Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

SKKN Kinh nghiệm dạy nội dung vẽ theo mẫu trong mô mĩ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.88 KB, 40 trang )

…… Nguyễn Văn Quang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN.
Vẽ theo mẫu là một phân môn quan trọng, còn có thể nói là xương sống, trọng tâm và
là nòng cốt của bộ môn mĩ thuật. Hơn nữa, với môn mĩ thuật ở tiểu học chúng ta đang hướng
dẫn học sinh cảm thụ mĩ thuật ở mức cảm tính thì phân môn vẽ theo mẫu lại đóng vai trò
quan trọng hơn cả. Khi học sinh nắm vững kiến thức cơ bản ban đầu của phân môn này một
cách vững vàng sẽ là điều kiện và khả năng để phát huy các phân môn khác. Khi nói tới bộ
môn mĩ thuật chúng ta sẽ hiểu rằng nó được bắt đầu từ “cảm” sau “cảm” mới là “lý” hay nói
cách khác nó bắt nguồn từ “cảm tính” dần chuyển thành “lý tính”. Chính vì vậy, ở tiểu học
mới chỉ dừng ở mức “cảm tính” mà thôi. Chúng ta dạy học sinh nhằm đạt được mục tiêu là
học sinh có kiến thức ban đầu về mĩ thuật. Để bắt đầu cảm nhận mĩ thuật các em sẽ hình
thành khái niệm mĩ thuật qua cách quan sát, nhận xét sự vật hiện tượng trong cuộc sống. Và
tất thảy những sự vật hiện tượng ấy được sắp xếp, tổ chức trong 45 tiết (bài) vẽ theo mẫu ở
tiểu học. Trong những bài này là những mẫu vẽ đã được chủ động nghiên cứu để nó trở
thành những mẫu đại diện điển hình cho mọi sự vật hiện tượng.
Vẽ theo mẫu ở tiểu học là một phân môn tạo nên ý thức quan sát để cảm nhận cái đẹp,
cái mĩ của sự vật hiện tượng. Đó sẽ là một trong những kiến thức ban đầu quan trọng của
chương trình mĩ thuật tiểu học, và từ đây, sẽ dần hình thành các kĩ năng cần thiết để giúp học
sinh hoàn thành được các bài tập theo chương trình, và vận dụng những kiến thức ấy vào học
tập, sinh họat hàng ngày. Kiến thức vẽ theo mẫu ở tiểu học, cũng như các phân môn khác của
bộ môn mĩ thuật đều được thiết kế theo chương trình đồng tâm từ dễ đến khó, đó không phải
là những mẫu vẽ, bài vẽ khó và đòi hỏi trình độ cao siêu mà được bắt đầu từ cách vẽ những
nét thẳng, nét cong (đối với lớp 1), đến vẽ những đồ vật thông dụng như cái xô, cái phích, cái
bát… (đối với lớp 4,5).
Vẽ theo mẫu là một phân môn mà học sinh được quan sát mẫu thực và nhận xét mẫu
để rồi mô phỏng lại mẫu một cách tương đối giống thực. Tức là học sinh sẽ hình thành được
kiến thức cơ bản của môn mĩ thuật qua phân môn vẽ theo mẫu này. Học sinh sẽ vẽ theo một
- -
1
…… Nguyễn Văn Quang


phương pháp cụ thể, đơn giản. Đó là vẽ hình chung trước (tổng thể mẫu), sau rồi mới vẽ chi
tiết (các bộ phận nhỏ), và chu trình vẽ này đều được vận dụng trong tất cả các phân môn của
bộ môn mĩ thuật. Nói như vậy để thấy rằng vẽ theo mẫu sẽ tạo được thói quen cơ bản cho
học sinh, đó là vẽ từ phần chung trước, phần riêng sau; vẽ phần chính trước, phụ sau; vẽ đơn
giản trước, chi tiết sau; vẽ nét thẳng trước, nét cong sau và vẽ mảng chính trước, mảng phụ
sau.
Nói tóm lại vẽ theo mẫu có thể là “kim chỉ nam” cho các phân môn còn lại của bộ
môn mĩ thuật. Và đây sẽ là kiến thức cơ bản tạo đà để học sinh tiếp tục khám phá và làm chủ
cái đẹp trong chương trình mĩ thuật đồng tâm ở các cấp cao hơn , đặc biệt là biết vận dụng
cái đẹp vào cuộc sống hằng ngày.
2. CƠ SỞ THỰC TẾ.
a/ Đối với giáo viên.
Trong thực tế của ngành giáo dục, giáo viên của bộ môn mĩ thuật trong những năm
gần đây đã được chuyên biệt hoá cao. Tức là đã tương đối đủ chỉ tiêu giáo viên chuyên bộ
môn mĩ thuật cho các trường tiểu học. Như vậy, ở các trường tiểu học, học sinh đã được học
môn mĩ thuật do giáo viên chuyên phụ trách. Nhưng trong chương trình giáo dục mĩ thuật
tiểu học lại có tới 5 phân môn nhỏ, đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng linh họat nhiều
phương pháp giảng dạy thì mới có hiệu quả. Riêng đối với phân môn vẽ theo mẫu phần nào
đó bị tác động bởi điều kiện dạy học mà giáo viên chưa chú ý tới phương pháp hiệu quả của
phân môn này. Giáo viên dạy còn phụ thuộc vào nói “suông” hay còn gọi là dạy “chay”, mà
dạy “chay” kiểu này rất không hiệu quả, mà còn ảnh hưởng lớn tới ý thức ban đầu về bộ
môn. Yêu cầu của phân môn vẽ theo mẫu là cho học sinh vẽ mẫu thực, quan sát mẫu thực.
Nhưng cũng có nhiều lí do mà giáo viên vẫn chưa chuẩn bị mẫu thực cho học sinh vẽ được.
Chính điều đó, khiến mỗi học sinh không nhận thức được đầy đủ kiến thức, cũng như kết quả
của bài vẽ kém hiệu quả. Ngoài thực trạng trên vẫn còn nhiều giáo viên sử dụng phương
pháp cũ mà giờ đây đã trở thành lạc hậu, đã tạo nên sự áp đặt kiến thức một cách cứng nhắc
và chưa phù hợp với đại trà đối tượng học, khiến cho học sinh tiếp thu một cách thụ động,
- -
2
…… Nguyễn Văn Quang

qua loa chiếu lệ, có thái độ không cần thiết. Một số giáo viên vẫn coi bộ môn mĩ thuật là
môn phụ, môn có cũng được, không có cũng không sao, dạy thế nào cũng xong, học sinh tiếp
thu được bao nhiêu cũng mặc kệ, khiến cho việc khích lệ các em khá, giỏi có năng khiếu và
các em yếu, trung bình bị hạn chế. Phương pháp giảng dạy của bộ môn mĩ thuật nói chung và
phân môn vẽ theo mẫu nói riêng là rất đặc thù, rất riêng. Đòi hỏi người thầy phải hiểu rõ
mình đang dạy đối tượng đại trà không có năng khiếu bằng một môn năng khiếu. Cái khó là
rất khó nếu những người đóng vai trò gợi mở cho học sinh không biết cách tìm tòi, sáng tạo
và sử dụng linh họat nhiều phương pháp; cái dễ lại rất dễ nếu chúng ta sử dụng các phương
pháp linh họat có sáng tạo một chút, học sinh sẽ tiếp thu bài một cách độc lập, hiệu quả cao.
Vì là một phân môn đòi hỏi học sinh phải tập chung quan sát mẫu là chính mà giáo
viên một mặt không chuẩn bị mẫu thực, một mặt chưa hướng dẫn kĩ (kể cả lúc học sinh thực
hành). Hầu hết học sinh sau khi nghe giảng cách vẽ theo mẫu nhưng vẫn chưa vẽ được theo
mẫu, bởi lời giảng của giáo viên còn trừu tượng, chưa phù hợp với cảm tính ở lứa tuổi của
trẻ. Nhiều khi giáo viên còn coi học sinh như những người học chuyên về họa, lời giảng còn
nhiều lý tính, gần như để dạy học sinh trở thành họa sỹ. Trong khi đó mục tiêu của chúng ta
lại không phải là như vậy.
Nói tóm lại, để giảng dạy tốt phân môn vẽ theo mẫu ở tiểu học. Giáo viên cần hướng
học sinh theo định hướng tích cực, truyền tải cho học sinh những khái niệm mĩ thuật hết sức
cụ thể, đơn giản và dễ hiểu. Kết hợp lời giảng với ví dụ, chứng minh thực tế để học sinh thấy
ngay, nhận biết dễ dàng. Học sinh hiểu được đường nét, hình khối, mảng miếng, mầu sắc
đơn giản từ đó mô phỏng được gần giống với mẫu thực, không có sai sót chính về tỉ lệ, hình
dáng của mẫu; có ý thức bước đầu về đậm nhạt.
b/ Đối với học sinh.
Bộ môn mĩ thuật nhìn chung học sinh đều có ý thức tích cực học tập, yêu thích bộ
môn. nhưng xét về chuyên môn thì những ý thức ấy, sở thích ấy cũng chỉ dừng ở trào lưu
đơn thuần do học môn này học sinh được tự do sáng tạo, không khí học thoải mái hay nói
đúng hơn học sinh được giải trí sau nhiều tiết học căng thẳng khác. Chính vì điều này, mà
- -
3
…… Nguyễn Văn Quang

