NHỮNG QUAN ĐIỂM HIỆN ĐẠI VỀ VỊ TRÍ, VAI
TRÒ CỦA GIÁO DỤC- ĐÀO TẠO ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI
Đại hội lần thứ VII Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định
“Giáo dục và đào tạo phải được xem là quốc sách hàng
đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của
sự phát triển”. Đó là một sự khẳng định hết sức đúng đắn
xuất phát từ lợi ích của nhân dân ta, đồng thời phù hợp với
chân lý phổ biến của lịch sử thế giới. Từ đó đến nay nhiều
hội nghị chuyên đề của Đảng tiếp tục ban hành các nghị
quyết về đổi mới, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
Chính vì vậy mà sự nghiệp giáo dục - đào tạo nước ta ngày
càng phát triển cả về quy mô và chất lượng. Tuy nhiên,
bên cạnh đó, ở nhiều địa phương đầu tư cho giáo dục vẫn
chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra cho việc nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước. Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là con
người chưa được nhận thức một cách đầy đủ, Một lần
nữa chúng ta cùng nhau nhìn nhận lại vấn đề này từ quan
điểm của các nhà lãnh đạo trên thế giới về giáo dục.
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Bất kỳ ở một giai đoạn lịch sử nào, giáo dục - đào tạo luôn
đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển
của mỗi cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân tộc và cả nhân
loại. Từ xa xưa các học giả, các nhà lãnh đạo, quản lý ở
trong nước và trên thế giới đã từng luận bàn rất nhiều xung
quanh vấn đề này. Theo C.Mác: Giáo dục - đào tạo “Tạo
ra cho nền kinh tế của một dân tộc những nhà khoa học,
chuyên gia, kỹ sư trên các lĩnh vực kinh tế và nhờ đó
những tri thức ấy mới có thể sáng tạo ra những kỹ thuật
tiên tiến, những công nghệ mới. Nếu chúng ta không có
đội ngũ ấy thì sự nghiệp xây dựng CNXH chỉ là lời nói
huênh hoang, rỗng tuếch” . Còn Ph.Ăngghen thì khẳng
định: “Một dân tộc muốn đứng lên trên đỉnh cao của nền
văn minh nhân loại, dân tộc ấy phải có trí thức”. Như vậy
cả C.Mác và Ăngghen đều coi giáo dục - đào tạo là chìa
khoá, là động lực đối với sự phát triển của xã hội, đặc biệt
là đối với quá trình xây dựng CNXH của một quốc gia,
một dân tộc.
Kế thừa quan điểm của C.Mác-Ăngghen và trên cơ sở thực
trạng giáo dục-đào tạo ở Nga trong những ngày đầu cách
mạng tháng 10 thành công, Lênin đã sớm khẳng định vai
trò quan trọng của giáo dục-đào tạo trong việc đưa nước
Nga thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến lên CNXH. Theo
Lênin: “Muốn tạo lập chủ nghĩa xã hội phải có một trình
độ văn hoá nhất định”. “Việc nâng cao năng suất lao
động trước hết phải nâng cao trình độ học vấn và văn
hoá của quần chúng nhân dân” và “Nếu không có một
mạng lưới giáo dục quốc dân ít nhiều phát triển thì tuyệt
nhiên không thể giải quyết mọi vấn đề trên quy mô toàn
dân”.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH,
Lênin luôn coi sự nghiệp giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ
hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để nâng cao năng suất lao
động, để chiến thắng nghèo nàn lạc hậu.Chính vì vậy mà
Người chủ trương “Phải thực hiện một chế độ giáo dục
không mất tiền và bắt buộc, phổ thông và tổng hợp cho tất
cả trẻ em trai gái dưới 17 tuổi” trên cơ sở nguyên lý
“Giảng dạy phải kết hợp chặt chẽ với lao động sản xuất
xã hội, đào tạo những thành viên phát triển toàn diện cho
xã hội cộng sản”.
Có thể nói những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
giáo dục - đào tạo đã đề cập một cách sâu sắc, toàn diện cả
về lý luận và chiến lược xây dựng, phát triển một nền giáo
dục quốc dân không chỉ đối với các nước đi lên CNXH mà
với tất cả các quốc gia và dân tộc trên thế giới.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Kế thừa truyền thống văn hoá lịch sử của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hoá của nhân loại mà điển hình là Chủ nghĩa
Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm và
đề cao vai trò của giáo dục - đào tạo. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục và đào tạo xuất phát từ mục đích cao cả
của sự nghiệp cách mạng mà người theo đuổi, thể hiện
nhất quán và xuyên suốt trong tư tưởng, trong cuộc đời
hoạt động của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi con
người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định của sự nghiệp
cách mạng. Chính vì vậy mà toàn bộ tư tưởng và cuộc đời
hoạt động của người đều nhằm thực hiện mục tiêu giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải
phóng con người, vì con người và cho con người. Người
từng nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là
làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành”.
