấu hiệu của khái niệm, trực quan phải được sử dụng với mục
đích truyền đạt rõ rang những dấu hiệu của hiện tượng nghiên cưu trong sự
biểu hiện cụ thể của nó trong lời nói. Phải chọn tài liệu trực quan sao cho
chúng thể hiện rõ đặc điểm ngữ pháp của hiện tượng được nghiên cứu. Có
như vậy trực quan mới giúp học sinh có khả năng trừu tượng hoá dấu hiệu
của khái niệm, nhận diện ra hiện tượng nghiên cứu giữa những hiện tượng
khác tương tự chúng. Khi ngữ liệu không tiêu biểu, nghĩa là không truyền đạt
rõ ràng dấu hiệu của hiện tượng nghiên cứu thì bị xem là không đảm bảo
nguyên tắc trực quan. Ví dụ, khi dạy hai thành phần câu có trạng ngữ , khi
dạy trạng ngữ lại đưa cả ví dụ câu có thành phần biệt lập hoặc phân tích trên
một trường hợp ngoại lệ không tiêu biểu như dạy động từ đưa ngay động từ
tồn tại “có”, dạy khái niệm câu đưa ngay câu đặc biệt;
- Sau khi học sinh đã nắm khái niệm, trực quan có mục đích giúp học
sinh củng cố, hệ thống hoá lại các kiến thức ngữ pháp. Đó là những bảng số
liệu, sơ đồ thường dùng trong các giờ ôn tập. Bảng biểu, sơ đồ có tác dụng
tiết kiệm thời gian giảng giải, gây ấn tượng giúp đưa kiến thức đã biết vào
một trật tự nhất định, dễ nhớ, giúp cho học sinh có một cái nhìn bao quát, hệ
thống, dễ nhận ra lo gic của vấn đề. Ngoài ra, bảng biểu, sơ đồ trong giờ ôn
tập Luyện từ và câu còn tăng cường rèn luyện tư duy lo gic cho học sinh, có
thể sử dụng bảng biểu, sơ đồ có sẵn, cũng có thể để học sinh tự xây dựng
bảng biểu, như vậy học sinh sẽ tích cực làm việc với tài liệu, dễ dàng nghi
nhớ các dấu hiệu của khái niệm, vừa nắm được quá trình tạo ra cấu trúc của
bảng biểu;
7
- Ngoài các nguyên tắc chung trong dạy học Luyện từ và câu còn có
những nguyên tắc đặc thù . Đó là nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống của từ,

câu và nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất giữa nội dung và hình thức ngữ
pháp trong dạy học Luyện từ và câu.
Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống của từ, câu trong dạy học Luyện từ và câu
- Những thành tựu nghiên cứu trong ngôn ngữ học về bản chất nghĩa
của từ, cấu tạo từ, các lớp từ, bản chất cấu tạo của câu, các kiểu câu, liên kết
câu là cơ sở để dạy các bài lý thuyết về từ, câu. Chúng ta cần nắm được và
cho học sinh từng bước làm quen với các khái niệm nghĩa của từ, tính đa
nghĩa, đồng nghĩa, trái nghĩa, cấu tạo câu, các kiểu câu. Mặt khác dựa vào
kiến thức từ vựng học, người ta đã xác lập những nguyên tắc để dạy từ theo
quan điểm thực hành, hay nói cách khác, làm giàu vốn từ cho học sinh. Dạy từ
nhất thiết phải tính đến đặc điểm của từ như một đơn vị ngôn ngữ: quan hệ
trực của từ với thế giới bên ngoài. Việc dạy từ cần phải trình bày như là việc
thiết lập quan hệ giữa từ và các yếu tố của hiện thực, quan hệ giữa từ với một
lớp sự vật cùng loại được biểu thị bởi từ. Đó là hai mặt hình thức và nội dung
của tín hiệu từ. Hai mặt này gắn chặt với nhau, tác động lẫn nhau. Phải làm
cho học sinh nắm vững hai mặt này và mối tương quan giữa chúng. Học sinh
vừa phải thiết lập được mối quan hệ của các từ với sự vật, một lớp sự vật, mặt
khác lại phải tách được ý nghĩa từ vựng của từ khỏi vật được từ gọi tên. Đồng
thời dạy từ nhất thiết phải tính đến những quan hệ ý nghĩa của từ với những từ
khác bao quanh trong các phong cách chức năng khác nhau (tính đến khả năng
kết hợp của từ). Chính vì vậy , đặc điểm của từ trong hệ thống ngôn ngữ là cơ
sở để xây dựng các bài tập từ ngữ. Sự hiểu biết về nghĩa từ, đặc điểm của từ
trong hệ thống sẽ giúp cho nhà sư phạm xác lập được mục đích, nội dung
cũng như kĩ thuật xây dựng từng bài tập từ ngữ cụ thể. Giá trị của từ trong hệ
thống sẽ là chỗ dựa để xem xét, đánh giá tính khoa học cũng như hiệu quả của
một bài tập từ ngữ;
- Từ đặc điểm tính hệ thống của ngôn ngữ, trong dạy học Luyện từ và
8
câu, ngoài các nguyên tắc chung, người ta còn đề xuất một nguyên tắc dạy học
có tính chất đặc thù, đó là nguyên tắc “Bảo đảm tính hệ thống của từ trong

