Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKK phương pháp giảng dạy trang trí trong việc dạy học môn mĩ thuật ở THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.87 KB, 15 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I- LỜI MỞ ĐẦU.
Mĩ thuật là một trong những môn nghệ thuật. Nếu dạy học là khó thì dạy
nghệ thuật càng khó, cần phải mang tính nghệ thuật cao hơn. Song không phải là
không dạy được, vì học mĩ thuật đem lại niềm vui cho mọi người, làm cho mọi
người nhìn ra cái đẹp, thấy cái đẹp có ở trong mình, xung quanh mình, gần gũi và
đáng yêu. Đồng thời mĩ thuật giúp mọi người tự tạo ra cái đẹp theo ý mình và
thưởng ngoạn nó ngay trong sinh hoạt thường ngày của mình, làm cho cuộc sống
thêm hài hoà hạnh phúc. Bởi cái đẹp “theo đuổi” con người từ lúc lọt lòng đến khi
“trở về với cát bụi”.
Nhà trường ngày nay ngoài việc truyền thụ kiến thức khoa học kỹ thuật, còn
phải chú ý đến giáo dục thẩm mĩ, nhằm đào tạo học sinh trở thành những con
người phát triển, toàn diện để xây dựng đất nước. Đáp ứng yêu cầu thẩm mĩ ngày
càng cao và càng phức tạp của xã hội, con người đã phát huy óc sáng tạo đem lại
sự phong phú đa dạng cho nhiều hình thức và nhiều thể loại trang trí. Trang trí là
thể hiện cái đẹp của sự trình bày bằng nghệ thuật sắp xếp, đường nét, màu sắc,
hình mảng. Trang trí bắt nguồn từ thực tế đời sống xã hội. Mỗi thời đại trang trí có
những đặc điểm và yêu cầu khác nhau, cũng như nhìn nhận cái đẹp của trang trí
qua từng thời kì xã hội, tôn giáo cũng có nhiều vẻ riêng biệt. Trang trí được sử
dụng một cách rộng rãi trong đời sống, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, hầu
như ta đều thấy vai trò của nó trong đời sống hàng ngày. Tất cả mọi người chúng
ta và học sinh THCS nói riêng tiếp xúc hàng ngày với nghệ thuật trang trí, nếu biết
kết hợp, áp dụng những kiến thức học tập được, chắc chắn sẽ tìm thấy nhiều bài
học bổ ích góp phần làm cho đời sống thêm sinh động tươi đẹp. Vì vậy tôi chọn
phương pháp giảng dạy trang trí ở trường THCS để nghiên cứu và áp dụng
vào việc dạy học môn mĩ thuật ở THCS.
II – THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
1. Thực trạng
a. Về phía nhà trường.
Giáo viên: Nguyễn Văn Quang
1