“chất” thực sự của học sinh qua bộ môn này chưa hiệu quả cao. Tới tiết học mĩ thuật thường
học sinh rất mong đợi nhưng khi thực hành thì lại không tuân thủ (làm theo) các bước cơ bản
đã được giáo viên hướng dẫn. Đặc biệt là phân môn vẽ theo mẫu nếu giáo viên chuẩn bị
được mẫu thì học sinh cũng dường như không cần chú ý đến vật mẫu được bầy ở trên bảng,
cũng không cần vẽ theo góc nhìn của mình đối với mẫu. Tôi đã nhận thấy một số tiết vẽ theo
mẫu (có mẫu) nhưng học sinh lại vẽ theo hình minh họa bảng của giáo viên chứ không vẽ
theo những gì mình nhìn thấy.
Do ý thức vẽ như vậy nên kết quả bài vẽ thường không vẽ theo hướng tại vị trí mình
ngồi (bên trái, bên phải và ở giữa đề vẽ cùng một góc vẽ giống nhau). Điều này cho ta thây
học sinh không hề chú ý tới hình dáng của mẫu một chút nào.
Một điều nữa, chứng tỏ học sinh tiểu học chưa vượt ra khỏi vở ô ly, đó là vẽ ở vở mĩ
thuật (không có ô ly) học sinh thường thấy trống trếnh bởi trang giấy trắng lại rộng, do đó
thường vẽ hình rất nhỏ so với trang giấy. Có khi vẽ ở mãi trên đỉnh trang, có khi vẽ lệch sang
trái, sang phải, thậm chí có khi lại vẽ tụt xuống tận dưới đáy của trang vẽ khiến bài vẽ bị lệch
lạc về bố cục, không cân đối với trang giấy. Qua thực tế giảng dạy rôi nhận thấy yếu điểm
này của học sinh chiếm tỷ lệ tương đối lớn (khoảng 20 đến 30 %).
Từ cơ sở lí luận và một số vấn đề thực tế còn hạn chế, vướng mắc đối với cả giáo viên
và học sinh, đã ảnh hưởng ít nhiều tới kết quả dạy học phân môn vẽ theo mẫu của bộ môn mĩ
thuật. Tôi xin mạnh dạn đưa ra biện pháp nhằm khắc phục để nâng cao chất lượng cho phân
môn này bằng đề tài kinh nghiệm: “Phương pháp Dạy - Học hiệu quả phân môn vẽ theo
mẫu ở tiểu học”.
B/. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I/. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH.
Vẽ theo mẫu rèn luyện cho học sinh khả năng quan sát, nhận xét và kĩ năng vẽ nét, vẽ
bố cục và vẽ hình. Vẽ theo mẫu còn giúp học sinh hiểu được vẻ đẹp của mẫu, tạo điều kiện
để học sinh học các bài vẽ trang trí, vẽ theo đề tài, vẽ tự do, thường thức mĩ thuật thuận lợi
và hiệu quả hơn
- -
4
…… Nguyễn Văn Quang

Phân môn vẽ theo mẫu xuyên suốt chương trình mĩ thuật tiểu học được thiết kế theo
qui trình đồng tâm, các đơn vị kiến thức được lặp lại nhưng có nâng cao hơn qua mỗi bài,
mỗi lớp. Từ lớp một cho tới lớp năm bao gồm 45 bài vẽ theo mẫu . Với những mẫu vẽ đơn
giản thường là những hình khối, đường nét quen biết như: nét thẳng, nét cong, các hình cơ
bản (hình tròn, hình vuông, tam giác, chữ nhật …); khối đơn giản (khối hộp, khối cầu,
trụ…); vật dụng phổ biến, gần gũi (cái xoong, cái ấm, cái chén, cặp sách, lá cây, quả cây …).
Khi học vẽ theo mẫu học sinh sẽ nắm được cách vẽ cân đối, vẽ từ bao quát đến chi tiết. Vẽ từ
những hình cơ bản tới những đồ vật cụ thể, bước đầu so sánh kích thước, hình dáng, đậm
nhạt, màu sắc của vật mẫu. Từ đó học sinh sẽ cảm nhận được mẫu, vẽ mẫu theo sự “cảm” và
so sánh để hình vẽ gần đúng với mẫu hơn.
Trong bộ môn mĩ thuật bao gồm năm phân môn: vẽ theo mẫu ; vẽ trang trí; vẽ theo đề
tài và vẽ tự do (nay là vẽ tranh); xem tranh (nay là thường thức mĩ thuật) và tập nặn (nay là
tập nặn tạo dáng tự do). Trong năm phân môn này chúng ta thấy vẽ theo mẫu là phân môn rất
quan trọng và cần thiết cho các phân môn còn lại. Bởi vì, nắm vững cách vẽ của vẽ theo mẫu
thì vẽ các phân môn khác sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn nhiều và đặc biệt sẽ hình thành cách
nhìn tổng thể (định hình được trước khi vẽ). Học sinh sẽ vẽ theo mẫu theo một qui trình:
Quan sát So sánh cảm nhận nhận biết mẫu Hình thành thói quen, kĩ năng. Nói tóm
lại vẽ theo mẫu giúp các em có óc quan sát tinh tế, có cách nhìn đúng khi vẽ, dạy các em lối
vẽ đúng (từ cơ bản đến cụ thể).
Với vai trò quan trọng của phân môn và yêu cầu cần thiết của bộ môn mỗi giáo viên
cần tìm tòi, sáng tạo và vận dụng nhiều phương pháp truyền thống cùng với hiện đại nhằm
đưa tới học sinh cách học đơn giản và dễ hiểu nhất , nhằm ngày càng nâng cao chất lượng
cho bộ môn mĩ thuật ở tiểu học để góp phần vào việc hoàn thành mục tiêu giáo dục của
ngành chúng ta, đã được ghi cụ thể trong Luật giáo dục tại Điều 2 mục tiêu giáo dục: “…Đào
tạo con người Việt Nam phát triển một cách toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm
mĩ và nghề nghiệp…”
II/. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT.
- -
5
…… Nguyễn Văn Quang

Trước thực trạng khó khăn, điều kiện dạy học chưa đầy đủ và đồng bộ, phương pháp
giáo dục chưa phát huy mạnh được vai trò của học sinh, để phân môn vẽ theo mẫu thực sự
trở thành “xương sống” của bộ môn, để học sinh học mĩ thuật ngoài hứng thú ra còn có khả
năng biểu hiện cái đẹp và cảm thụ cái đẹp. Để học sinh hoàn thành xuất sắc các bài tập theo
chương trình chúng ta cần tậo trung vào giải quyết một số vấn đề cụ thể sau.
+ Công tác chuẩn bị cần thiết cho bài giảng.
+ Hướng dẫn học sinh quan sát nhận xét.
+ Hướng dẫn học sinh cách vẽ.
+ Hướng dẫn học sinh thực hành.
+ Nhận xét đánh giá bài của học sinh.
+ Củng cố bài giảng bằng trò chơi phù hợp.
Sáu vấn đề này được giải quyết tốt thì hiệu quả sẽ đem lại một bài giảng thành công
cho một phân môn quan trọng của bộ môn mĩ thuật. Cụ thể từng vấn đề một sẽ được giải
quyết ở phần III dưới đây.
III/. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT.
1/. VẤN ĐỀ THỨ NHẤT: CÔNG TÁC CHẨN BỊ CẦN THIẾT CHO BÀI
GIẢNG.
Chuẩn bị cho một bài giảng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Cả giáo viên (người dạy)
và học sinh (người học) đều phải có sự chuẩn bị chu đáo cho một bài học. Mọi yếu tố của bài
được chuẩn bị tốt thì tiết dạy sẽ hiệu quả, thành công, ngược lại nếu không chuẩn bị tốt sẽ
lúng túng mất thời gian và không hiệu quả.
a/. Sự chuẩn bị đối với giáo viên.
Giáo viên cần chủ động chuẩn bị hai nội dung cụ thể đó là: Đồ dùng dạy học (mẫu vẽ,
trực quan các bước vẽ theo mẫu) và chuẩn bị phương pháp giảng dạy (theo từng bài, từng
lớp).
- -
6
…… Nguyễn Văn Quang
* Đối với việc chuẩn bị đồ dùng dạy học của giáo viên: Đối với môn mĩ thuật nói
chung và phân môn vẽ theo mẫu nói riêng, việc sử dụng đồ dùng dạy học (ĐDDH) là đặc