Ngay sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công
Hồ Chủ tịch đã kêu gọi toàn dân đoàn kết chống: “Giặc
đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” và ban hành sắc lệnh
thành lập Nha bình dân học vụ để tổ chức thực hiện việc
chống mù chữ. Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân
tộc yếu”. Do đó, “Muốn xây dựng CNXH phải biến một
đất nước dốt nát thành một nước có nền văn hoá cao,
khoa học phát triển”. Người cho rằng: “Học để làm việc,
làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai
cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng và đặt niềm tin vững
chắc vào thế hệ trẻ đối với tiền đồ của dân tộc. Trong thư
gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt
Nam độc lập (9/1945) Người viết: “Non sông Việt Nam có
trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới
đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu
được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học
tập của các cháu”. Người mong muốn mỗi người dân đều
biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ để nâng cao dân trí, giữ
vững nền độc lập và làm cho dân giàu nước mạnh. Chính
vì vậy mà trước lúc đi xa, người đã căn dặn: “Đảng cần
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, đào tạo lớp ngươi
thừa kế vừa hồng vừa chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”.
Tư Tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo luôn thể
hiện yêu cầu giáo dục toàn diện, đào tạo con người vừa có
tài, có khả năng vươn lên chiếm lĩnh khoa học kỹ thuật lại
vừa có đức; trong đó, Người coi đức là cái gốc của người
cách mạng. Người coi đạo đức như gốc của cây, như
nguồn của sông: “Cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài mấy cũng không lãnh đạo
được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải
phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình
không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá,
xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”.
Để đảm bảo cho sự nghiệp giáo dục phát triển, đào tạo nên
những lớp người vừa hồng, vừa chuyên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ vấn đề then chốt có ý nghĩa quyết định chất
lượng giáo dục là phải xây dựng được một đội ngũ đông
đảo người làm công tác giáo dục thực sự yêu nghề, yêu
người, hết lòng chăm sóc giáo dục học sinh, không ngừng
trau dồi đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
xứng đáng là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Trong thư gửi hội nghị giáo dục toàn quốc (3/1965),
Người chỉ rõ: “Trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của người
dạy học là: Chăm lo dạy dỗ con em của nhân dân thành
người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt,
người cán bộ tốt của nước nhà”. Người cho rằng sự
nghiệp “Trồng người” là rất lâu dài, khó khăn và rất quan
trọng. Do đó, trong một dịp đến thăm lớp bồi dưỡng chính
trị cho giáo viên toàn Miền Bắc (9/1958), Người căn dặn
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây; vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người”. Trong bức thư cuối cùng gửi
cho ngành giáo dục nhân dịp khai giảng năm học 1968-
1969, Bác đã dạy “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp
tục thi đua dạy tốt và học tốt. Trên nền tảng giáo dục
chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng
cao chất lượng văn hoá và chuyên môn nhằm thiết thực
giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và
trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của
khoa học kỹ thuật”.
Tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với
nhân cách cao đẹp của Người đã thể hiện vấn đề cơ bản
nhất, nổi bật nhất là vấn đề xây dựng và hoàn thiện con
người thông qua hoạt động giáo dục và tự giáo dục. Đối
với Người, nhân tố của con người với những tinh hoa như
hiểu biết, năng lực, đạo đức là yếu tố then chốt, có tính
quyết định thành công của cách mạng, tiến bộ của xã hội,
tiền đồ của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân … Người
từng nói “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần
phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Về cách học, Người
quan niệm “Phải lấy tự học làm cốt”. Nguyên lý giáo dục
Người nêu lên cho nhà trường XHCN là: “Học đi đôi với
hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường
gắn liền với xã hội”. Thực tiễn đã cho thấy, quá trình giáo
dục tự giác là quá trình giáo dục thường xuyên, là quá
trình lâu dài và thiết thực nhất, bởi lẽ nó gắn bó với cả
cuộc đời của mỗi con người và “Việc học không bao giờ
cùng, học hành sáng tạo suốt đời”. Lý luận và thực tiễn về
tư tưởng tự học, tự giáo dục của Người được xem là tư
tưởng chiến lược của việc tiếp tục đổi mới và phát triển
giáo dục - đào tạo trong thời kỳ đổi mới công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nước.