Là một môn học độc lập trong chương trình THCS. Dạy và học nghiêm túc,
có kiểm tra, thi đánh giá cuối năm và kết quả là một trong những tiêu chuẩn để
xét lên lớp hay tốt nghiệp bậc học. Song thực tế hiện nay cho thấy rằng cơ sở vật
chất cho việc dạy và học mĩ thuật ở THCS thiếu thốn và nghèo nàn, nhà trường
chưa có phòng dạy mĩ thuật riêng. Các loại mẫu (hình khối, biểu bảng, tranh
ảnh…) tuy đã được nghiên cứu và sản xuất nhưng chưa đủ đáp ứng cho dạy – học
mĩ thuật, sách đọc thêm và các tài liệu tham khảo khác rất hiếm. Giáo viên phải tự
tìm tài liệu, sưu tầm ĐDDH. trong khi đó yêu cầu của bộ môn lại cần phải có
nhiều tài liệu tham khảo như: Tranh, ảnh và mẫu vẽ…
b. Về phía học sinh.
Đối với HS trường THCS Hà Lan đã từ lâu các em chưa được tiếp xúc với
bộ môn này vì vậy học mĩ thuật chưa có nền nếp, kiến thức chưa có hệ thống, thực
hành ít, môi trường thẩm mĩ hạn hẹp. HS ít được quan sát, tham quan danh lam
thắng cảnh và bảo tàng. Vì thế hiểu biết về mĩ thuật, về cái đẹp chưa sâu rộng,
không kích thích các em học tập. Đa phần HS bị chi phối, ảnh hưởng về các môn
chính, môn phụ của xã hội nhà trường. Các em phải tập trung cho các môn chính,
lo cho thi, lo đánh giá, phần nào bỏ qua sao lãng môn mĩ thuật. Hơn nữa do thiếu
phương tiện học tập, phương pháp thực hành thiếu linh hoạt, nên bài vẽ của các
em thường khô, thiếu phóng khoáng, đôi khi gò bó, công thức.
2. Kết quả của thực trạng trên.
Từ thực trạng trên để việc học mĩ thuật, đặc biệt là phân môn trang trí đạt
hiệu quả tốt hơn tôi đã đưa những phương pháp cơ bản về cách dạy và học mĩ
thuật đặc biệt là phương pháp dạy vẽ trang trí áp dụng cho từ lớp 6 đến lớp 9 và đa
phần các em rất thích hoạt động tạo hình, việc vẽ, xem các tác phẩm mĩ thuật dần
dần đã hình thành ở các em. Các em hứng thú học vẽ trang trí hơn vẽ theo mẫu
phần nào hơn cả vẽ tranh đề tài, bài vẽ của các em đẹp hơn, có tiến bộ rõ rệt về
cách dùng màu. Qua các kì thi vẽ tranh cấp Thị và cấp Tỉnh HS trường THCS Hà
Lan đều có giải cao điều đó đã chứng minh khả năng thẩm mĩ của các em.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I - CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.

Giáo viên: Nguyễn Văn Quang
2
1. Trang trí ở bậc học THCS.
Trang trí là một nhu cầu thiết yếu với con người, với xã hội, với nền kinh tế
quốc dân và chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống (Kiến trúc đô thị, trang trí
nội, ngoại thất. Trang trí phục trang, trang trí điện ảnh sân khấu…).
Phân môn trang trí ở THCS được đưa vào từ lớp 6 đến lớp 9. trong một
năm học lớp 6 có 9 tiết, lớp 7 có 7 tiết, lớp 8 có 8 tiết, riêng lớp 9 chỉ học 1/2
tiết/tuần cho nên chỉ có 5 tiết. Vì vậy nội dung cơ bản được chọn lọc hết sức cơ
bản. Khác với các trường nghệ thuật chuyên đào tạo các hoạ sĩ, bởi số thời gian
học chuyên môn ở các trường nghệ thuật chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn ở trường PT (nơi
dạy nghệ thuật đại trà) thời gian rất eo hẹp, mỗi bài học và làm, gói gọn trong một
tiết học (45 phút). Những bài học chủ yếu nhằm nâng cao về kiến thức trang trí,
phương pháp thể hiện cũng như thực hành ứng dụng trong đời sống và các bài học
cơ bản như (Hình vuông, hình tròn, hình chữ nhật, đường diềm) được sắp xếp học
đi học lại nhiều lần ở mỗi lớp nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức trong bố
cục trang trí và phát huy khả năng tìm tòi sáng tạo. Khả năng của học sinh sẽ được
nâng cao dần theo từng lớp học vì vậy việc học trang trí được tiến hành đúng quy
trình nhằm khuyến khích sự tìm tòi, sáng tạo, độc đáo của học sinh khi làm bài,
chương trình và nội dung học trang trí ở THCS có sự sắp xếp mang tính đồng tâm,
phát triển để HS tiếp cận môn học từ dễ đến khó, từ tô màu đến tìm màu, từ vẽ
thêm hoạ tiết cho đều đến sự tìm hoạ tiết để sắp xếp…
2. Tính đồng tâm trong trang trí.
Trong trang trí có một số bài học mang tính chất bắt buộc, những bài trang
trí này được gọi là: bài học trang trí cơ bản (cách dùng màu, phương pháp bố cục,
thể thức trang trí, trang trí hình vuông, trang trí hình chữ nhật, trang trí hình tròn,
trang trí đường diềm…). Tuỳ theo từng bậc học, từng lớp để phân bố sao cho phù
hợp với đặc điểm lứa tuổi và trình độ nhận thức của HS. Những bài cơ bản này sẽ
lặp đi lặp lại không chỉ có ở các trường tiểu học – THCS mà còn học tới các
trường cao đẳng, đại học… Các bài học trang trí cơ bản là cơ sở cho sự nhận thức