biệt cần thiết. Bởi vì, dạy mĩ thuật là dạy trên những gì cụ thể, hiện diện một cách rõ ràng
trước học sinh. Học sinh phải được quan sát một cách cụ thể về hình dáng, đậm nhạt, mầu
sắc, đường nét, bố cụ và tương quan vật mẫu (đối với bài hai mẫu). Đó cũng chính là kiến
thức cơ bản của bộ môn mĩ thuật. Vì thế, để dạy tiết học vẽ theo mẫu cần phải chú ý nhiều
tới ĐDDH và phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học.
Khi nói tới dạy mĩ thuật tức là nói tới việc sử dụng phương pháp “trực quan”. Vì học
sinh phải quan sát, nhận xét thì mới hình thành được khái niệm. Hơn thế vẽ theo mẫu lại phải
trực quan cụ thể, thực tế. Thực tế ở chỗ vẽ theo mẫu phải có mẫu thực không thể cho học
sinh vẽ theo mẫu mà giáo viên minh họa trên bảng được, đối với một số phân môn khác thì
làm như vậy các em vẫn có thể tiếp thu bài và vẽ được bài.
Trong chương trình giáo dục mĩ thuật ở tiểu học có 45 bài vẽ theo mẫu giáo viên cần
chuẩn bị đủ mẫu theo đơn vị bài và trực quan cho các bài đó. Từ những mẫu đơn giản như
các khối hình (khối hộp, khối trụ, khối cầu…) tới những mẫu cụ thể hơn (như quả cây, đồ
dùng vật dụng…). Khi giáo viên đã chuẩn bị chu đáo thì lúc đó giáo viên mới có thể dạy tốt
được. Đây là phân môn vẽ theo mẫu, nếu không có mẫu thì không phải là vẽ theo mẫu.
Sự chuẩn bị của giáo viên còn căn cứ theo thực tế của từng bài. Một mặt do tiết học
thường được tổ chức ở tại lớp học “thông thường” một mặt sỹ số học sinh/ một lớp đông
khiến các em khó quan sát mẫu nếu bày một mẫu trên bảng. Do đó giáo viên có thể chuẩn bị
nhiều mẫu để cho học sinh họat động theo nhóm, tổ.
Ví dụ: Để dạy bài “Vẽ quả (có dạng tròn) bài 10 MT lớp 1 trang 15 vở tập vẽ. Nếu học
sinh từ 30 em trở lên ngồi trong một phòng học bàn ghế kê sát nhau theo một hướng lên bảng
thì việc bầy mẫu một quả cây trên bảng là điều không thể hoặc khó có thể chấp nhận được,
bởi vì những học sinh ngồi cuối lớp hoặc bàn dưới sẽ không thể thấy rõ được mẫu. Như vậy
sẽ vô hiệu khi giáo viên hướng dẫn quan sát nhận xét. Ở bài này do quả quan sát khó (vì nhỏ)
- -
7
…… Nguyễn Văn Quang
cho nên giáo viên có thể chuẩn bị 3, 4 mẫu và bầy mẫu theo nhóm, theo tổ giúp học sinh
quan sát và vẽ hiệu quả hơn.
Nếu trường có điều kiện trang bị đầy đủ thiết bị cho phòng giáo dục nghệ thuật cụ thể

như giá vẽ cho học sinh. Thì với sỹ số trên (trên 30 em/lớp), cùng với phòng học chưa đủ
tiêu chuẩn về diện tích và ánh sáng thì học sinh vẫn chưa thể quan sát hiệu quả và vẽ hiệu
quả được. Vì điều đó, cho nên giáo viên chuẩn bị mẫu chu đáo theo nhóm là cần thiết và
thực tế nhất. Nhưng bên cạnh cũng có những bài chỉ cần một mẫu mà học sinh đông và ngồi
học tại lớp học “thông thường” nhưng cũng vẫn vẽ được bài tốt như bài: Vẽ lá cờ tổ quốc
(Bài 9 MT lớp 2 trang 20).
- Giáo viên phải có khả năng thị phạm tốt bởi vì, học sinh rất thích và rất “tâm phục”,
“khẩu phục” khi giáo viên minh họa bảng đẹp và nhanh. Giáo viên chuẩn bị tốt khả năng
này, bài giảng của giáo viên sẽ rất hấp dẫn và hiệu quả cao. Đặc biệt sẽ định hướng cho học
sinh vẽ bài của mình. Khi giáo viên giảng tới cách vẽ phần nào thì minh họa ngay bước đó
đồng thời bám sát hình với mẫu thực. Việc đó, sẽ dẫn tới học sinh dần hình thành ý thức một
cách có hệ thống.
- Giáo viên cần chuẩn bị mẫu để so sánh với mẫu chính thức. Với một bài vẽ theo mẫu
ngoài việc giáo viên chuẩn bị một mẫu vẽ chính thức thì giáo viên cần chuẩn bị thêm một số
mẫu tương tự, hoặc mẫu đối lập để học sinh so sánh, nhận xét nhanh chóng và dễ dàng hơn.
Ví dụ: ở bài vẽ quả có dạng hình tròn: Ngoài vệc chuẩn bị một mẫu chính thức là quả
táo lê chẳng hạn thì giáo viên cần chuẩn bị thêm một số quả cũng có dạng hình tròn khác như
quả cam, quả quýt, dưa lê, ổi, …
- Giáo viên cần chuẩn bị cho bài giảng của mình những tranh vẽ các bước dựng hình,
cách vẽ cụ thể, hoặc để quan sát nhận xét… Tất cả đều thể hiện trên giấy khổ lớn để học sinh
dễ quan sát (trực quan đủ rõ, đủ to). Việc chuẩn bị này có tác dụng trực tiếp tới giáo viên rất
lớn. Có nó, giáo viên thao tác các bước trên bảng rất linh họat, làm cho giờ giảng lí thuyết
không mất nhiều thời gian, không bị lúng túng… Việc chuẩn bị trực quan tốt còn giúp học
sinh hình thành khái niệm mẫu vẽ một cách nhanh nhất, đơn giản nhất, hiệu quả nhất. Phần
- -
8
…… Nguyễn Văn Quang
chuẩn bị này giáo viên có thể chỉ việc phóng hình lớn từ các hình minh họa trong sách giáo
khoa được in cùng với phần lí thuyết (sách học sinh).
* Đối với việc chuẩn bị phương pháp giảng dạy của giáo viên: Để soạn bài và

giảng bài tốt, giáo viên tập trung vào những phương pháp hiệu quả khi dạy vẽ theo mẫu như:
Phương pháp trực quan; phương pháp so sánh; gợi mở; vấn đáp và luyện tập. Giáo viên phải
biết cách kết hợp linh họat giữa các phương pháp này với nhau, tạo thành một phương pháp
tổng hợp phù hợp với tất cả các đối tượng, phù hợp với bài giảng, gắn liền với thực tiễn. Để
phương pháp của mình chuẩn bị có hiệu quả thì giáo viên nhất thiết cần dự kiến được các
tình huống dạy học, có những tình huống đơn giản thì giáo viên có thể sử lý tốt trong bất kì
hoàn cảnh nào, nhưng cũng có những tình huống khó giáo viên cần có sự chuẩn bị tốt để sử
lí như: Cách so sánh mẫu, cách vẽ thông qua quan sát mẫu thực, có thể học sinh không hiểu
thế nào là “bố cục”; không hiểu thế nào là dựng “hình chung”; ước lượng “tỷ lệ”… Giáo
viên cần phải chuẩn bị những tình huống khi học sinh không hiểu và cần phải đơn giản hoá
những cụm từ mang tính chuyên môn tối thiểu này. Giáo viên có thể chuẩn bị theo những gợi
ý sau: Bố cục nên giải thích đơn giản đó là sự sắp xếp hình vẽ vào trang giấy, bố cục đẹp là
sự sắp xếp hình vẽ cân đối, bố cục lệch, xấu là sự sắp xếp hình vẽ trên trang giấy chưa hợp
lý; Tỷ lệ ta có thể hiểu đơn giản là chiều cao so với chiều ngang, xem các chiều này hơn kém
nhau bao nhiêu lần, từ đó giữ được tỷ lệ chuẩn của mẫu khi vẽ sẽ không bị sai lệch. Ví dụ:
Mẫu vẽ cái xô có tỷ lệ chiều cao bằng hai lần chiều ngang, như vậy hình vẽ có to bằng bao
nhiêu đi nữa thì chúng ta vẫn phải hướng dẫn học sinh vẽ chiều cao của cái xô bằng hai lần
chiều ngang, có như vậy hình vẽ mới cân đối, cái xô sẽ không bị thấp quá hay không bị cao
quá hay chúng ta nói là “tỷ lệ” của bài vẽ cân đối; tương tự như vậy hình chung cũng được
giải thích cho học sinh hiểu là hình vẽ bên ngoài của vật mẫu, học sinh cần hiểu đơn giản, cụ
thể như một khối hộp nằm ngoài bao kín vật mẫu tạo thành một khung hình bao quanh.
Khung hình đó được gọi là khung hình chung.
Mọi phương pháp giáo dục của giáo viên tuy cùng nhằm cung cấp kiến thức và phải
theo những qui định chung nhưng khi vận dụng, giáo viên không đòi hỏi, không bắt buộc tất
cả học sinh làm bài như nhau và tuân thủ một cách máy móc, rập khuôn theo cái chung. Học
- -
9
…… Nguyễn Văn Quang
sinh tuy vẽ cùng một mẫu nhưng sản phẩm sẽ rất khác nhau về nét, về hình, về mầu, về cách
bố cục, cách nhìn, cách hiểu, cách cảm nhận của mỗi học sinh khác nhau sẽ tạo ra những sản