dạy học từ ngữ (luyện từ)”. Nguyên tắc này đòi hỏi việc “luyện từ” phải tính
đến đặc điểm của từ trong hệ thống ngôn ngữ, có nghĩa là trong sự tương ứng
với những đặc điểm đã nêu của từ, khi dạy từ cần phải:
+ Đối chiếu từ với hiện thực (vật thực hoặc vật thay thế) trong việc giải
nghĩa từ (nguyên tắc ngoài ngôn ngữ).
+ Đặt từ trong hệ thống của nó để xem xét, nghĩa là đặt từ trong các lớp từ,
trong các mối quan hệ đồng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa, đồng âm,cùng chủ đề
… (nguyên tắc hệ hình).
+ Đặt từ trong mối quan hệ với những từ khác xung quanh nó trong văn
bản với mục đích làm rõ khả năng kết hợp của từ (nguyên tắc cú đoạn).
+ Chỉ ra việc sử dụng từ trong một phong cách xã hội (nguyên tắc chức
năng). Hai việc làm đầu cần thiết cho dạy nghĩa từ, hai việc làm sau cần thiết
cho việc dạy sử dụng từ.
Cũng như vậy, việc dạy câu: Hiểu nghĩa câu, nói, viết câu phải đặt trong
ngữ cảnh, trong văn cảnh để luyện tập, để đánh giá đúng/ sai hay/ dở. Chú ý
đến đặc điểm của từ, câu trong hệ thống được xem là nguyên tắc quan trọng
trong dạy học luyện từ và câu.
Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất giữa nội dung và hình thức ngữ
pháp trong dạy học luyện từ và câu.
Khái niệm ngữ pháp mang tính trừu tượng và khái quát cao. Dạy học
phải chỉ ra được nội dung của khái niệm, ý nghĩa, chức năng, lý do tồn tại của
khái niệm trong hệ thông - bởi vì đó là bản chất của khái niệm, là lẽ sống còn
của nó. Nhưng nội dung ngữ pháp bao giờ cũng trừu tượng, nhất là đối với
học sinh nhỏ. Ví dụ, những cách nói “Danh từ chỉ sự vật hiện tượng”, “từ có
nghĩa, tiếng có thể không có nghĩa”,… rất khó nắm bắt, nhận dạng. Đây là
nguyên nhân của những khó khăn của học sinh nhỏ trong quá trình hình thành
khái niệm. Để nắm bắt khái niệm ngữ pháp, cần có trình độ tư duy lô gíc nhất
9
định.
Quá trình hình thành khái niệm cũng đồng thời là quá trình học sinh