Từ những phân tích trên có thể nói những quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
và đào tạo không những đã khẳng định vai trò, vị trí, tầm
quan trọng của giáo dục và đào tạo đối với quá trình phát
triển của mỗi quốc gia, dân tộc mà còn là cơ sở để Đảng ta
vạch ra đường lối chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo
trong thời kỳ đổi mới nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020.
3. Quan điểm tiến bộ của thế giới.
Trong bài diễn văn sau lễ nhận chức trước hai viện của
quốc hội Mỹ sáng ngày 25/02/2009, tổng thống Obama
khẳng định “Trong nền kinh tế toàn cầu, nơi thứ có giá trị
nhất mà bạn có thể bán là tri thức của các bạn. Một nền
giáo dục tốt không chỉ là cơ hội mà là điều kiện tiên
quyết”. Để vực dậy nền kinh tế Mỹ đang rơi vào tình thế
khủng khoảng nghiêm trọng, ông tuyên bố “Đầu tư cho
giáo dục là thuốc kê đơn cho sự suy giảm kinh tế bởi
chúng ta biết các quốc gia có nền giáo dục mạnh hơn
chúng ta ngày nay sẽ có sức cạnh tranh mạnh hơn ngày
mai. Đó là lý do chính quyền mới muốn đảm bảo rằng,
mọi trẻ em phải được tiếp cận với giáo dục cạnh tranh và
hoàn chỉnh, từ ngày chúng được sinh ra cho tới ngày
chúng bắt đầu làm việc”. (Theo: Nước Mỹ sẽ trỗi dậy
mạnh hơn bao giờ hết – VietnamNet).
Trong cuộc đấu tranh tự khẳng định để phát triển của các
nước trên thế giới, theo kinh nghiệm của UNESCO, giáo
dục giữ vai trò to lớn, “Giáo dục có thể đóng một vai trò
năng động và xây xây dựng”.
Thật ra vai trò tác dụng của giáo dục đối với quá trình phát
triển của xã hội hiện đại đã được UNESCO xác định từ
lâu, UNESCO đã từng khuyến nghị 21 điều như sau:
- Giáo dục thường xuyên phải là nét chủ đạo của mọi
chính sách giáo dục trong những năm tới tại các nước
công nghiệp phát triển cũng như các nước đang phát triển.
- Giáo dục thường xuyên cho mọi lứa tuổi, trong suốt cuộc
đời, không chỉ bó hẹp trong phạm vi nhà trường - có nghĩa
là phải cải tổ toàn diện nền giáo dục. Giáo dục phải trở
thành phong trào quần chúng thực sự.
- Giáo dục phải được tiến hành và tiếp thu bằng nhiều cách
khác nhau. Điều quan trọng là không phải học theo cách
nào mà là học cái gì và học được cái gì.
- Xáo bỏ các hàng rào giả tạo hoặc lỗi thời giữa các ngành
giáo dục và các cấp - bậc giáo dục chính thức và không
chính thức.
- Giáo dục cho trẻ trước tuổi đến trường phải là một trong
những mục tiêu lớn của chiến lược giáo dục trong những
năm 70.
- Vẫn còn hàng triệu trẻ em và thanh niên không được
hưởng bất kỳ một nền giáo dục nào. Giáo dục phổ thông
cơ bản dưới những hình thức khác nhau tuỳ theo khả năng
và nhu cầu của mỗi nước, phải là mục tiêu hàng đầu của
chính sách giáo dục cho những năm 70.
- Phải xoá bỏ những phân biệt cứng nhắc giữa các ngành
giáo dục (phổ thông, khoa học, kỹ thuật và chuyên
nghiệp…); Ngay từ cấp sơ học giáo dục đã mang đặc tính
kết hợp với lý thuyết, công nghệ, thực hành và thủ công.
- Giáo dục không chỉ nhằm mục đích đào tạo cho thanh
niên những công việc cụ thể mà còn trang bị cho họ thích
ứng với nhiều loại nghề nghiệp khác nhau.
- Không chỉ riêng hệ thống nhà trường phải chịu trách
nhiệm về việc đào tạo kỹ thuật mà cả các xí nghiệp, các
ngành kinh doanh và giáo dục ngoài nhà trường cũng phải
chịu chia sẻ trách nhiệm với các trường học.