phẩm có nhiều vẻ khác nhau. Vì thế, có thể nói, kết quả học tập của học sinh phụ thuộc vào
sự “giàu có” kiến thức, vào “nghệ thuật truyền đạt” của giáo viên. Nhưng quan trọng hơn cả
là khả năng cảm nhận của học sinh. Bởi lẽ học sinh có thích thú thì mới chịu khó suy nghĩ,
tìm tòi và thể hiện bằng cảm xúc của mình. Vẽ có cảm xúc bao giờ cũng có hiệu quả cao. Vì
thế dạy học mĩ thuật nói chung và dạy vẽ theo mẫu nói riêng không đơn giản là dạy và học
kĩ thuật vẽ mà còn phải kết hợp với dạy và học cảm thụ thế giới quan xung quanh. Bắt buộc,
gò ép học sinh trong học mĩ thuật sẽ dẫn đến khuôn mẫu, đồng điệu.
Phương pháp giảng dạy của giáo viên cần phát huy được tính tích cực, sự độc lập suy
nghĩ, tìm tòi, sáng tạo của học sinh và đây cũng là tư tưởng chủ đạo của phương pháp dạy
học mĩ thuật nói chung và daỵ vẽ theo mẫu nói riêng. Kết quả cuối cùng của việc “dạy” là
kiến thức phải “đến” phải “vào” người học. Hơn nữa, học sinh phải là người chủ động tiếp
nhận kiến thức từ giáo viên. Vì thế khi giảng dạy, giáo viên không chỉ quan tâm đến phương
pháp dạy của giáo viên mà còn phải chú ý tới phương pháp học của học sinh. Do đó, khi
Dạy-Học vẽ theo mẫu ở tiểu học giáo viên còn cần phải chú ý những đặc điểm sau:
+ Tạo được không khí học tập tốt để học sinh háo hức chờ đón bài học.
+ Tạo điều kiện cho học sinh suy nghĩ, tìm tòi những vấn đề mà giáo viên giảng giải.
+ Tổ chức bài học sao cho học sinh tham gia vào quá trình nhận thức một cách tự giác.
+ Động viên khích lệ nhằm giúp học sinh làm bài bằng khả năng và cảm xúc riêng.
Việc chuẩn bị phương pháp tốt cho giáo viên cũng không thể thiếu việc sắp xếp, tổ
chức giờ dạy thông qua giáo án, qua kế họach giảng dạy tiết vẽ theo mẫu đó một cách rõ
ràng, cụ thể. Phương pháp chủ đạo là lấy học sinh làm trung tâm và thầy giáo là người hướng
dẫn cũng được thể hiện rõ trên giáo án. Mọi họat động của giáo viên mang tính chất gợi mở,
cũng như vậy mọi họat động tích cực của học sinh được lập kế họach theo từng bước của
tiến trình giảng dạy. Và đặc biệt giáo viên cần chú ý tới phần minh họa bảng cũng cần được
- -
10
…… Nguyễn Văn Quang
thể hiện rõ trong giáo án theo một cột riêng (bên phải của phần kiến thức và diễn biến giờ
dạy).
b/. Sự chuẩn bị đối với học sinh.

Học vẽ theo mẫu đối với học sinh tiểu học vốn vẫn là kiến thức trừu tượng nhất trong
bộ môn mĩ thuật. Trừu tượng bởi lẽ học sinh bắt đầu dần hình thành khái niệm về khối, về
hình thể. Khi học sinh vẽ vẫn thường có suy nghĩ vẽ vật đó chứ chưa bao giờ có khái niệm
về khối của vật đó, mà vẽ theo mẫu thì yếu tố khối hình mới là trọng tâm. Tuy nhiên vẽ theo
mẫu ở tiểu học không đòi hỏi học sinh diễn tả được khối rõ ràng mà chỉ yêu cầu học sinh có
khái niệm về “khối” mà thôi. Vì lý do này, học sinh cần chuẩn bị tốt điều kiện để tham gia
vào tiết học một cách tích cực và hiệu quả như sau:
+ Việc xem bài trước là công việc đầu tiên của học sinh. Từ đó, học sinh sẽ tìm hiểu
mẫu ở nhà (nếu có) hoặc mẫu tương tự, sẽ tạo được thói quen chủ động cho học sinh . Cũng
có những bài học sinh cần chuẩn bị mẫu cá nhân để giờ thực hành học sinh làm việc một
cách độc lập. Ví dụ như: bài vẽ lá cây (MT lớp 2 bài 19 trang 40). Muốn vẽ tốt được yêu cầu
của bài (vẽ một lá cây), thì học sinh nên quan sát trước lá cây ở nhà và chuẩn bị ít nhất một
lá cây để đến lớp làm bài thực hành vẽ lá cây mình đã chuẩn bị. Việc chuẩn bị này giúp học
sinh tư duy nhanh hơn, so sánh dễ dàng hơn và đặc biệt tiếp thu bài cũng nhanh hơn.
+ Việc chuẩn bị đồ dùng học tập cũng là một yếu tố rất cần thiết đối với học sinh. Bởi
vì, cũng như thầy (T) nếu chuẩn bị thiếu mẫu thì không phải là dạy vẽ theo mẫu, còn trò (H)
nếu thiếu đồ dùng học tập cũng coi như là không phải học mĩ thuật. Những đồ dùng của học
sinh không thể thiếu được đó là: Vở mĩ thuật (Vở tập vẽ đối với lợp 1,2,3); bút vẽ (bút chì,
bút dạ mầu, bút sáp mầu…). Học sinh mà đã chuẩn bị được đồ dùng học tập tức là giờ giảng
đã được góp một phần lớn vào hiệu quả của giờ dạy.
Như chúng ta thấy nếu học sinh không có vở dẫn tới học sinh không làm bài, hoặc làm
lấy lệ và chắc chắn phần chuẩn bị ở nhà là học sinh không hề chú ý, không muốn nói là
không cần chuẩn bị, và nếu học thiếu mầu, hoặc bút chì các em sẽ thực hành một là bằng bút
mực, hai là chờ để mượn của bạn khác. Như vậy chúng ta thấy rất rõ học sinh không chuẩn
- -
11
…… Nguyễn Văn Quang
bị đồ dùng học tập dẫn tới hai hiện trạng đó là ở nhà thì không chuẩn bị, ở lớp thì lười làm
bài. Do mượn đồ dùng học tập lớp học sẽ rất mất trật tự và ảnh hưởng không nhỏ tới chất
lượng tiết dạy.

* Như vậy việc chuẩn bị tốt của T và của H cho bài học vẽ theo mẫu sẽ đem lại hiệu
quả cao cho tiết học và khắc phục được cách Dạy-Học cũ và lạc hậu.
2/. VẤN ĐỀ THỨ HAI: HƯỚNG DẪN HỌC SINH QUAN SÁT, NHẬN XÉT
MẪU
Dạy mĩ thuật nói chung và vẽ theo mẫu nói riêng, phải thực hiện theo hướng để học
sinh làm bài thực hành là chính (thời gian khoảng 20 - 25 /40 phút của tiết học).Thế nhưng
thời gian đầu giờ (10 -15 phút) là thời gian giảng lý thuyết. Phần này tuy chiếm ít thời gian
nhưng lại là một việc vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành kiến thức mĩ thuật, kiến
thức vẽ theo mẫu đối với học sinh.
a/. Thực tế:
Lâu nay dạy vẽ theo mẫu thường là qua loa nhất trong tất cả năm phân môn của bộ
môn mĩ thuật. Bởi một lẽ đồ dùng dạy học thiếu rất nhiều, mẫu vẽ hầu như không có trong
suốt chương trình tiểu học. Mà giáo viên thì việc chuẩn bị mẫu cho học sinh quá nhiều là
điều không thể.
Mặt khác học sinh ngồi học 30 40 học sinh /lớp, bàn thẳng kê xếp cố định theo
hướng lên bảng. Với điều kiện như thế thì việc học sinh quan sát mẫu là một điều tương đối
phức tạp và hiệu quả là cả một vấn đề cần bàn tới. Song song với hai thực trạng trên thì việc
học sinh có cần quan sát mẫu hay không lại là một vấn đề khác bức xúc không kém. Bởi vì,
kết quả của các bài vẽ như vậy thường đơn điệu, cứng nhắc…Từ những thực tế ấy trong lúc
ta chuẩn bị điều kiện cơ sở vật chất cho môn học còn chưa đồng nhất thì mỗi người giáo
viên chúng ta cần đưa ra những phương pháp cụ thể, một mặt để khắc phục, một mặt để nâng
cao hiệu quả dạy vẽ theo mẫu là tất yếu.
b/. Phương pháp.
- -
12
…… Nguyễn Văn Quang
Trong 45 bài vẽ theo mẫu ở tiểu học được chia đều cho 5 lớp là những bài vẽ từ đơn
giản và nâng cao dần theo cấu trúc chương trình đồng tâm. Vì vậy ở những lớp nhỏ (lớp
1,2,3) thường là những mẫu vẽ hết sức đơn giản như: hình vuông, hình tam giác, hình tròn,
cái túi xách, cái cốc, cái xô…. . Còn ở lớp cao hơn (lớp 4,5) nhìn chung những mẫu vẽ đều là

các đồ dùng vật dụng trong gia đình. Cho nên, việc hướng dẫn quan sát mẫu cho học sinh là
rất cụ thể, rất gần gũi, chỉ cần đòi hỏi giáo viên sử dụng phương pháp phù hợp là sẽ đạt hiệu
quả cao.
Hầu hết các mẫu vẽ ở tiểu học đều là những hình vẽ đơn giản, giáo viên giới thiệu mẫu
và hướng dẫn quan sát, so sánh tối đa từ 5 7 phút thì đòi hỏi giáo viên phải có lời giảng
cũng như yêu cầu cô đọng, dễ hiểu và phải thự tế.
Trong phương pháp giảng dạy cũ: Giáo viên thường vấn đáp học sinh và học sinh trả
lời câu hỏi máy móc thậm chí vu vơ bởi học sinh thường không chú ý tới mẫu. Do đó, việc
đầu tiên để dạy tốt và hướng dẫn tốt học sinh quan sát, nhận xét thì giáo viên cần chủ động
khắc phục cách bày mẫu và chuẩn bị mẫu cũng như phương pháp cho học sinh quan sát mẫu.
- Giáo viên bầy mẫu: lớp học thường đông cho nên giáo viên nên bầy mẫu vào giữa
lớp và kê bàn ghế theo hình chữ u để học sinh nào cũng có cự ly gần với mẫu, và đảm bảo
các em được quan sát mẫu 100%, không có hiện tượng học sinh này quan sát “mẫu” tại
“gáy” học sinh ngồi trước mình.
- Giáo viên chuẩn bị mẫu: Nếu là những mẫu nhỏ, như cái cốc, cái lá, quả cây… Giáo
viên nên chuẩn bị nhiều mẫu gống nhau để học sinh quan sát theo nhóm (số lượng nhóm tuỳ
thuộc vào điều kiện thực tế lớp học để giáo viên quyết định). Khi học sinh quan sát theo
nhóm, học sinh sẽ nhận xét, so sánh mẫu rất hiệu quả, khắc phục được việc học sinh không
quan sát mẫu, nói chuyện và đùa nghịch. Nhưng cái lớn nhất đạt được là học sinh đều nhận
xét và có khả năng mô phỏng lại được mẫu gần giống thực.
- Giáo viên chủ động đối với phương pháp dạy quan sát mẫu: Việc hướng dẫn của giáo
viên dạy vẽ theo mẫu là rất khéo léo, học sinh tiểu học do tâm lý lứa tuổi các em chỉ nhận
thức vấn đề từ cảm tính, nhìn thấy thực tế. Vì lý do này, giáo viên cần hình tượng, cụ thể hoá
- -
13
…… Nguyễn Văn Quang
mẫu vẽ thành những hình phải đơn giản, cụ thể và dễ mô phỏng. Ví dụ: Vẽ cái cốc trước hết
phải hướng dẫn học sinh vẽ một hình học giống cái cốc đã, như hình chữ nhật chẳng hạn.
Vậy để vẽ được hình cái cốc cần phải vẽ hình chữ nhật trước, như vậy chúng ta thấy cụ thể
hoá hình vẽ rất quan trọng, đó chính là quá trình qui đổi mẫu vẽ thành một hình học có tên,