nắm vững thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá,
trừu tượng hoá và cụ thể hoá. hiệu quả của việc hình thành khái niệm phụ
thuộc vào trình độ phát triển của hoạt động trừu tượng của tư duy. Những học
sinh gặp khó khăn trong việc tách âm ra khỏi vần của nó, không đối chiếu
được từ và tập hợp chúng trong một nhóm theo những dấu hiệu ngữ pháp bản
chất sẽ gặp khó khăn trong việc hình thành khái niệm và sẽ bị mắc lỗi. Trong
ngữ pháp, hoạt động không chỉ được hiểu là chuyển động mà còn được hiểu là
tình trạng của sự vật, quan hệ của nó đối với các sự vật khác, sự biến đổi chất
lượng sự vật… Ví dụ: ngủ, nghỉ, yêu, phát triển, … một cách hiểu như vậy là
khó đối với học sinh nhỏ vừa mới nghiên cứu ngôn ngữ bởi những biểu tượng
cụ thể của các em về hoạt động gắn liền với sự chuyển động. Vì thế, giai đoạn
đầu khi nghiên cứu về động từ, phần lớn học sinh không xem những từ như:
ngủ, ốm,đứng là biểu thị hoạt động của đối tượng. Hiện tượng tương tự cũng
gặp khi nghiên cứu về danh từ. Nhiều học sinh không thể nắm được ý nghĩa từ
vựng cụ thể của những từ như nỗi lòng, tiếng kêu, bước chân, nên không xem
chúng là danh từ.
Để giảm bớt khó khăn trên, một mặt các lý thuyết về từ, câu ở Tiểu học
được hình thành theo hai giai đoạn. Ở lớp 2, 3 chỉ đưa ra những dấu hiệu
hướng học sinh chú ý làm quen với khái niệm và thường không nêu thuật ngữ.
Đầu tiên, chỉ để học sinh nhận ra những dấu hiệu dễ nhận, tác động vào trực
quan của các em, lần sau sẽ hướng vào những dấu hiệu mới, dần dần mở ra
toàn bộ nội dung khái niệm.
Mặt khác trong quá trình dạy Luyện từ và câu, lúc nào cũng phải xác lập
mối quan hệ giữa ý nghĩa và hình thức ngữ pháp, phải luôn giúp học sinh nhận
ra ý nghĩa và các dấu hiệu hình thức của hiện tượng ngữ pháp được nghiên
cứu và chức năng của nó trong lời nói. Mỗi nội dung ý nghĩa đều có một hình
thức tương ứng, nghĩa là nội dung được cố định lại trong một hình thức nhất
10
định và hình thức này có thể nắm bắt được khái niệm được lĩnh hội sự thống
nhất của nội dung và hình thức mới chắc chắn. Hình thức cấu tạo của tiếng và