cái đẹp và giúp người học vận dụng kiến thức đó vào đời sống thực tại.
Giáo viên khi dạy các bài trang trí cơ bản cần quan tâm đến:
- Nâng cao dần về sắp xếp, chọn lọc hoạ tiết.
Giáo viên: Nguyễn Văn Quang
3
- Sự cân bằng trong tổng thể bố cục
- Phối hợp các thể thức trong trang trí áp dụng vào các bài trang trí cơ bản,
các thể thức (đăng đối, xen kẽ, phá thế, nhắc lại…)
- Sử dụng đậm nhạt và màu sắc sao cho phù hợp.
3. Tính thực tiễn trong trang trí đối với nhà trường phổ thông.
Nghệ thuật trang trí bao giờ bao giờ cũng gắn liền với đời sống. Nó bắt
nguồn từ cuộc sống và trở lại phục vụ cho cuộc sống, vì vậy mà chương trình, nội
dung dạy học trang trí ở trường phổ thông phải được quan tâm gắn với đời sống
của HS và xã hội. Có những bài tưởng như chỉ là trang trí đơn giản (trang trí nhãn
vở) nhưng thực chất có sự liên quan rất phong phú của những bài trang trí cơ bản
(trang trí hình chữ nhật, trang trí ứng dụng…) hoặc trong trang trí trại hè, một bài
gắn liền với đời sống sinh hoạt của HS được thể hiện bằng nhiều kiến thức tổng
hợp (kiến thức kẻ chữ, trình bày, sắp xếp và bao quát…)
Nội dung các bài trang trí trong chương trình phổ thông đều gắn liền với
sinh hoạt của HS, đòi hỏi HS luôn luôn tìm tòi, sáng tạo như các bài: Trang trí
hộp mứt, trang trí trại hè, trang trí báo tường, trang trí lọ hoa, trang trí bìa lịch,
trang trí mặt nạ, trang trí túi xách…
Giáo viên cần quan tâm khi dạy các bài có trang trí ứng dụng.
- Hướng dẫn HS không sao chép, bắt chước những hình vẽ hoặc đồ vật có
sẵn.
- Khuyến khích HS tìm tòi, linh hoạt gây ý thức tự tạo cho mình một sản
phẩm độc đáo để sử dụng (làm lấy bìa lịch để treo, làm lấy tờ thời khoá biểu hoặc
vẽ trên đĩa treo tường…)
- Hướng dẫn các em quan tâm đến nghệ thuật trang trí ứng dụng mang tính
thực tiễn và chú ý đến cách vận dụng những kiến thức trang trí cơ bản vào trang trí