- Giáo dục cao đẳng cần được mở rộng và đa dạng hoá để
đáp ứng các đòi hỏi của cá nhân và cộng đồng. Muốn vậy,
trước hết phải có sự thay đổi trong các thái độ (quan niệm)
cổ truyền đối với các trường đại học.
- Được nhận vào các ngành giáo dục các nghề nghiệp khác
nhau chỉ tuỳ thuộc ở kiến thức, khả năng và năng lực của
mỗi người.
- Phát triển nhanh chóng việc phát triển giáo dục người lớn
cả trong lẫn ngoài nhà trường phải là mục tiêu ưu tiên của
các chiến lược trong 10 năm tới.
- Mọi hoạt động xoá nạn mù chữ đều phải hướng vào mục
tiêu phát triển xã hội - kinh tế của đất nước.
- Đạo đức của giáo dục phải làm cho mỗi người trở thành
thầy dạy và người kiến tạo nên tiến bộ văn hoá của bản
thân mình.
- Khi soạn thảo và lập kế hoạch cho hệ thống giáo dục cần
tính đến các khả năng do các kỹ thuật mới đem lại.
- Các chương trình đào tạo thầy giáo cần triệt để sử dụng
các thiết bị giảng dạy mới nhất.
- Mọi sự khác biệt, chênh lệch về ngôi thứ giữa thầy giáo
các trường tiểu học, các trường kỹ thuật, các trường trung
học và giảng viên các trường đại học phải được huỷ bỏ.
- Thầy giáo phải được đào tạo để trở thành nhà giáo dục
nhiều hơn là chuyên gia truyền thụ kiến thức.
- Bên cạnh những giáo viên chuyên nghiệp phải viện đến
các trợ thủ có trình độ chuyên môn ở các ngành nghề
(công nhân, kỹ thuật viên, cán bộ ), phải viện đến cả sự
tham gia của học sinh, sinh viên - họ sẽ tự giáo dục trong
khi dạy người khác.
- Trái với thông lệ cổ truyền, việc giảng dạy phải thích
nghi với người học chứ không phải người học phải tuân
theo những quy định đã đặt ra sẵn trước khi giảng dạy.
- Người học và công chúng nói chung cần được có tiếng
nói nhiều hơn trong việc quyết định các vấn đề liên quan
đến giáo dục.
(Khuyến nghị của UNESCO về chiến lược giáo dục-
11/1972)
Các khuyến nghị trên được đề ra dựa trên sự xem xét thế
giới ngày nay như là một tổng thể, trong đó sự phát triển ở
từng nước có trình độ cao - thấp khác nhau rất nhiều
nhưng có xu hướng chung là tiến gần đến một nền kinh tế
thị trường trên phạm vi toàn cầu, nhất là khi bước sang thế
kỹ 21.
Trong bối cảnh trên, giáo dục theo quan điểm các chuyên
gia hàng đầu của UNESCO, thì ý kiến ngày càng phổ biến
đều cho rằng “Giáo dục là một trong những công cụ mạnh
nhất mà chúng ta có trong tay để sáng tạo nên tương lai”
(Jacques DoLoss - 1995).
Vì vậy mà trong một công trình nghiên cứu ứng dụng vào
thực tiễn về những ưu tiên và chiến lược cho giáo dục,
ngân hàng thế giới đã có kết luận: “Đầu tư vào giáo dục
sẽ tích luỹ vốn con người, là chìa khoá để thay thế sự tăng
trưởng kinh tế và tăng thu nhập. Giáo dục, đặc biệt là
giáo dục cơ bản (GDPT) cũng góp phần làm giảm đói
nghèo, nhờ tăng năng suất lao động của từng lớp lao động
nghèo, giảm sinh đẻ và tăng cường sức khoẻ, giúp mọi
người cùng có cơ hội tham gia đầy đủ và hoạt động xã hội
và phát triển kinh tế” (Ngân hàng thế giới -1997).
Từ những quan điểm trên chúng ta có thể thấy rằng, sự
nghiệp giáo-dục đào tạo có vị trí hết sức quan trọng và có
vai trò hết sức to lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi đất nước cũng như trên toàn thế giới. Một xã
hội được giáo dục tốt là xã hội “Dựa trên trí thức”, phát
huy được mọi tiềm năng của con người, những con người
tư duy sáng tạo, năng động luôn luôn tự điều chỉnh và phát
triển.