dễ vẽ, từ đó việc biểu hiện mẫu trên bài vẽ là rất dễ dàng, đơn giản.
- Trước đây giáo viên hay cho học sinh nhận xét hay so sánh mẫu bằng lời không
(phương pháp này chưa hợp với học sinh tiểu học chỉ phù hợp với học sinh trình độ cao
hơn). Vì các em còn rất nhỏ, khái niệm về mĩ thuật còn hạn chế nhiều, nên giáo viên cần
hướng dẫn học sinh so sánh mẫu ngoài bằng lời ra còn bằng cả hành động (động tác). VD:
Khi hướng dẫn các em quan sát để tìm ra hình chung của mẫu giống hình gì ? . Nếu giáo
viên chỉ sử dụng câu hỏi không, buộc học sinh phải hình dung khó hơn, lâu hơn, nhưng nếu
giáo viên hỏi xong rồi dùng thước kẻ chặn hai chiều, theo chiều ngang và chiều dọc. Lúc đó
học sinh sẽ được cụ thể hoá hình chung của mẫu là hình học gì? Bằng phương pháp này học
sinh sẽ nhận xét nhanh hơn và hiệu quả hơn, tỷ lệ hình dễ chuẩn xác hơn.
- Khi đặt câu hỏi quan sát cần sử dụng những cụm từ ít chuyên môn (từ khó) mà sử
dụng những cụm từ đơn giản nhưng dễ hiểu như: Đối với từ khó: Các em cho biết tỷ lệ của
vật mẫu như thế nào ? ; Thay bằng cụm từ dễ hơn: Em hãy so sánh xem chiều cao của mẫu
với chiều ngang của mẫu như thế nào ? Khi giáo viên đặt câu hỏi như vậy thì học sinh sẽ tập
trung vào so sánh, nhận xét và đưa ra kết quả ngay, đã giản đơn được một bước phải suy
nghĩ tỷ lệ là gì đối với học sinh.
Căn cứ vào thực tế cùng phương pháp giảng dạy cải tiến đối với phân môn vẽ theo
mẫu, tôi đưa ra một số ví dụ áp dụng nội dung đổi mới cho vấn đề hướng dẫn quan sát nhận
sét.
c/. Một số ví dụ:
+ Bài 4: vẽ hình tam giác - MT 1 Vở tập vẽ trang 9.
Mục tiêu của bài là học sinh biết cách vẽ hình tam giác, và vẽ được một số hình tượng
bắt nguồn từ hình tam giác.
- -
14
…… Nguyễn Văn Quang
Để đưa học sinh thực sự vào hoàn cảnh có vấn đề giáo viên hướng dẫn học sinh quan
sát nhận xét theo hướng tích cực của học sinh. Với những yêu cầu chuẩn bị đối với giáo viên
và học sinh, thì học sinh có thể chủ động nêu được đặc điểm của hình tam giác.
- Giáo viên đưa một số mẫu giống hình tam giác (cái nón, ê ke, khăn quàng…) rồi

giáo viên đặt câu hỏi: Những vật này giống hình gì ? Học sinh sẽ tư duy so sánh nhận
xét  đua ra kết quả là giống hình tam giác.
- Giáo viên cho học sinh nhận xét, trong gia đình mình còn có những vật dụng gì
giống hình tam giác ?
Lúc này do học sinh được chuẩn bị kĩ ở nhà và cách gợi tả của giáo viên qua câu hỏi
thứ nhất về các đồ vật, học sinh sẽ nhận biết và kể rất nhiều thứ ở gia đình mình giống hình
tam giác. Với hình học đơn giản này giáo viên không cần hướng dẫn học sinh vào cấu tạo
của tam giác . Bởi vì, hình tam giác các em đã được làm quen và biết rõ từ khi các em học
mẫu giáo lớn, và từ đầu lớp 1 qua môn toán. Vì vậy, giáo viên sẽ tập trung để học sinh hiểu
được vẽ một hình tam giác cần vẽ như thế nào (cách vẽ) và để hiểu được thì học sinh phải
biết quan sát và nhận xét hình.
Do yêu cầu của bài đối với phần thực hành (giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ một bức
tranh về biển bằng những hình tam giác). Nên ở phần chuẩn bị giáo viên chú ý tới trực quan
của bài (hình vẽ thuyền buồm, núi, các con cá), những trực quan đều phải bắt nguồn (giống
hình tam giác). Tới lúc này, sau khi giáo viên cho học sinh kể được tên của nhiều đồ vật
giống hình tam giác, giáo viên sẽ treo một số tranh gợi ý mà giáo viên đã chuẩn bị như:
Tranh vẽ một thuyền buồm, học sinh sẽ nhận xét phần nào của thuyền buồm gống hình tam
giác. Tương tự như vậy đối với các hình khác giáo viên cũng đưa học sinh vào hoàn cảnh có
vấn đề (tức là cho học sinh nhận xét và nêu lên nhận xét riêng của mình).
Như vậy đối với tiết học vẽ theo mẫu này mặc dù học sinh đông (35 học sinh/ 1 lớp
vẫn ngồi học ở lớp học thông thường, nhưng do mẫu vẽ là hình tam giác cho nên việc hướng
dẫn học sinh không mấy khó khăn gì, chỉ đòi hỏi giáo viên cần đưa học sinh vào hoàn cảnh
- -
15
…… Nguyễn Văn Quang
có vấn đề, để các em chủ động tích cực quan sát nhận xét mẫu, so sánh và nhận biết nhanh,
có như vậy kiến thức đến với học sinh không bị áp đặt, không bị gò ép.
+ Bài 24: Vẽ cái ám tích và cái bát MT 5 trang 50.
Đối với bài này mục tiêu đặt ra đó là học sinh tập quan sát, so sánh, ước lượng tỷ lệ
mẫu ghép (hai mẫu) để tìm ra vị trí, kích thước các bộ phận của mẫu và biết cách vẽ mẫu

ghép. Riêng về kĩ năng yêu cầu học sinh vẽ được gần đúng mẫu (diễn tả được đặc điểm, tỷ lệ
chính của mẫu).
Bài vẽ theo mẫu này có thể nói là kiến thức cuối của chương trình mĩ thuật tiểu học về
phân môn vẽ theo mẫu. Bởi vì, vẽ mẫu ghép (hai mẫu) chỉ được áp dụng khi học sinh đã có
vốn kiến thức tương đối hay nói cách khác chỉ dành cho học sinh cuối cấp. Như vậy, cũng là
bài vẽ theo mẫu ở tiểu học nhưng ở mỗi bài, mỗi lớp giáo viên lại chọn phương pháp riêng
sao cho phù hợp, ở đây ta thấy bài 4 (vẽ hình tam giác) của mĩ thuật lớp 1, chỉ cần chuẩn bị,
áp dụng phương pháp linh họat là bài dạy đã đạt được hiệu quả cao, nhưng bài này đòi hỏi
giáo viên phải sử dụng nhiều phương pháp, đặc biệt là vấn đề quan sát nhận sét mẫu. Đối
tượng học sinh là lớp 5, kiến thức mĩ thuật đang dần hoàn thiện ở trình độ sơ đẳng (cấp tiểu
học). Mẫu vẽ đòi hỏi phải so sánh nhiều, điều kiện Dạy-Học lại là một vấn đề khó. Vậy, giáo
viên (người làm nhiệm vụ dẫn đường, gợi mở) cần đặc biệt chú trọng, tìm tòi cách chuyển tải
bài giảng theo hướng tích cực:
- Trước hết là chuẩn bị: Theo phương pháp mà tôi đã đề cập ở phần trước (Vấn đề thứ
nhất) giáo viên - học sinh - cơ sở vật chất phải được chuẩn bị tốt. Vẽ mẫu này đòi hỏi học
sinh phải được ngồi (đứng) vẽ theo hình chữ u. Tức là mẫu được bầy ở giữa phòng, học sinh
ngồi (đứng) vẽ ở ba hướng khác nhau: Hướng bên trái, hướng bên phải và cuối lớp. Mẫu
phải được giáo viên bầy không cao quá đường tầm mắt (không cao hơn mắt học sinh), mẫu
vẽ phải đảm bảo có mĩ quan, có vải trắng trải bàn để bầy mẫu, chú ý cho học sinh nhỏ đứng
(ngồi) trước học sinh lớn.
- Trước khi vào phần hướng dẫn học sinh quan sát nhận xét, giáo viên đặt câu hỏi:
Mẫu hôm nay vẽ có gì khác với mọi khi ?. Mục đích để học sinh hiểu được đây là một mẫu
- -
16
…… Nguyễn Văn Quang
khó, đòi hỏi học bài cần tập trung cao, có tư duy so sánh, tạo không khí thích tìm tòi, khám
phá của học sinh, và gây chú ý cho học sinh đối với mẫu bầy phía trước.
- Đối với phần quan sát hình chung: Giáo viên nên chuẩn bị hai miếng bìa: Một miếng
được đục lỗ hình chữ nhật bao quanh cả hai mẫu, có thể làm cả ba hướng thì cần ba miếng
đục lỗ ca chiều rộng khác nhau; và một miếng bìa đục thủng hình chữ nhật bao quanh vừa