ứng dụng.
4. Tính dân tộc trong trang trí.
Dân tộc nào cũng có những màu sắc và những nét riêng biệt. Nhìn vào lịch
sử, chúng ta thấy thể hiện rõ nhất ở các hoa văn, hoạ tiết cổ trong các đồ dùng
(trống đồng, mũi tên, thuyền bè, cán dao thổ cẩm…) trên các đình chùa, lăng tẩm
Giáo viên: Nguyễn Văn Quang
4
(hoa văn trên các bia đá, hoạ tiết chim lạc ở trống đồng và hoạ tiết con rồng, con
phượng hoặc hoạ tiết hoa sen trên các kèo cột…). Để có những hoạ tiết vốn cổ dân
tộc không phải dễ dàng.
Nói đến trang trí Việt Nam ta không thể không nhắc đến những nghệ nhân
đã sáng tạo một cách tuyệt vời những công trình kiến trúc, những bức trạm gỗ,
chạm đá để lại cho chúng ta một gia tài quý báu mà điển hình phát triển cao là thời
kì Lí, Trần.
Trong chương trình THCS có 1 bài học về vốn cổ dân tộc, ngoài việc tìm
hiểu, sưu tầm các tư liệu quý báu cho phần bài giảng nhằm nâng cao lòng tự hào
dân tộc, khâm phục tài nghệ của ông cha ta.
+ Giáo viên lưu ý:
- Cho HS chép nhiều hoạ tiết dân tộc (hoa sen, hoa cúc, mặt trời…) nhằm
giúp các em quen tay đưa nét vẽ mềm mại và hướng dẫn các em:
- Biết sử dụng hợp lí những hoạ tiết cổ vào trong các bài làm trang trí.
- Biết đơn giản, cách điệu hoạ tiết mới mang hình dáng, đường nét dân tộc.
5. Tính khoa học cơ bản trong trang trí.
Bản thân trang trí hết sức khoa học, khoa học về sắp xếp, khoa học về sử
dụng màu sắc. Một bức tường được sơn màu xanh nhạt sẽ cho ta cảm giác mát mẻ,
khi sơn màu hồng ta thấy ấm áp. Một bức tranh treo trong phòng tiếp khách khác
với nội dung bức tranh treo ở phòng ăn. Vì vậy chúng ta thấy trang trí không chỉ
có đẹp mà còn hết sức khoa học.
Nội dung cơ bản trong trang trí ở THCS bao giờ cũng bắt nguồn từ tính vừa
sức, HS tiếp thu được một cách thoải mái phù hợp với khả năng nhận thức của các

em. Giáo viên phải nắm vững đối tượng để truyền thụ kiến thức phù hợp với khả
năng nhận thức của HS. Một số giáo viên ít chú trọng đến sự tiếp thu của HS,
giảng lí thuyết liên miên, trình bày nhiều kiến thức, sử dụng nhiều ngôn từ khó
hiểu khiến bài giảng không đạt yêu cầu. Ngược lại, nhiều giáo viên biết định mức
kiến thức cơ bản, truyền thụ có trọng tâm, coi trọng khâu thực hành đã đem lại kết
quả tốt đẹp.
Giáo viên: Nguyễn Văn Quang
5
6. Phương pháp dạy – học trang trí ở trường THCS.
a. Yêu cầu đối với người học trang trí.
- Phải có phương tiện để học và thể hiện làm bài trang trí như: bút chì, tẩy,
thước kẻ, compa, màu bút dạ, màu sáp, giấy A
3
… Nắm được nội dung vẽ trang trí
khác với vẽ theo mẫu. Mỗi bài học vẽ trang trí đều có sự khác nhau về mức độ yêu
cầu.
- Thông qua bài giảng, HS biết cách làm một bài trang trí theo đúng phương
pháp (tìm và sắp xếp các mảng hình chính, phụ, tìm chọn và sắp xếp hoạ tiết, tìm
đậm nhạt và tìm màu). Học vẽ trang trí HS cần có một tư duy sáng tạo và say mê,
tìm tòi để bài vẽ có hiệu quả cao.
b. Đối với người dạy.
- Phải nắm chắc chương trình dạy vẽ trang trí của mỗi lớp thông qua các bài
cụ thể
- Mỗi bài dạy trang trí phải đảm bảo đúng kiến thức cơ bản, có trọng tâm,
mang đặc trưng môn học.
- Biết mở rộng kiến thức trong mỗi bài dạy bằng sự hướng dẫn HS tìm tòi,
sáng tạo (tìm hoạ tiết, tìm bố cục, tìm màu cho hài hoà…). Hướng dẫn HS cách
làm bài trang trí và góp ý kiến từng bài của HS.
* Một số hoạ tiết vốn cổ dân tộc:


Giáo viên: Nguyễn Văn Quang
6
Giáo viên: Nguyễn Văn Quang
7
II - CC BIN PHP T CHC THC HIN.
1. Phng phỏp ging dy trang trớ c bn:
a. Hng dn HS tỡm hiu ni dung bi trang trớ: Nhm phõn bit bi trang
trớ thuc loi no: trang trớ c bn hay trang trớ ng dng, nu l trang trớ c bn
thỡ b cc, ho tit, mu sc luụn cú s tỡm tũi cú mt bi v trang trớ cú b cc
p, hi ho. Cũn nu l bi trang trớ ng dng thỡ phi lu ý n tớnh thc tin khi
s dng nh: ho tit, mu sc, b cc phự hp vi ni dung yờu cu s dng. Mi
ni dung bi trang trớ u cú nhng kin thc ch yu, thụng qua ging dy nhng
kin thc ch yu ny giỳp HS hiu c lớ thuyt, nm c cỏch lm. Vớ d
trong bi: Trang trớ l hoa, ch yờu cu HS trang trớ trờn cỏc l hoa sao cho p.
Cũn phn to mu dỏng l hoa, yờu cu HS tỡm kiu l, sao cho cú c nhng
kiu l mi, l v p. Ni dung bi hc rt phong phỳ, a dng song thc t thi
gian khụng cho phộp giỏo viờn ging gii lớ thuyt quỏ nhiu vỡ nu núi nhiu s
thiu thi gian cho HS thc hnh. Bi vy mi ni dung bi dy, giỏo viờn phi
cõn nhc, suy ngh la chn nhng kin thc c bn nht, thit yu nht, trng
tõm nht sao cho phự hp vi ni dung yờu cu v m bo thi gian bi hc.
b. Hng dn HS tỡm phỏc tho: Tạo thói quen cho HS suy nghĩ trớc khi
tìm phác thảo và bớc đầu phải tìm bằng các đờng, nét, hình mảng kỉ hà nhằm tạo
nên một bố cục hợp lí.
Giỏo viờn: Nguyn Vn Quang
8
Những bố cục trên phải đợc hớng dẫn cụ thể ở phần lí thuyết: cách tìm bố
cục, tìm hoạ tiết, tìm hình mảng và vận dụng các thể thức trang trí
Sau khi tìm bố cục bằng các hình kỉ hà, hớng dẫn các em có thể tìm phác
thảo đen trắng để tìm đậm nhạt. Vẽ đen trắng để tránh đợc bố cục không cân đối
nh: Bố cục nặng nề (mảng đen quá, to quá) hoặc bố cục lỏng lẻo (các mảng rời

rac)
Trên cơ sở các hình bố cục kỉ hà, có thể tìm các hoạ tiết phù hợp với các
mảng đó. Ví dụ:

Sử dụng các hoạ tiết cho phù hợp với các mảng kỉ hà phải là những hoạ tiết
đơn giản và cách điệu. Ví dụ:
Cuối cùng bài trang trí nào cũng phải tô màu nhng công việc tô màu của HS
tiểu học khác với tìm màu để thể hiện ở học sinh THCS cần phải hớng dẫn HS biết
cách sử dụng màu sắc sao cho hợp lí và hài hoà. Có thể sử dụng hoà sắc nóng hay
hoà sắc lạnh, sử dụng các gam màu trầm hay các gam màu sáng.
Trong mỗi bài vẽ trang trí phải tìm màu chủ đạo. Từ màu chủ đạo tìm các
màu khác đặt vào cho hợp lí và cân nhắc đặt các màu cạnh nhau cho hài hoà. Quá
trình vẽ một bài trang trí là quá trình tìm tòi, suy nghĩ để quyết định dùng màu nào
cho hợp lí, muốn vậy HS phải thuộc bảng pha màu, đó là cơ sở để khám phá, tìm ra
các màu mới, tạo nên các hoà sắc đẹp.
c.Mt s im lu ý khi dy trang trớ:
- Hng dn HS s dng hỡnh mng, ng nột: Phi dt khoỏt mi to nờn
b cc cht ch. Vớ d:
Giỏo viờn: Nguyn Vn Quang
9
- Cần tránh những bố cục lỏng lẻo hoặc nặng nề do cách sắp xếp hình mảng
không hợp lí.
- Không dùng nét viền đều nhau. Tạo nên sự khô cứng trong trang trí. Ví Dụ:

- Hoạ tiết phải phù hợp với nội dung yêu cầu sử dụng và mang tính dân tộc,
hoạ tiết đã được đơn giản, cách điệu, tránh vẽ nét viền khô cứng.
- Những bố cục cần tránh:
Giáo viên: Nguyễn Văn Quang
10
- Những bố cục nên làm:

2. Phương pháp giảng dạy lí thuyết trang trí.
- Trong chương trình dạy phân môn trang trí các lớp 6 - 7 - 8 – 9 không có
bài lí thuyết dành riêng cho một tiết, thường lí thuyết được giảng trước khi HS làm
bài. Thời gian này chỉ chiếm khoảng 15 đến 17 phút. Do đó những kiến thức cơ
Giáo viên: Nguyễn Văn Quang
11
bản giáo viên phải chắt lọc có trọng tâm để truyền thụ cho HS. HS có thể căn cứ
vào đó để làm bài cho có hiệu quả. Tuy nhiên giáo viên có thể tổ chức để mở rộng
kiến thức cho HS vào các buổi học tự chọn, ngoại khoá, nghe nói chuyện…
Căn cứ vào yêu cầu của bài để giảng cho HS, có bài rất cần nhiều thời gian như:
phương pháp bố cục, phương pháp và cách dùng màu trong trang trí, phương pháp
sáng tác tranh cổ động…Dù thời gian dài hay ngắn thì bài lí thuyết dạy trang trí
cũng phải lưu ý:
- Cần xây dựng nội dung trọng tâm bài trang trí: Tìm hiểu khái niệm cơ bản,
sử dụng những dẫn chứng thực tế, hình ảnh, đồ vật cụ thể có tác dụng và sức
thuyết phục cao để minh hoạ cho khái niệm cơ bản.
- Mở rộng nội dung cơ bản bằng những dẫn chứng cụ thể như: cho HS quan
sát tranh, ảnh, đồ vật, bài làm đúng, sai. Giáo viên phân tích và rút ra kết luận. Sự
liên hệ với đời sống thực tế rất cần cho bài học lí thuyết, giáo viên nên có nhiều
liên hệ thực tế để làm rõ hơn những khái niệm vừa được trình bày. Trong chương
trình trang trí hầu hết các bài đều có sự liên hệ đến thực tế. Ví dụ: Các bài trang trí
cơ bản như hình vuông, hình tròn, đường diềm, hình chữ nhật…hoặc các bài trang
trí ứng dụng như: Kẻ chữ, Trang trí đầu báo tường, Trang trí quạt giấy, Trang
trí lọ hoa, Trang trí đĩa tròn, Trang trí hộp mứt, Trang trí trại hè….
- Giáo viên có thể sử dụng các bài học cũ của HS lớp trước để phân tích và
cũng nên tìm tòi chọn một vài đồ vật như: tờ bích báo, lọ hoa bằng gốm, hộp mứt
các loại…nhằm giúp HS mở rộng thêm kiến thức học trang trí gắn liền với đời
sống.
Giáo viên: Nguyễn Văn Quang
12