ý nghĩa của chúng, hình thức và ý nghĩa của câu, hình thức và chức năng của
các kiểu câu. Cần triệt để sử dụng các câu hỏi để phát hiện ra các dấu hiệu
hình thức của hiện tượng nghiên cứu, ví dụ câu hỏi xác định thành phần câu,
câu hỏi xác định từ loại.
Cơ sở thực tiễn của việc dạy học Luyện từ và câu.
Luyện từ và câu ở lớp 4 có 2 tiết mỗi tuần (Chưa kể các tuần ôn tập).
Phân môn luyện từ và câu có nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh và trang
bị cho các em một số kiến thức về từ, câu. Ở lớp 4 các kiến thức lí thuyết
được học thành tiết riêng. Đó là các nội dung như từ và cấu tạo từ, biện pháp
tu từ (so sánh, nhân hoá ), các lớp từ đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm, từ loại,
câu, các kiểu câu, thành phần câu, dấu câu, biện pháp liên kết câu. Ngoài ra,
chương trình còn cung cấp cho học sinh một số kiến thức ngữ âm – chính tả
như tiếng, cấu tạo tiếng. Ở lớp 4 học sinh được học thêm khoảng 500 – 550 từ
ngữ (kể cả thành ngữ, tục ngữ và một số yếu tố gốc Hán thông dụng) theo các
chủ đề: Nhân hậu – Đoàn kết; Trung thực - Tự trọng; Ước mơ – Ý chí - Nghị
lực; Trò chơi - Đồ chơi; Tài năng - Sức khoẻ - Cái đẹp – Dũng cảm – Khám
phá – Phát minh; Du lịch – Thám hiểm; Lạc quan.
Các mạch kiến thức và kĩ năng về từ và câu ở lớp 4 học:
- Cấu tạo từ: Từ đơn, từ phức, từ ghép, từ láy.
- Từ loại: Danh từ, danh từ chung, danh từ riêng, động từ, tinh từ.
- Các kiểu câu: Câu hỏi và dấu chấm hỏi, dùng câu hỏi với mục đích
khác, giữ phép lịch sự khi đặt câu hỏi. Câu kể, câu kể Ai làm gì, câu kể Ai
thế nào, Câu kể Ai làm gì. Luyện tập câu kể Ai làm gì. Câu khiến. Cách đặt
câu khiến. Giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị, câu cảm.
- Cấu tạo câu (Thành phần câu): Vị ngữ trong câu kể Ai làm gì, Chủ
ngữ trong câu kể Ai làm gì, Vị ngữ trong câu kể Ai thế nào, Chủ ngữ trong
câu kể Ai thế nào, Vị ngữ trong câu kể Ai là gì, Chủ ngữ trong câu kể Ai là gì,
11
Thêm trạng ngữ cho câu. Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu. Thêm trạng
ngữ chỉ thời gian cho câu. Thêm trạng chỉ nguyên nhân cho câu. Thêm trạng

ngữ chỉ mục đích cho câu. Thêm trạng ngữ chỉ phương tiện cho câu.
- Dấu câu: Dấu hai chấm, Dấu ngoặc kép, dấu chấm hỏi, dấu gạch
ngang.
- Ngữ âm – Chính tả: Cấu tạo tiếng cách viết tên người, tên địa lí Việt
Nam, Cách viết tên người, tên địa lí nước Ngoài.cách vết tên các cơ quan, tổ
chức, giải thưởng, danh hiệu, huân chương.
Phần lớn các bài học luyện từ và câu trong sách giáo khoa được cấu
thành một tổ hợp bài tập. Ngoài ra còn có bài lí thuyết về từ và câu.
Ở lớp 4 các bài học đã tách thành những bà luyện từ và luyện câu riêng.
Ví dụ các tên bài. Từ ghép và từ láy (ở tuần 4), Câu hỏi và dấu chấm hỏi (ở
tuần 3).
- Các bài học theo các mạch kiến thức từ, câu có thể chia thành hai kiểu:
Bài lý thuyết và bài luyện tập. Những bài được xem là bài lý thuyết về từ và
câu ở lớp 4 là những bài được đặt tên theo một mạch kiến thức và có phần
ghi nhớ được đóng khung. Bài lý thuyết về từ và câu gồm 3 phần. Phần
“Nhận xét” đưa ngữ liệu chia hiện tượng cần nghiên cứu và hệ thống câu hỏi
giúp học sinh nhận xét, phân tích để tìm hiểu nội dung bài học, giúp học sinh
rút ra được nội dung của phần ghi nhớ. Phần “Ghi nhớ” tóm lược những kiến
thức và quy tắc của bài học. Phần “Luyện tập” là một tổ hợp bài tập nhằm
vận dụng kiến thực đã học vào trong hoạt động nói, viết.
- Bài luyện tập là những bài có tên gọi “Luyện tập” chỉ gồm các bài tập
nhưng cũng có khi có thêm những nội dung kiến thức mới, ví dụ kiến thức về
các tiểu loại danh từ ở bài luyện tập về danh từ, kiến thức về các kiểu từ ghép
trong bài luyện tập về từ ghép.
- Bài ôn tập và kiểm tra là nhóm bài có tên gọi “Ôn tập” và các bài có
nội dung Luyện từ và câu trong tuần ôn tập giữa học kỳ, cuối học kỳ, cuối
năm.
12
Quan điểm thực hành được quán triệt trong dạy học Luyện từ và câu.
Điều đó thể hiện ở việc các nội dung dạy học Luyện từ và câu được xây dựng