cái bát, hình nhỏ này chỉ cần một bởi cái bát nhìn ở hướng nào cũng có tỷ lệ giống nhau.
Mục đích của sự chuẩn bị này là khi đặt câu hỏi đối với học sinh về hình chung và hình riêng
của vật mẫu trông giống hình gì?, hình riêng của cái bát nhỏ bằng một phần mấy của hình
chung ? ; hoặc hình riêng của các vật so sánh với nhau. Khi giáo viên cụ thể hoá bằng cách
đục lỗ miếng bìa thì học sinh nhận xét hình rất nhanh và so sánh rất tốt bởi vì, trẻ ở tiểu học
thường cảm nhận trực quan là chính. Nếu chúng ta hướng dẫn học sinh bằng cách chỉ vào
mẫu và yêu cầu học sinh so sánh, cho biết hình chung, hình riêng thì e rằng học sinh ước
lượng, tính toán rất khó chính xác được. Việc đục lỗ miếng bìa làm đơn giản ở chỗ học sinh
sẽ chỉ nhìn thấy một lỗ thủng mà trong nó (phía sau) chứa chọn vẹn mẫu vẽ, đương nhiên
khái niệm về hình chung, hình riêng hình thành rất nhanh.
- Đối với việc quan sát so sánh từng phần của từng vật mẫu: Do đây là mẫu ghép (hai
mẫu) nên hai đồ vật sẽ có rất nhiều chi tiết: Như miệng của tích, vòi tích, quai sách của tích,
miệng bát, chôn bát. Và đặc biệt chú ý (học sinh hay mắc phải) hướng dẫn học sinh quan sát
khi ngồi ở những vị trí khác nhau sẽ thấy mẫu thay đổi rõ rệt. Cái ấm tích ngồi ở vị trí khác
nhau sẽ thấy vòi và quai khác nhau. Có những vị trí không thấy vòi. Do đó, giáo viên sẽ đặt
câu hỏi ở ba vị trí (chủ động chọn theo ý đồ) để có ba hình vẽ tương ứng: Thấy vòi ở bên trái
tích, thấy vòi ở bên phải tích và thấy vòi ở chính giữa tích. Tương tự như vậy giáo viên cần
đặt câu hỏi để học sinh nhận xét cái bát với cái tích cũng có vị trí thay đổi khi học sinh ngồi
ở vị trí khác nhau. Giáo viên cho học sinh nhận xét theo vị trí nhìn thấy: tích che mất một
phần của bát, và vị trí thấy bát che mất một phần của tích. Ở những phương pháp này mục
đích cho học sinh nhận ra mẫu vẽ sẽ thay đổi khi nhìn ở những vị trí khác nhau, nhưng lại
đòi hỏi giáo viên quan sát vị trí học sinh ngồi để học sinh nhận xét hình nhìn thấy đúng như
- -
17
…… Nguyễn Văn Quang
ý đồ chuẩn bị của giáo viên, việc này không khó nếu khi giáo viên bầy mẫu đã đi quan sát
trước một lần.
- Đối với việc quan sát, nhận xét mầu sắc (đậm nhạt) của vật mẫu. Hệ thống bài vẽ
theo mẫu ở tiểu học, về vấn đề quan sát để nhận biết đậm nhạt cũng rất quan trọng. Khi nhận
xét học sinh hiểu được đậm nhạt thì sẽ hiểu và mô phỏng được khối. Tuy nhiên đối với

những lớp nhỏ như lớp 1,2,3 việc vẽ đậm nhạt thực sự chưa cần thiết, nhưng học sinh cũng
phải hình thành được khái niệm đậm và nhạt. Vì thế, ở bài này giáo viên cần hướng dẫn học
sinh quan sát mẫu và nêu nhận xét của mình về đậm nhạt. Bởi vì đối tượng của bài này đã
được học và vẽ mĩ thuật trong 4 năm, đặc biệt đây lại là những bài vẽ theo mẫu cuối cùng
của chương trình tiểu học. Để học sinh nhận biết được đậm nhạt, chúng ta cần chọn một
hướng ánh sáng chiếu vào mẫu, giáo viên sẽ đóng một vế cửa lại chỉ mở một bên để tạo ánh
sáng chiếu một chiều vào vật mẫu. Lúc đó học sinh quan sát mẫu sẽ nhận dạng được tối thiểu
3 sắc độ. Một số giáo viên hướng dẫn quan sát đậm nhạt lại đặt câu hỏi: Em cho biết nhìn
mẫu vẽ thấy mấy độ đậm nhạt ? Như vậy khái niệm của thầy chưa cụ thể khiến nhiều học
sinh chưa thể hình dung được sắc độ là gì ?. Ngược lại, nếu giáo viên thay bằng: Em nhìn lên
mẫu thấy phần bên nào là đậm nhất ? Tương tự như vậy đặt câu hỏi với phần sáng nhất. Còn
ở giữa em thấy độ đậm nhạt như thế nào ? (* ở giữa là độ sáng trung gian). Nếu mẫu được
chuẩn bị là hai vật có mầu đậm nhạt khác nhau thì giáo viên cũng cần gợi ý sự quan sát của
học sinh theo cách tương tự.
* Qua hai ví dụ cụ thể trên chúng ta thấy để bắt đầu học vẽ nói chung và vẽ theo mẫu
nói riêng thì việc quan trọng đó là phải quan sát, nhận xét. Khi quan sát nhận xét đầy đủ mẫu
việc tiến hành vẽ của học sinh sẽ dễ dàng và ít mắc phải lỗi sai lớn về tỷ lệ, hình dáng. Có
thể nói phần hướng dẫn quan sát nhận xét là điều kiện bất biến để hướng dẫn tiếp học sinh
cách vẽ.
3/. VẤN ĐỀ THỨ BA: HƯỚNG DẪN HỌC SINH CÁCH VẼ.
Cấu tạo của tiết vẽ theo mẫu được chia làm hai phần: Phần một là hướng dẫn; phần hai
là thực hành. Thời gian cho hai phần này cũng khác nhau: Phần hướng dẫn rất quan trọng
- -
18
…… Nguyễn Văn Quang
nhưng giáo viên lại không được giảng quá nhiều chỉ nên chiếm 1/4 hoặc 1/3 tiết học (khoảng
10 - 15 phút) trong đó lại gồm 2 phần hướng dẫn đó là: hướng dẫn quan sát, hướng dẫn cách
vẽ. Phần quan sát chúng ta vừa được tìm hiểu xong. Riêng phần cách vẽ giáo viên cũng nên
hướng dẫn học sinh cụ thể và đơn giản theo một số nội dung sau:
a/. Hướng dẫn về bố cục (cách sắp xếp): Trước hết bài vẽ bao giờ giáo viên cũng cần

phải hướng dẫn học sinh xây dựng ý đồ với một bố cục đẹp, tức là sắp xếp phải cân đối,
thuận mắt. Ở phần hướng dẫn này giáo viên vẫn thường xuyên không chú ý tới vai trò của
nó, mà thường hướng dẫn qua loa, không cơ bản và nhất quán khiến cho các em hay vẽ nhỏ
quá (phổ biến) và vẽ lệch trang giấy. Như vậy kết quả bài vẽ chưa đẹp mắt không dám nói
nhiều bài còn thấy khó chịu. Vì vậy, tôi đưa ra một phương pháp để thay đổi cách tiếp nhận
kiến thức của học sinh. Nhằm khắc phục một số yếu điểm của phương pháp cũ. Nếu trước
đây giáo viên thường chỉ nói áp đặt cho học sinh “các em không được vẽ nhỏ quá, to quá
hoặc lệch trái, lệch phải”. Như vậy học sinh sẽ không khắc sâu, thậm chí nhiều em không
chú ý, dẫn đến tác dụng của lời “nhắc” đó ít hiệu quả. Còn theo tôi để hướng dẫn học sinh
vào vấn đề thì nên đặt học sinh trong hoàn cảnh đó: Giáo viên treo trực quan bao gồm 4 hình
vẽ vật mẫu trong đó có: một hình được vẽ rất nhỏ ở giữa trang giấy; một hình có hình vẽ lệch
sát sang một mép của trang giấy; một hình vẽ thật lớn kín hết cả chiều cao giấy và cuối cùng
một hình vẽ cân đối đẹp mắt. Sau đó cho học sinh tự chọn và nhận xét bài đẹp nhất (các bài
được đánh số từ 1 4 theo thứ tụ như trên). Khi học sinh được quan sát, nhận xét thì việc
tìm ra bài vẽ thứ 4 đẹp là điều rất dễ dàng. Qua đó giáo viên đặt câu hỏi ngược lại: Tại sao
hình 1,2,3 lại là hình chưa đẹp ?. Và tất cả những lý do ấy được học sinh nêu ra một cách rõ
ràng, nếu trả lời chưa đầy đủ giáo viên có thể bổ sung (vẫn theo hướng gợi ý) nhằm phát huy
tính tích cực ở học sinh.
Như vậy cái hình ảnh gọi là, không đẹp, chưa đẹp ấy (hình 1,2,3) sẽ được học sinh ghi
đậm trong trí nhớ của mình, thường thì tâm lý trẻ hình tượng bao giờ cũng dễ nhớ hơn và
nhớ lâu hơn. Điều đó sẽ dẫn đến kết quả học sinh khi vẽ phải nghĩ ngay tới bài đẹp nhất để
bắt trước hay làm theo. Như vậy, tránh được hiện tượng học sinh vẽ theo sự sắp xếp tự do
không có chuẩn mực nào cả.
- -
19
…… Nguyễn Văn Quang
b/. Hướng dẫn học sinh vẽ hình chung của mẫu.
Vẽ theo mẫu, tức là nhìn mẫu rồi mô phỏng lại mẫu, mà muốn mô phỏng được mẫu
học sinh cần có khái niệm vẽ, hình thành được các bước vẽ trong đó bước vẽ hình chung cho
mẫu được ví như thợ xây dựng muốn xây được cái nhà thì phải cần xây cái móng, cũng như