- Phần lí thuyết chỉ giúp HS nắm vững những khái niệm cơ bản, những dự
định sẽ làm và những kiến thức tạo cơ sở ban đầu cho sự hình thành sáng tạo, tìm
tòi để HS vận dụng trong bài trang trí cụ thể, vì vậy bài lí thuyết phải có trọng
tâm, Giáo viên giảng giải vừa sức với khả năng nhận thức của HS và có nhiều liên
hệ thực tế để HS dễ hiểu và dễ làm bài. Khi giảng lí thuyết cơ bản, giáo viên nên
đặt nhiều câu hỏi, giúp các em nắm chắc hơn bài học và làm cho tiết dạy thêm
sinh động.
- Lí thuyết cơ bản không chỉ dừng ở phần giảng cho toàn lớp mà GV cần sử
dụng nó khi hướng dẫn góp ý cho từng em. Thông qua bài làm của HS, giáo viên
có thể biết ngay những phần lí thuyết các em có nắm chắc hay không và trên cơ sở
đó góp ý, nhắc lại những phần lí thuyết đã dạy, giúp các em sửa chữa, tìm cách
giải quyết mới trong bài làm trang trí.
C- PHẦN KẾT LUẬN
1. Kết quả nghiên cứu.
Trang trí là một phân môn khó đòi hỏi học sinh phải có óc sáng tạo, sự cần
cù và linh hoạt vì khi vẽ được một bài trang trí các em phải thực sự tìm tòi sáng
tạo để biết tìm và chọn sắp xếp các mảng hình sao cho chặt chẽ lôgíc với nhau từ
tổng thể đến chi tiết, biết tìm và chọn sắp xếp hoạ tiết hợp lí với các mảng hình đã
chọn… Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp thích hợp hướng dẫn để
giúp một phần nào học sinh THCS có được những kỹ năng , kỹ xảo về vẽ trang trí
đạt hiệu quả cao nhất. Điều này có thể gây thêm hứng thú cho HS trong khi học
Giáo viên: Nguyễn Văn Quang
13
mụn m thut v cỏc mụn hc khỏc. Cỏc em cn nm bt k cỏc bc, cú th
cm nhn v trỡnh by c mt bi trang trớ p theo cm nhn riờng ca mỡnh.
Thụng qua quỏ trỡnh hc tp phõn mụn trang trớ, cú th nõng cao c hiu bit
i vi ngh nghip, vi xó hi, hon thin nhõn cỏch v li sng trong sinh hot
cho HS.
p dng phng phỏp dy trang trớ nờu trờn v qua mt s bi hc c th,
tụi kho sỏt v thy cht lng hc mụn m thut núi chung v phõn mụn trang trớ

núi riờng ca HS trng THCS H Lan c nõng lờn rừ rt. Kho sỏt cht lng
ca 2 lp 8A v 8B qua nm hc 2006 - 2007 v HKI nm hc 2007- 2008:
Lp Nm hc S s HS Gii HS Khỏ HSTB HSYu
8A 2006-2007 36 0 14 20 2
8A 2007-2008 29 7 18 4 0
8B 2006-2007 36 0 6 28 2
8B 2007-2008 26 3 9 14 0
Trên đây là toàn bộ quá trình tìm đọc và nghiên cứu về Phơng pháp giảng
dạy phân môn trang trí trong chơng trình mĩ thuật THCS. Song đề tài đi sâu vào
lĩnh vực nghiên cứu cách dạy học phân môn vẽ trang trí cách thực hiện của bản
thân và áp dụng qua một số bài cụ thể.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện và viết sáng kiến kinh nghiệm không
tránh khỏi những hạn chế. Rất mong đợc sự góp ý chân thành của các bạn đồng
nghiệp.
2. Kin ngh xut.
Dy m thut THCS l cn thit, nú gúp phn hỡnh thnh HS nhng
phm cht tt p ca con ngi lao ng mi ngi lao ng cú tri thc khoa
hc, dỏm ngh, dỏm lm, lao ng cú nng sut cao v bit thng thc cỏi hay cỏi
p trong cuc sng.
Tuy nhiờn dy m thut THCS cũn nhiu vn phi quan tõm, bi t lõu
chỳng ta ớt chỳ ý, thiu s chun b v trang thit b v c s vt cht phc v
cho mụn hc ny. Vỡ vy to iu kin cho vic dy v hc ca thy v trũ
thun li, bn thõn tụi l mt giỏo viờn dy b mụn m thut cn kin ngh v
xut mt s vn sau:
- Phi cú phũng hc m thut rng, y ỏnh sỏng.
Giỏo viờn: Nguyn Vn Quang
14
- Phương tiện (bàn, ghế, giá vẽ, mẫu vẽ, giấy màu, máy chiếu hình, tranh,
tượng phiên bản, các tài liệu tham khảo …) theo đặc thù của bộ môn.
Như vậy sẽ nâng cao được chất lượng dạy và học của bộ môn mĩ thuật,

đồng thời phát triển tối đa được tính sáng tạo của HS trong môn học và đạt kết quả
cao trong học tập.
Ái Nghĩa,Ngày 18 tháng 9 năm 2011
Người thực hiện: Nguyễn Văn
Quang

Giáo viên: Nguyễn Văn Quang
15

×