dưới dạng các bài tập. Vì vậy, việc mô tả nội dung dạy học Luyện từ và câu
không tách rời với việc chỉ ra những nhóm, dạng bài tập.
- Dựa vào nội dung bài học các bài tập Luyện từ và câu được chia thành
hai mảng lớn là mảng bài tập làm giàu vốn từ và mảng bài tập theo các mạch
kiến thức, kĩ năng về từ và câu.
Bài tập làm giàu vốn từ được chia thành 3 nhóm: Bài tập dạy nghĩa, bài tập
hệ thống hoá vốn từ và bài tập dạy sử dụng từ (tích cực hoá vốn từ). Bài tập
theo các mách kiến thức, kĩ năng về từ và câu được thành các nhóm: Bài tập
luyện từ (bài tập về các lớp từ, về biện pháp tu từ, cấu tạo từ, từ loại), bài tập
luyện câu (các kiểu câu, cấu tạo câu, dấu câu, biện pháp liên kết câu). Ngoài
ra còn có nhóm bài tập về cấu tạo tiếng và quy tắc viết hoa.
- Dựa vào nội dung dạy học, cũng có thể phân loại các bài tập Luyện từ và
câu theo một cách khác: Các bài tập được chia làm hai mảng lớn là bài tập
luyện từ và luyện tập luyện câu. Bài tập luyện từ bao gồm cả bài tập làm giàu
vốn từ và bài tập theo các mạch kiến thức, Kĩ năng về từ. Bài tập về câu là cá
bài tập theo các mạch kiến thức, Kĩ năng về câu.
- Dựa vào đặc điểm hoạt động của học sinh, các bài tập có thể được chia
thành hai mảng lớn: Những bài tập có tính chất nhận diện, phân loại, phân
tích (Bài tập ngôn ngữ) và những bài tập có tính chất xây dựng tổng hợp
(bài tập lời nói). Trong các bài tập nhận diện, phân loại các đơn vị từ, câu các
đơn vị ngôn ngữ và các kiểu loại đơn vị ngôn ngữ có thể nằm trong câu,
đoạn. Lúc này việc vạch đường danh giới từ là rất quan trọng. Nếu các từ
được để rời, đường danh giới từ đã được vạch sẵn thì cần lưu ý những trường
hợp đồng âm đa nghĩa. Nguyên tắc tích hợp được thể hiện rất rõ trong các bài
tập luyện từ và câu nên việc phân loại các bài tập nhiều lúc chỉ có tính tương
đối. Nhiều khi, một bài tập cụ thể vừa có mục đích làm giàu vốn từ vừa luyện
tập củng cố một kiến thức ngữ pháp nào đó; thực hành về từ, câu không tách
13
với lí thuyết về từ, câu; luyện từ không tách rời với luyện câu; cả hai bình
diện sử dụng ngôn ngữ là tiếp nhận và sản sinh cũng không tách rời nên có