vậy muốn vẽ được theo mẫu thì dựng hình chung cũng là nền tảng cho bài vẽ. Khung hình
chung có nghĩa là hình của mẫu vẽ được chứa chọn vẹn bên trong khung hình ấy. Khi xác
định bố cục của bài vẽ chiếm bao nhiêu giấy tức là khung hình chung sẽ chiếm từng ấy. Khi
vẽ khung hình chung học sinh chủ động được tỷ lệ với trang giấy là điều mà mỗi giáo viên
chúng ta ai cũng rất cần.
Việc hướng dẫn vẽ kung hình chung này được đơn giản và hiệu quả thì phần quan sát
nhận xét sẽ đóng một vai trò tương đối quan trọng. VD như trong phần vẽ khung hình chung
này đã được giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát bằng cách đục lỗ trên tấm bìa. Do đó,
khái niệm hình chung đến với học sinh sẽ dễ dàng hơn. Nếu ở phần hướng dẫn quan sát
nhận sét giáo viên không sử dụng phưng pháp đó. Khi giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ
khung hình chung cần đặc biệt chú ý tới tỷ lệ (tức là chiều rộng so với chiều cao). Nếu khung
hình có tỷ lệ chuẩn thì việc mô phỏng mẫu sẽ khó giống thực.
Ngay từ đầu, khi giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ hình chung cần phải yêu cầu học
sinh không được dùng thước kẻ để kẻ hình chung. Thông thường khi giáo viên minh họa trên
bảng học sinh thấy hình chung vốn thường là hình chữ nhật hay hình vuông cho nên tiện thể
dùng thước kẻ để kẻ cho thẳng, đó thực sự là một thói quen cần phải định hướng lại ngay từ
bây giờ bởi lúc này các em mới đang bắt đầu làm quen với mĩ thuật. Vẽ theo mẫu trong
chương trình mĩ thuật tiểu học còn có rất nhiều bài có dáng hình dạng nét thẳng cho nên giáo
viên không uốn nắn ngay từ bây gì thì các em sẽ tạo thành thói quen, lối mòn khó gỡ bỏ.
Phân môn vẽ theo mẫu luyện tập khả năng vẽ nét và đậm nhạt, trong đó vẽ nét là yếu tố rất
quan trọng. Khi tay đã vẽ luyện nét thuần thục rồi thì việc vẽ các phân môn khác là rất khả
dĩ. Chính vì vậy , mà giáo viên không được để các em (học sinh) dùng thước kẻ hoặc compa
để vẽ theo mẫu nếu vẽ như vậy thì nét vẽ của học sinh không mềm mại, thay vào đó là nét vẽ
- -
20
…… Nguyễn Văn Quang
cứng nhắc, đơn điệu, việc tạo nên nét vẽ đơn điệu và cứng nhắc là điều gây cản trở lớn khi
học sinh học cao lên, đòi hỏi vẽ mẫu khó hơn.
c/.Tìm và xác định vị trí của các bộ phận chi tiết trên mẫu vẽ.
Khi hoàn thành được hình chung của mẫu rồi, việc tiếp theo của giáo viên trong phần

hướng dẫn cách vẽ là hướng dẫn học sinh xác định một số bộ phận chi tiết VD như: Đối với
các khối cơ bản cần xác định các mặt, đối với các vật dụng thì cần xác định các bộ phận chi
tiết trên vật dụng đó. Phần này học sinh sẽ làm tương đối nhanh, giáo viên cũng không nên
hướng dẫn nhiều bởi nó sẽ thừa vì phần hướng dẫn quan sát nhận xét giáo viên đã cụ thể rõ
ràng. Như vậy, giáo viên cần tập trung hướng dẫn học sinh một số thao tác vẽ (cách dựng
hình cơ bản), những thao tác này vẫn còn nhiều giáo viên bỏ qua, hoặc xem nhẹ dẫn đến học
sinh cũng vẽ đại khái.
Trước hết giáo viên cần hướng dãn học sinh vẽ được trục đối xứng cho bài vẽ có mẫu
cân đối, đối xứng, có chiều đứng như một số mẫu: Cái cốc, khối hộp, cái phích, cái bát… khi
học sinh xác định được trục đối xứng thì việc vẽ mẫu sẽ không bị đổ ngả đổ nghiêng.
Tiếp theo giáo viên yêu cầu học sinh nêu lại những gì ở phần quan sát nhận xét tìm ra
và cho một học sinh lên bảng đánh dấu vị trí các bộ phận riêng lẻ của mẫu. Lúc này cái mới
ở đây là đã đưa học sinh thực sự vào hoàn cảnh có vấn đề. Với khung hình chung và trục đối
xứng (nếu có) giáo viên đã minh họa xong qua từng bước hướng dẫn, thì việc học sinh đánh
dấu vị trí của các bộ phận theo nhận xét của chính mình và của các bạn khác là điều hoàn
toàn có thể. Làm như vậy vừa tạo được không khí học tập sôi nổi, vừa tập trung được nhiều ý
kiến của học sinh, và giáo viên quan sát lớp học dễ hơn, kịp thời nhắc nhở những em dưới
lớp.
d/. Hướng dẫn học sinh vẽ phác bằng nét thẳng:
Tới phần này thì bài vẽ đã đang dần hiện bộ khung của bài. Để vẽ được bài giáo viên
không nên cho học sinh vẽ nét cong giống thực luôn mà phải vẽ phác bằng nét thẳng trước.
Ở bước này giáo viên cũng yêu cầu học sinh luôn: khi phác hình phải dùng bút chì, nhưng vẽ
- -
21
…… Nguyễn Văn Quang
nhẹ tay để tạo thành nét mờ. Một lần nữa giáo viên nhắc lại vẽ phác bằng nét thẳng chứ
không phải kẻ nét thẳng bằng thước kẻ.
Phần này việc quan trọng là làm thế nào để cho học sinh hiểu có bước vẽ nét thẳng thì
hình vẽ sẽ chuẩn và dễ đẹp hơn là chúng ta vẽ nét cong ngay. Lúc đó giáo viên sẽ sử dụng
phương pháp trực quan bằng thị phạm, giáo viên vẽ minh họa hai kiểu vẽ cùng thể hiện một

hình tròn: kiểu thứ nhất lấy tay ngoáy luôn hình tròn tất nhiên giáo viên phải ngoáy hơi méo,
hơi vẹo (bởi lẽ học sinh khó có thể vẽ được tròn bằng cách này, còn giáo viên minh họa
nhiều thì có thể vẽ đơn giản); kiểu thứ hai, cũng vẽ hình tròn nhưng giáo viên vẽ một hình
vuông trước sau đó vát cạnh, góc vuông dần dần cuối cùng tạo được hình tròn đúng với
khung hình và hình tròn sẽ chuẩn và đẹp. Mục đích của cách minh họa này là học sinh so
sánh được 2 cách vẽ: một cách có khung hình chung và một cách không có khung hình
chung và để học sinh thấy cách thứ hai là cách nên làm theo. Lúc này giáo viên cho học sinh
trả lời câu hỏi: Nếu ta vẽ theo mãu nếu cứ vẽ hình luôn vào vở không cần xác định khung
hình gì thì kết quả theo em sẽ như thế nào ?. Giáo viên sẽ để cho học sinh thoả mái trả lời
theo suy nghĩ của mình, sau nhiều ý kiến giáo viên sẽ giải thích thêm và hướng dẫn các em
vẽ phác nét thẳng theo mẫu bầy trên bảng. Việc giáo viên vẽ phác sẽ tác động trực tiếp tới ý
thức của học sinh cũng có khi là tích cực cũng có khi là không tích cực: VD như: Nhiều em
thấy giáo viên vẽ phá nét thẳng thì mình cũng bắt trước vẽ nét thẳng nhưng bằng bút mực,
khiến hình vẽ bị bẩn và rất rối mắt nếu vẽ tiếp các bước khác. Điều đó chứng tỏ học sinh vẫn
chưa hiểu thật sâu là nét thẳng chỉ để làm khung xương sau lại tẩy đi ngay.
Vì vậy, mà giáo viên nên cho học học sinh được trả lời vấn đáp nhiều giúp các em
hiểu rõ tác dụng cũng như hiệu quả của vẽ phác nét thẳng, để tránh tình trạng học sinh vẽ vu
vơ, hay vẽ nét tự do.
e/. Hướng dẫn vẽ chi tiết (vẽ mô phỏng giống mẫu):
Bước vẽ này có thể coi là bước cuối (hoàn thiện hình) đối với các lớp nhỏ (1,2,3), còn
đối với các lớp lớn (4,5) chúng tta sẽ hướng dẫn thêm một bước nữa (vẽ đậm nhạt). Vẽ chi
tiết tức là học sinh sẽ vẽ những gì các em quan sát, so sánh, nhận xét và nhìn thấy trên vật
- -
22
…… Nguyễn Văn Quang
mẫu. Đích cuối cùng của bài vẽ theo mẫu đối với học sinh tiểu học là mô phỏng được mẫu.
Sau các bước quan sát, dựng hình, phác hình thì bước này có thể nói là bước hoàn thiện. Từ
những nét vẽ phác trông bản thân nó đã gần giống mẫu, giáo viên chỉ cần hướng dẫn học
sinh vẽ bám theo các nét thẳng để hoàn thiện. Việc hướng dẫn học sinh, giáo viên cần chú ý
tới đối tượng của mình dưới lớp. Cũng có nhiều em có năng khiếu hoặc tiếp thu nhanh và dễ

