Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Chuyên đề tốt nghiệp: Giải pháp tăng cường nguồn vốn huy động tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) chi nhánh Đông đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.71 KB, 75 trang )

Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CBNV : Cán bộ nhân viên
NH : Ngân hàng
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHNN : Ngân hàng Nhà Nước
NHTW : Ngân hàng Trung Ương
TMCP : Thương mại cổ phần
TCKT : Tổ chức kinh tế
TCKT – XH : Tổ chức kinh tế - xã hội
TCTD : Tổ chức tín dụng
TMCP : Thương mại cổ phần
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
Danh môc SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU
SƠ ĐỒ
MỤC LỤC
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Vốn là một điều kiện tiên quyết trong mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Nước ta đang trong giai đoạn phát triển
kích thích tăng trưởng kinh tế, điều này cũng có nghĩa là nhà nước đang rất
cần vốn để thực hiện được chính sách vĩ mô đó. Để huy động được vốn cần
thông qua thị trường tài chính và điển hình là các ngân hàng bởi ngân hàng là
nơi tích tụ và tập trung một lượng vốn khổng lồ cho thị trường. Đồng thời quá
trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đang diễn ra hết sức sôi động điều
đó đồng nghĩa với sự cạnh tranh đã, đang và sẽ diễn ra ngày càng khốc liệt
trong toàn bộ nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. Theo số
liệu thông kê thì nước ta có khoảng 104 ngân hàng và văn phòng giao dịch,
chính vì vậy hoạt động huy động vốn của các NHTM là rất khó khăn bởi họ


phải đổi mới mình để cạnh với nhau trong lĩnh vực này. Mặt khác nguồn vốn
huy động chiếm tỷ lệ chủ yếu trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, ngân
hàng chủ yếu sử dụng nguồn vốn huy động để cho vay và đầu tư. Chính vì
vậy các ngân hàng cần tăng cường hoạt động huy động vốn của mình nếu
muốn hoạt động kinh doanh phát triển cũng như sự tồn tại của ngân hàng.
Sau thời gian thực tập tại ngân hàng TMCP kỹ thương (Techcombank)
chi nhánh Đông Đô nhận thấy tầm quan trọng của vốn huy động trong sự phát
triển của ngân hàng và tính cấp thiết của hoạt động huy động vốn trong thời
điểm hiện nay vì vậy em chọn đề tài “ Giải pháp tăng cường nguồn vốn huy
động tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) chi
nhánh Đông đô”.
Mặc dù rất cố gắng nhưng do trình độ cũng như mức độ tìm hiểu có hạn
nên không thể tránh khỏi sai sót, em mong có sự đóng góp của thầy, cô cũng
như người đọc.

Em xin chân thành cảm ơn!
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
1
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái niệm
Ngân hàng là một tổ chức tài chính quan trọng đối với nền kinh tế bởi
vậy để đưa ra một định nghĩa về ngân hàng phải dựa trên những đặc trưng nổi
bật của nó vì như vậy mới có thể phân biệt nó với các tổ chức tài chính khác.
Để đưa ra định nghĩa đúng đắn nhất về ngân hàng chúng ta dựa trên chức
năng của nó trong nên kinh tế. Nhưng vấn đề là ở chỗ chức năng của ngân

hàng đang thay đổi và chức năng của các tổ chức tài chính khác cũng dần thay
đổi nhằm lấn át ngân hàng. Điều chúng ta nhận thấy hiện nay là các công ty
chứng khoán, các công ty bảo hiểm, các quỹ tương hỗ đang cố gắng cung cấp
các dịch vụ ngân hàng, trong khi đó các ngân hàng đối phó với các tổ chức tài
chính này cũng bằng cách mở rộng các dịch vụ của mình như mở rộng thêm
dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ ủy thác và môi giới…
“ Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ
thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ
chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Theo Luật của các TCTD tại Việt Nam:“Ngân hàng là TCTD thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ, chủ yếu là nhận tiền
gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ thanh toán”.
“NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện toàn bộ các hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi
nhuận góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước”.
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
2
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.1.2 Đặc điểm của ngân hàng
a, Hoạt động kinh doanh ngân hàng hàm chứa nhiều rủi ro
Là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, hoạt động của
các NHTM hàm chứa rẩ nhiều rủi ro, cụ thể là:
- Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi ngân
hàng cấp tín dụng cho khách hàng. Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp
ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản cho vay, hoặc là
việc thanh toán cả gốc và lãi không đúng kỳ hạn. Trong thực tế, việc khách
hàng không trả được nợ là việc có thể xảy ra bất cứ lúc nào và với bất cứ ai vì

rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy, rủi ro tín dụng là một rủi ro cố hữu
mà bất cứ NHTM cũng gặp phải.
- Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là khoản lỗ tiềm tàng mà ngân hàng phải gánh chịu khi lãi
suất thị trường có sự biến động. Nguyên nhân của rủi ro lãi suất là ngân hàng
đã không có sự cân xứng giữa kỳ hạn và quy mô của tài sản và nguồn vốn
nhạy cảm vốn lãi suất.
- Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là nguy cơ mất khả năng chi trả của ngân hàng khi
khách hàng có nhu cầu rút tiền. Đối với các tổ chức tài chính nói chung, các
NHTM nói riêng thì rủi ro thanh khoản có thể mang lại hậu quả nghiêm trọng
bởi rủi ro thanh khoản có tính chất lan truyền, nếu những người gửi tiền nhận
thấy ngân hàng gặp rắc rối về thanh khoản thì sẽ đồng loạt rút tiền ra khỏi
ngân hàng.
- Rủi ro ngoại hối
Rủi ro ngoại hối là khoản lỗ tiềm tàng mà ngân hàng phải gánh chịu khi
duy trì các tài sản và nguồn vốn bằng ngoại tệ ở những kỳ hạn khác nhau.
- Rủi ro hoạt động ngoại bảng
Các hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng cân đối tài
sản của ngân hàng. Xuất phát từ tính chất của hoạt động này là ngân hàng thu
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
3
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
được phí trong khi không phải sử dụng đến vốn kinh doanh nên đã khuyến
khích các hoạt động ngoại bảng ngày càng phát triển. Tuy nhiên, điều này có
thể đưa đến rủi ro cho ngân hàng. Ví dụ như, trong trường hợp ngân hàng cam
kết bảo lãnh cho khách hàng để mua hàng hoặc để vay vốn hoặc nhằm mục
đích nào đó, khi khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng phải đứng ra
hoàn trả nợ vay cho khách hàng. Trong trường hợp này ngân hàng gặp phải
rủi ro, dù có thu được phí bảo lãnh thì khoản tiền đó cũng không đủ để bù đắp

số tiền mà ngân hàng phải bỏ ra. Đây chính là rủi ro hoạt động ngoại bảng
mà ngân hàng rất dễ gặp phải trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của mình.
- Rủi ro công nghệ và hoạt động
Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công
nghệ không tạo được khoản tiết kiệm trong chi phí đã dự tính khi mở rộng
quy mô hoạt động.
Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể
phát sinh bất cứ lúc nào nếu hệ thống công nghệ bị trục chặc hoặc là khi hệ
thống hỗ trợ công nghệ bên trong ngừng hoạt động
b, Ngân hàng lấy đối tượng kinh doanh chính là tiền tệ.
Ngân hàng là một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ với đặc tính xã
hội hóa cao, tính nhạy cảm cao với mọi thay đổi trong nền kinh tế. Đây
chính là đặc điểm cơ bản phân biệt lĩnh vực kinh doanh ngân hàng so với
các lĩnh vực kinh doanh khác. Giá cả trong kinh doanh ngân hàng chính là
lãi suất. Sự vận động lên hoặc xuống của lãi suất bao hàm, ảnh hưởng đến
rất nhiều mối quan hệ kinh tế – xã hội khác nhau. Sự biến động của lãi suất
có tác dụng điều tiết cân bằng thị trường và là tín hiệu thông báo, hướng
dẫn người sản xuất và người tiêu dùng trong các hành vi kinh tế của họ. Lãi
suất cũng là một trong các yếu tố thu hút khách hàng đến với ngân hàng
hiệu quả nhất. Do vậy, tất cả các NHTM trong thực tiễn hoạt động hàng
ngày đều xây dựng cho mình biểu lãi suất hợp lý nhất để tăng sức cạnh tranh
của ngân hàng mình trên thị trường.
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
4
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
c, Nguồn vốn chủ yếu để các ngân hàng hoạt động kinh doanh chính là
nguồn vốn huy động.
Xuất phát từ chức năng thứ nhất của ngân hàng là: các NHTM là trung
gian tài chính làm nhiệm vụ thu hút tiền gửi và tiết kiệm trong nền kinh tế các
NHTM đã tạo ra được nguồn vốn khổng lồ để sử dụng cho hoạt động kinh