bài tập vừa yêu cầu nhận diện, nhận xét, bình giá việc sử dụng một đơn vị
ngôn ngữ nào đó, lại vừa có cả yêu cầu sử dụng đơn vị ngôn ngữ đó.
Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy việc dạy học môn Luyện từ và câu ở nhà
trường Tiểu học và đặc biệt ở những nơi vùng sâu, vùng xa vùng đặc biệt khó
khăn về ngôn ngữ, khi tiếng mệ đẻ còn lấn lướt tiếng phổ thông hay phong
tục tập quán của một số dân tộc còn lạc hậu, việc du canh du cư việc am hiểu
về giáo dục của một số dân tộc còn thấp kèm theo đó là công tác xã hội hoá
giáo dục ở một số địa phương còn chưa được coi trọng thì việc dạy luyện từ
và câu gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là đối với số học sinh. Đó là học sinh
là con em dân tộc thiểu số, các em còn chưa nói rõ tiếng phổ thông, việc bất
đồng ngôn ngữ thường xuyên xảy ra chính vì thế đã dẫn đến khả năng giao
tiếp giữa thầy và trò, giữa trò với trò gặp rất nhiều hạn chế, phần lớn các em
nói không thành câu trong câu thường thiếu chủ ngữ hoặc vị ngữ, môi trường
giao tiếp của các em thường xuyên diễn ra bó gọn trong phạm vi hẹp nên đã
không phát huy được khả năng giao tiếp cũng như diễn đạt từ, câu được chọn
vẹn.
- Dạy nội dung về dấu câu trong chương trình ở những nơi này cũng gặp
không ít khó khăn vì các em khi nói cũng như viết phần lớn là không điền
dấu hoặc có khi các em đặt dấy linh tinh không theo một quy tắc nào cả lúc
cần đặt dấu chấm thì các em lại ghi dấu phẩy, hoặc với câu biểu thị cảm xú
thì lạ ghi dấu chấm hoặc dấu chấm hỏi. Việc vận dụng và tiếp thu các kiến
thức về dấu câu cung mang tính ép buộc các em không nắm được ý nghĩa của
chúng, hoặc không trả lời được các câu hỏi như sách giáo khoa đưa ra. Cho
nên trong quá trình giảng dạy người giáo viên phải biết vận dụng linh hoạt
các phương pháp, sự đa dạng hoá các hình thức dạy học cũng có tác động
tích cực đến học sinh, trong quá trình dạy học người giáo viên còn phải biết
lựa chon câu hỏi cũng như các hình thức trắc nghiệm để kiểm tra mức độ
14
hiểu và nắm kiến thức của học sinh.
CHƯƠNG II. ĐỀ XUẤT THAY ĐỔI

* Với những khó khăn đã nêu như ở trên sau đây đề tài xin đưa ra nội dung
giáo án và những vấn đề cần điều chỉnh làm minh chứng cho các điều đã nêu
ở trên.
Luyện từ và câu:
TIẾT 2: LUYỆN TẬP VỀ CẤU TẠO CỦA TIẾNG
I MỤC TIÊU:
- Củng cố kiến thức về cấu tạo của tiếng gồm 3 bộ phận: âm đầu, vần
và thanh.
- Phân tích đúng cấu tạo của tiếng trong câu.
- Hiểu thế nào là 2 tiếng bắt vần trong thơ
II - ĐỒ DÙNG DẠY HỌC:
- Giáo viên: Giáo án, sgk, bảng phụ vẽ sẵn cấu tạo của tiếng, bộ xếp
chữ HVTH hoặc bảng cấu tạo của tiếng việt ra giấy khổ lớn để hs làm bài
tập.
- Học sinh: Sách vở, đồ dùng bộ môn.
III - PHƯƠNG PHÁP:
Giảng giải, đàm thoại, luyện tập, thực hành.
IV - CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY - HỌC - CHỦ YẾU:
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY HOẠT ĐỘNG CỦA TRÒ
1) Kiểm tra bài cũ:
- Yêu cầu 2 hs lên bảng phân
tích cấu tạo của tiếng trong các
câu: Lá lành đùm lá rách.
- GV kiểm tra vở bài tập về nhà
của một số hs.
- GV nhận xét bài làm của 2 hs
lên bảng và ghi điểm.
2) Dạy bài mới:
a) Giới thiệu bài:
- Hs lên bảng làm bài, cả lớp làm vào