dàng vẽ bài, nhưng cũng có nhiều em do khả năng của bản thân và yêu cầu của bộ môn vẫn
chưa đáp ứng được hay vẽ còn lúng túng, thao tác còn vụng về. Chính vì điều đó mà giáo
viên phải sử dụng những phương pháp phù hợp để các em giỏi, có năng khiếu vẫn thích thú,
các em yếu lấy đó làm lời động viên, khích lệ và có hứng thú học tập hơn. Phần này giáo
viên không nên giảng áp đặt: Giả dụ các bước trước giáo viên đã minh họa xong (đã vẽ bằng
nét thẳng rồi). Trên cơ sở mẫu, giáo viên đặt câu hỏi tập trung vào các bộ phận chi tiết của
mẫu. VD: bài vẽ cái cốc (bài 13 MT2 trang 28) khi phác nét thẳng xong giáo viên đặt câu
hỏi: Phần miệng của cốc và đáy của cốc là những nét gì ? (*Miệng và đáy là nét cong đều).
Giáo viên ?: Tại sao ta không để miệng cốc và đáy cốc là những nét thẳng ? (*nét vẽ chưa
giống thực). Giáo viên sẽ giảng giải thêm nét thẳng chỉ là nét mà chúng ta làm cơ sở để vẽ
nét cong, hay nói khác đi là vẽ nét cong phải dựa, bám sát vào những nét thẳng, có như vậy
hình vẽ sẽ không bị méo hay lệch lạc.
Trong lúc vấn đáp học sinh thì giáo viên vừa giảng vừa nhận xét và vừa minh họa
bảng. Vì nét vẽ bằng phấn của giáo viên ở bước vẽ phác nét thẳng vẫn còn mờ, khiến hình vẽ
minh họa bảng sẽ bị nét chồng. Giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh vẽ nét chi tiết xong cần phải
tẩy bỏ các nét chờm ra ngoài (nét phác) để hình vẽ gọn gàng hơn.
Phần cuối của bước này giáo viên cần cho học sinh xem minh họa trên giấy khổ lớn,
giáo viên sẽ vẽ hai hình trên 1/2 tờ giấy A
0
(khổ 60 x 80 cm). Một hình vẽ phác nét thẳng,
một hình vẽ chi tiết tất nhiên là phải theo mẫu bài vẽ cụ thể của bài dạy. Khi học sinh xem
tranh các em sẽ có khái niệm hình vẽ trên giấy một cách rõ ràng hơn.
g/. Hướng dẫn học sinh vẽ đậm nhạt:
- -
23
…… Nguyễn Văn Quang
Riêng phần này chỉ cần áp dụng cho đối tượng là học sinh thuộc lớp cuối cấp như lớp
4,5. Tuy nhiên đối với lớp nhỏ (1,2,3) cũng cần phải nói qua để các em dần hiểu. Bởi vì, vẽ
đậm nhạt đòi hỏi học sinh phải có kiến thức vững về hình rồi thì mới vẽ được đậm nhạt, nó
còn thể hiện cả tình cảm cảm thụ mẫu, cảm thụ cái đẹp. Khi tới phần hướng dẫn này giáo

viên cần chú ý ngay từ đầu tiết học để bầy mẫu sao cho hợp với hướng ánh sáng, đảm bảo
được một bên mẫu sẽ tối, một bên sẽ sáng để học sinh quan sát sẽ thấy độ đậm độ nhạt trên
mẫu ngay.
Đậm nhạt là một khái niệm tương đối trừu tượng đối với học sinh mới học mĩ thuật.
Vả lại, vẽ theo mẫu về sau này (các cấp học cao hơn) thì không thể thiếu được vẽ đậm nhạt.
Do đặc diểm đó, giáo viên cũng không nên đòi hỏi quá cao ở học sinh và cũng không nên
quá coi nhẹ vấn đề này. Ở tiểu học yêu cầu học sinh bước đầu nhận biết được đậm nhạt khi
vẽ theo mẫu tức là cần vẽ được ba độ đậm nhạt: Sáng, tối, trung gian. Nhưng vấn đề ở đây là
giáo viên làm thế nào để hướng dẫn học sinh hiểu được ba sắc độ tối thiểu ấy.
Cũng như nhiều phần hướng dẫn trước giáo viên sẽ sử dụng một số phương pháp tích
cực rất đặc thù của bộ môn để các em tiếp thu bài một cách hiệu quả. Giáo viên vẫn sử dụng
phương pháp trực quan, vấn đáp, nhưng vấn đáp nên hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức
tạp. Cụ thể ở phần này giáo viên nên đặt câu hỏi để học sinh tìm được phần nào là phần đậm
nhất, phần nào là phần sáng nhất, giữa đậm và nhạt (sáng) là độ đậm gì? Nó không phải là
đậm và cũng không phải là nhạt vậy sẽ là độ đậm trung gian của sáng - tối. Khi giáo viên đặt
câu hỏi tìm độ đậm nhất: VD: Em hãy tìm trên mẫu phần nào trông đậm nhất ?. Như vậy,
học sinh sẽ quan sát và nhận xét sau đó đưa ra kết quả ngay. Tương tự như vậy, giáo viên hỏi
các độ đậm nhạt khác học sinh cũng sẽ tìm ra dễ dàng. Tới lúc đó giáo viên sẽ giảng giải độ
đậm nhạt có do đâu? và tại sao lại cần độ đậm nhạt?: Giáo viên treo bài mẫu (đã chuẩn bị)
hoàn thiện có đậm nhạt lên bảng để học sinh quan sát.
Trước khi giảng giáo viên nên đặt câu hỏi gợi tư duy của học sinh: Em biết độ đậm
nhạt trên mẫu do đâu mà có không? (*do ánh sáng chiếu vào mẫu). Câu hỏi này nếu học sinh
chú ý nghe giảng và tư duy một chút các em sẽ hiểu được ngay. Khi học sinh trả lời xong
giáo viên tiếp tục giảng cho học sinh hiểu hơn về đậm nhạt: Đậm nhạt do ánh sáng chiếu vào
- -
24
…… Nguyễn Văn Quang
mẫu, có chỗ ánh sáng chiếu được vào có chỗ không chiếu vào được và tạo ra ranh giới sáng
(có ánh sáng chiếu trực tiếp), tối (không có ánh sáng chiếu trực tiếp), trung gian (có ánh sáng
ít, chiếu gián tiếp). Và giáo viên cần giải thích vẽ đậm nhạt cần cho vẽ theo mẫu là sẽ diễn tả

được không gian của mẫu, biểu đạt được khối của vật mẫu. Nếu chỉ vẽ nét không thì trông
bài vẽ giống hình học phẳng, còn nếu vẽ đậm nhạt trông bài vẽ sẽ nổi khối tức là trông giống
như ở ngoài thực, tạo cảm giác như có thể cầm, lấy và luồn tay vào mẫu vẽ của bài vẽ.
* Toàn bộ các bước hướng dẫn này nó có một vai trò rất quan trọng, tuy là rất dài,
nhưng chúng ta cũng chỉ được hướng dẫn cho các em trong vòng 5  7 phút mà thôi. Trong
thực tế giảng dạy giáo viên vận dụng linh họat các bước: Có thể gộp 2 bước làm một hoặc
cũng có thể lược bỏ bớt bước VD: bước 5 đối với học sinh lớp 1 nếu giáo viên hướng dẫn
học sinh bước này thì bất khả dụng, bởi vì các em chưa đủ kiến thức về hình thì làm sao vẽ
được đậm nhạt. Do vậy, đối với đối tượng này giáo viên có thể bỏ qua bước này. Để áp dụng
phương pháp tôi đề ra, dưới đây là một ví dụ về cách hướng dẫn học sinh vẽ theo mẫu.
Bài vẽ cái xô: (bài 9 MT lớp 5 trang 20).
* Cách dạy cũ: Thường giáo viên không chuẩn bị được mẫu mà vẽ hình cái xô lên
bảng rồi hướng dẫn các em cách vẽ, theo các bước:
+ Ước lượng chiều cao (cả miệng xô) và chiều ngang, em vẽ khung hình chữ nhật
trước (nhớ để giấy để vẽ quai xô).
+ Tìm phần miệng xô và xác định các điểm chính của miệng.
+ Ước lượng chiều ngang đáy xô.
+ Phác các nét thẳng trước, vẽ nét cong sau.
+ Nhìn mẫu, sửa lại hình và vẽ đậm nhạt (như vẽ ở khối trụ bài 8).
Thường thì do không có mẫu, giáo viên lại áp đặt lời giảng đối với học sinh, khiến học
sinh vẽ không theo mẫu, vẽ tự do và không chú ý tới bố cục làm cho hiệu quả thấp.
* Áp dụng phương pháp tôi đề ra đối với phần cách vẽ:
- -
25

×