doanh của mình. Đây là nguồn vốn dồi dào và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
tổng nguồn vốn của ngân hàng. Đặc điểm của nguồn vốn này là tính ổn định
của nó không cao và chủ yếu là ngắn hạn buộc các ngân hàng phải tính toán
hợp lý để tạo thanh khoản cho ngân hàng.
d, Kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh mang tính hệ thống cao
và phải chịu sự quản lý nghiêm ngặt của Nhà nước
Có thể nói, tình hình phát hành, lưu thông và giá trị của tiền tệ có ảnh
hưởng sâu rộng đến tổng thể nền kinh tế, hơn nữa đặc điểm của lĩnh vực kinh
doanh ngân hàng là mang tính lan truyền, tính hệ thống cao hơn hẳn những
lĩnh vực kinh doanh khác. Do đó, một mặt đòi hỏi phải có sự quản lý nghiêm
ngặt của các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm thực thi CSTT quốc gia, nhằm
bảo vệ sự an toàn của hệ thống tài chính ngân hàng, bảo vệ quyền lợi của
người gửi tiền và người đầu tư. Mặt khác, để bảo đảm an toàn trong hoạt động
kinh doanh ngân hàng cũng như để có thể tạo ra các dịch vụ toàn diện cho
ngân hàng, luôn đòi hỏi phải duy trì tính ràng buộc theo hệ thống trong quá
trình hoạt động của các ngân hàng, bao gồm cả những ràng buộc về mặt kỹ
thuật và về mặt tổ chức, có thể do các ngân hàng tự thiết lập hay do các yêu
cầu của cơ quan quản lý Nhà nước.
Tính hệ thống không chỉ đơn thuần là do yêu cầu có sự thống nhất về kỹ
thuật nghiệp vụ trên phạm vi ngày càng rộng mà nó còn được bổ sung bởi nhu
cầu phải hỗ trợ lẫn nhau giữa các ngân hàng về thanh khoản, vốn khả dụng,
về chia sẻ rủi ro để đảm bảo sự an toàn của bản thân của cả hệ thống và nền
kinh tế.
Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng luôn được đặt trong một môi
trường pháp lý nghiêm ngặt, bị chi phối rất mạnh bởi tác động của chính sách
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
5
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
tài chính – tiền tệ quốc gia. Hoạt động kinh doanh của mỗi ngân hàng có được
ở mức độ nào cũng luôn là kết quả không chỉ những nỗ lực của bản thân ngân

hàng đó mà còn lệ thuộc chặt chẽ vào khả năng liên kết của ngân hàng đó với
các ngân hàng khác và với các thị trường tài chính.
1.1.2 Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Đây là hoạt động quan trọng đối với ngân hàng bởi nó tạo vốn cho các
hoạt động khác của ngân hàng, hoạt động huy động vốn đạt kết quả tốt sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho các hoạt động khác như hoạt động đầu tư, cho vay
Bởi vậy hoạt động huy động vốn phải đa dạng và phong phú về các hình thức
huy động cơ cấu vốn huy động.
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ
các TCKT và cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp
vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Vốn huy động là nguồn chính đối với các hoạt động kinh doanh của các
NHTM. Nó là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng và giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Mặc dù bị giới hạn về mức huy động vốn, song nếu các NHTM sử dụng tốt
nguốn vốn này thì không những nguồn lợi của ngân hàng được tăng lên mà
còn tạo cho ngân hàng uy tín ngày càng cao. Qua đó ngân hàng có thể mở
rộng được vốn và mở rộng qui mô hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Nguồn vốn huy động của ngân hàng bao gồm: Tiền gửi doanh nghiệp, tiền
gửi dân cư, phát hành giấy tờ có giá…
- Tiền gửi không kỳ hạn của dân cư, doanh nghiệp và các tổ chức kinh
tế. Nó có mục đích chủ yếu là để bảo đảm an toàn tài sản và giao dịch, thanh
toán không dùng tiền mặt, tiết kiệm chi phí lưu thông.
- Tiền gửi có kỳ hạn của dân cư, doanh nghiệp và các tổ chức khác. Đây
là khoản tiền gửi có thời gian xác định, về nguyên tắc người gửi chỉ được rút
tiền khi đến hạn, nhưng thực tế ngân hàng cho phép người gửi có thể rút trước
với điều kiện phải báo trước và có thể bị hưởng lãi suất thấp hơn. Mục đích
của người gửi chủ yếu là lấy lãi.
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E