giấy nháp.
Tiếng Âm đầu Vần Thanh
lá l a sắc
lành l anh huyền
đùm đ um huyền
lá l a sắc
rách r ach sắc
15
GV ghi đầu bài lên bảng.
b) HD làm bài tập:
Bài tập 1:
- Gv chia lớp thành các nhóm
nhỏ.
- Y/c hs đọc y/c và mẫu.
- Phát giấy khổ to đã kẻ sẵn
bảng cho các nhóm.
- Y/c hs thi đua phân tích trong
nhóm.
GV theo dõi, giúp đỡ hs làm
bài.
GV nhận xét bài làm của hs.
Lời giải:
Bài tập 2:
- Gọi 1 hs đọc y/c.
+ Câu tục ngữ được viết theo
thể thơ nào?
+ Trong câu tục ngữ, hai tiếng
nào bắt vần với nhau?
Bài tập 3:
- Gọi 1 hs đọc y/c.

- Y/c hs tự làm bài.
- Gọi hs nhận xét và chốt lại lời
giải đúng.
- Hs ghi đầu bài vào vở.
- 2 HS đọc trước lớp.
- Hs nhận đồ dùng học tập.
- Hs làm bài trong nhóm.
- Nhóm nào làm xong trước lên dán trên
bảng, các nhóm khác bổ xung để có lời
giải đúng.
- 1 hs đọc trước lớp.
- Câu tục ngữ được viết theo thể thơ
lục bát.
- Hai tiếng: ngoài - hoài bắt vần với
nhau, giống nhau cùng có vần oai.
- 1 hs đọc to trước lớp.
- Hs tự làm bài vào vở, 2 hs lên bảng
làm.
- Nhận xét, lời giải đúng là:
+ Các cặp tiếng bắt vần với nhau: loắt
choắt - thoăn thoắt, xinh xinh - nghênh
nghênh.
16
Tiếng Âm đầu Vần Thanh
Khôn kh ôn ngang
ngoan ng oan ngang
đối đ ôi sắc
đáp đ ap sắc
người ng ươi huyền
ngoài ng oai huyền

gà g a huyền
cùng c ung huyền
một m ôt nặng
mẹ m e nặng
chớ ch ơ sắc
hoài h oai huyền
đá đ a sắc
nhau nh au ngang
Bài tập 4:
- Qua 2 bài tập trên, em hiểu thế
nào là 2 tiếng bắt vần với nhau?
- GV nhận xét và kết luận: Hai
tiếng bắt vần với nhau là 2 tiếng
có phần vần giống nhau, giống
nhau hoàn toàn hoặc không
hoàn toàn.
- Em thử tìm một số câu tục
ngữ, ca dao, thơ đã học có các
tiếng bắt vần với nhau.
Bài tập 5:
- Gọi hs đọc y/c.
- Y/c hs tự làm bài, ai làm xong
giơ tay - GV chấm.
- GV có thể gợi ý cho hs:
Đây là câu đó chữ (ghi tiếng)
nên cần tìm lời giải là các chữ
ghi tiếng.
+ Câu đó y/c: Bớt đầu bằng bớt
âm đầu bỏ đuôi: bỏ âm cuối.
- GV nhận xét, khen ngợi

những em giải nhanh, đúng.
3. Củng cố - dặn dò:
- Tiếng có cấu tạo như thế nào?
những bộ phận nào nhất thiết
phải có? nêu ví dụ?
- Nhận xét giờ học, dăn hs về
nhà làm bài và tra từ điển để
nắm nghĩa các từ trong bài tập 2
+ Các cặp có vần giống nhau hoàn toàn:
choắt, thoắt
+ Các cặp có vần giống nhau không hoàn
toàn: xinh xinh, nghênh nghênh.
- Hai tiếng bắt vần với nhau là 2 tiếng có
phần vần giống nhau hoàn toàn hoặc
không hoàn toàn.
- Vài em nhắc lại.
Là trầu khô giữa cơi trầu
Truyện Kiều gấp lại trên đầu bấy nay
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan.
- 1 hs đọc to trước lớp.
- Hs tự làm bài.
- HS lắng nghe.
- Hs thi giải đúng, giải nhanh câu đó
bằng cách viết ra giấy, nộp ngay cho
giáo viên khi viết xong.
Lời giải:
Dòng 1: chữ “bút” bớt đầu thành chữ út.
Dòng 2: đầu, đuôi bỏ hết chữ “bút” thành
chữ ú (mập)

Dòng 3, 4: để nguyên thì chữ đó là chữ
bút.
HS nhắc lại:
VD: - Tiếng có đủ 3 bộ phận: Tươi,
chuồn, máy
- Tiếng không có đủ 3 bộ phận: ý, ả
- Hs ghi nhớ.
17
CHƯƠNG III. THỰC NGHIỆM DẠY HỌC
- Từ thực tế của địa phương và điều kiện dạy học của nhà trường, tôi đã
nghiên cứu rất kĩ nội dung bài học sau đó tiến hành thiết kế bài giảng, đề xuất
những nội dung cần điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng học sinh của
trường và đưa ra cho Hội đồng khoa học nhà trường xem xét cho ý kiến bổ
xung và mời 03 giáo viên trong tổ cùng dự giờ dạy của tôi, các đồng chí có
ghi phiếu dự cụ thể.
- Kết quả dạy học: Qua thời gian nghiên cứu đề tài về dạy học Luyện từ và
câu cho học sinh lớp 4. Thực tế đã cho thấy số lượng học sinh hiểu bài và
nhớ kiến thức rất cao. Cụ thể với bài “Cấu tạo tiếng” có tới 100% số học
sinh hiểu bài và năm vững nội dung kiến thức. Sau đây là bảng thống kê mức
độ hiểu bài của HS:
STT Họ và tên HS
Khả năng nắm kiến thức
Ghi chú
Tốt Chưa tốt
1 Đinh Văn Nghiệp Tốt
2 Đinh Thị Chinh Tốt
3 Đinh Văn Đạt Tốt
4 Đinh Văn Lân Tốt
5 Đinh Văn Lực Tốt
6 Đinh Thị Ngân Tốt

7 Hà Văn Thực Tốt
8 Lường Thị Nguyệt Tốt
9 Đinh Thị Đức Tốt
10 Hà Thị Thương Tốt
PHẦN KẾT THÚC
- Với việc không ngừng nghiên cứu học hỏi của bản thân và sự giúp đỡ
có hiệu quả của tập thể giáo viên trong nhà trường tôi tự nhận thấy việc
nghiên cứu của tôi là thực sự cho hiệu quả tốt, việc điều chỉnh lại một số câu
hỏi sẽ giúp học sinh tiếp thu bài tốt hơn, việc học của các em cảm thấy nhẹ
nhàng hơn và nhớ kiến thức kĩ và lâu hơn.
- Tuy nhiên để tạo điều kiện cho giáo viên có thời gian hơn trong quá
trình nghiên cứu nội dung bài giảng và đưa ra được nhưng sang kiến cũng
như những điều chỉnh làm sao cho phù hợp với đối tượng học sinh theo vung
18
miền thì:
+ Cần tăng cường khuyến khích giáo viên tham gia nghiên cứu khoa
học và thường xuyên mở các đợt hội thảo chuyên đề giáo viên có thể tự do
nêu ý kiên và trao đổi kinh nghiệm với các giáo viên khác cùng ngành.
+ Cần đầu tư đủ cơ sở vật chất như đủ số lượng phòng học và các trang
thiết bị cần thiết giúp cho giáo viên có đủ điều kiện tham gia nghiên cứu
cũng như giảng dạy đạt kết quả tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo khoa
- Sách giáo viên
- Tài liệu phát triển giáo viên Tiểu học
- Sách bồi dưỡng chu kì III
- Bộ phương pháp giảng dạy môn Tiếng việt
- Báo Giáo dục thời đại
19
PHỤ LỤC

1. Phiếu dự giờ
2. Bài làm của học sinh (10 bài )
20
21

×