6
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
- Tiền gửi tiết kiệm: đây là khoản tiền để dành của cá nhân được gửi vào
ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi theo định kỳ. Có 2 hình thức: một là,
tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể ký thác
nhiều lần và rút ra theo nhu cầu sử dụng và không cần báo trước; hai là, tiền
gửi tiết kiệm có kỳ hạn, là tiền gửi đến kỳ mới được rút.
Hoạt động này của các ngân hàng được kiểm soát bởi ngân hàng nhà nước
chính bởi vậy mà các ngân hàng phải tính toán lượng vốn huy động cũng như
việc sử dụng nó một cách đúng đắn nhất. Mặt khác vốn huy động mà ngân
hàng có được chủ yếu là nguồn có kỳ hạn ngắn nó không có tính ổn định đồng
thời ngân hàng chỉ được sử dụng một phần nào đó của nguồn này sử dụng để
cho vay tùy theo quy định của ngân hàng nhà nước ở từng năm. Điều này làm
ảnh hưởng tới tính thanh khoản của ngân hàng cũng như cơ cấu vốn huy động
của nó buộc các ngân hàng phải tính toán và hoạch định trước cơ cấu nguồn
vốn theo các chỉ tiêu khác nhau như kỳ hạn của khoản huy động, đối tượng huy
động, loại tiền huy động. Ví dụ như năm 2009 ngân hàng nhà nước quy định
hạn mức tín dụng là 40% và được sử dụng 40% nguồn vốn huy động ngắn hạn
để sử dụng cho vay trung và dài hạn, điều này bắt buộc các ngân hàng phải tính
toán đến việc huy động các nguồn vốn trung và dài hạn khác để tài trợ cho các
khoản cho vay với kỳ hạn dài như cho vay đầu tư, dự án.
1.1.2.2 Hoạt động tín dụng và đầu tư
a, Hoạt động tín dụng
- Cho vay
+ Cho vay thương mại: Ngay thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu
thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán
chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó bước
chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các
khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở
rộng sản xuất kinh doanh.

+ Cho vay tiêu dùng: Trong giai đoạn đầu, các ngân hàng không tích
cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình do tính rủi ro cao. Sự gia tăng thu
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
7
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh đã buộc các ngân hàng phải hướng
tới người tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng. Sau thế chiến thứ hai, tín
dụng tiêu dùng đã trở thành loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất tại các
nước có nền kinh tế phát triển.
+ Tài trợ cho dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn
hạn, các ngân hàng cũng ngày càng quan tâm vào việc tài trợ cho xây dựng
nhà máy mới đặc biệt là tài trợ trong các ngành công nghệ cao. Một số ngân
hàng còn cho vay đểđầu tư vào bất động sản. Tất nhiên, loại hình tín dụng này
rủi ro tương đối cao.
Các khoản cho vay, nơi tiềm ẩn những rủi ro hơn cả, luôn chiếm phần
lớn trong tổng tài sản của NH. Nếu không được kiểm soát chặt chẽ các khoản
vay rất dễ bị thất bại, trực tiếp ảnh hưởng tới lợi nhuận, thậm chí đe doạ sự
tồn tại của ngân hàng khi những nhu cầu rút tiền gửi của khách hàng không
được đáp ứng. Vậy thì, cho ai vay như thế nào, quản lý việc sử dụng tiền vay,
tiến hành thu nợ gốc và lãi ra sao là những vấn đề mà ngân hàng phải giải
quyết trước và trong quá trình cho vay, nhằm có được những khoản cho vay
an toàn và hiệu quả. Chính vì thế, giai đoạn xem xét trước khi cho vay, xem
xét người vay tiền và việc sử dụng tiền vay mà người ta gọi là thẩm định tín
dụng luôn chiếm vị trí quyết định.
b, Đầu tư
Hoạt động đầu tư chủ yếu của Ngân hàng trên thị trường tài chính thông
qua việc mua bán các chứng khoán: công trái và tín phiếu. Thu nhập của
Ngân hàng từ hoạt động này là khoản chênh lệch giữa giá bán và giá mua.
Ngoài ra Ngân hàng còn hùn vốn liên doanh với các doanh nghiệp, trong quá
trình đó Ngân hàng sẽ được chia lợi nhuận từ hoạt động này, đây cũng là cách

giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro khi cho vay, đồng thời ngân hàng có thể
giám sát được các khoản vay của mình trong việc sử dụng nó.
NHTM dùng vốn để kinh doanh bất động sản, góp vốn liên doanh và
kinh doanh chứng khoán. Trong đó đầu tư vào chứng khoán là một hình thức
khá phổ biến, nó mang lại thu nhập cho ngân hàng, nâng cao khả năng
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
8
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
thanh khoản (vì chứng khoán rất đa dạng, nhiều thể loại và có tính thanh
khoản cao). NHTM có thể mua chứng khoán ngắn hạn của Chính phủ, nó vừa
tăng thu nhập cho ngân hàng, vừa góp phần cân bằng thu chi ngân sách
thường xuyên.
NHTM còn được phép mua cổ phiếu, trái phiếu của các doanh nghiệp
tham gia vào việc thành lập và quản lý các doanh nghiệp. Tuy nhiên NHTM
chỉ được đầu tư chứng khoán có giới hạn không được để hoạt động này lấn át
hoạt động cho vay. Hiện nay hoạt động đầu tư chứng khoán của ngân hàng
được thực hiện qua các công ty thành viên là các công ty chứng khoán trực
thuộc ngân hàng, điều này nhằm kiểm soát việc sử dụng vốn của các ngân
hàng đồng thời giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Nghiệp vụ đầu tư đã giúp cho ngân hàng có thể đa dạng hoá các hoạt
động kinh doanh của ngân hàng nhằm phân tán rủi ro và nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh của ngân hàng đồng thời khai thác và sử dụng tối đa
nguồn vốn đã huy động.
1.1.2.3 Hoạt động dịch vụ
Cung cấp các tiện ích cho khách hàng luôn là mục tiêu của mỗi Ngân
hàng, bắt đầu từ việc giữ hộ tiền ngày nay các dịch vụ đã phát triển vượt bậc
cả về số lượng, chất lượng, đáp ứng tốt hơn cho khách hàng.
a, Mua bán ngoại tệ:
Đây là một trong những loại dịch vụ đầu tiên được thực hiện, một
Ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và

hưởng phí dịch vụ. Với một thế giới đang phát triển ngày càng nhiều hơn về
ngoại thương thì yêu cầu trao đổi, mua bán ngoại tệ tăng đòi hỏi Ngân hàng
phải chú trọng thích hợp. Nhưng đây là loại hoạt động có mức độ rủi ro cao
và yêu cầu trình độ chuyên môn cao, do vậy chỉ các Ngân hàng lớn mới có
khả năng để thực hiện.
b, Cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn:
Do hoạt động trong lĩnhvực tài chính các ngân hàng có rất nhiều chuyên
gia về quản lý tài chính nên đã có nhiều cá nhân và doanh nghiệp nhờ Ngân
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
9
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ mình. Dịch vụ ủy thác
phát triển rất cao: Dịch vụ ủy thác vay hộ, ủy thác vay hộ, ủy thác đầu tư
Ngân hàng còn sẵn sàng tư vấn về đầu tư, quản lý tài chính, thành lập, mua
bán, sáp lập doanh nghiệp để nhằm giảm rủi ro cho khách hàng.
c, Cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Dịch vụ của Ngân hàng được mở rộng hơn nữa, Ngân hàng cho khách
hàng thuê các máy móc, thiết bị cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua. Đây
là một loại hình kinh doanh mới của Ngân hàng trong đó Ngân hàng mua thiết
bị rồi cho thuê. Do đó cho thuê của Ngân hàng cũng có nhiều điểm giống với
cho vay nên dược xếp vào tín dụng trung và dài nhưng có ưu điểm là nếu sau
thời hạn thuê khách hàng có thể thuê tiếp hoặc mua lại với giá ưu đãi, nên
hiện nay dịch vụ này đang được mở rộng.
d, Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Ngày nay ngoài việc gửi tiền vào ngân hàng, các doanh nhân còn phải
thực hiện việc chi trả cho khách hàng của họ và nếu thanh toán trực tiếp sẽ
gặp nhiều khó khăn và tổn thất nhiều hơn. Hình thức thanh toán qua Ngân
hàng đã mở đầu cho việc thanh toán không dùng tiền mặt. Dịch vụ này có rất
nhiều tiện ích: an toàn, nhanh chóng, chính xác, giảm chi phí đã góp phần
rút ngắn thời gian kinh doanh và càng khuyến kích họ gửi tiền vào Ngân hàng

để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Từ đó hình thành nên một dịch vụ mới rất
quan trọng: tài khoản tiền gửi giao dịch, đây cũng được xem là một trong
những bước quan trọng nhất của công nghệ Ngân hàng. Cùng với sự bùng nổ
của công nghệ thông tin, hình thức thanh toán liên Ngân hàng đã phát triển
lên một bậc cao và thông dụng hơn và cũng có nhiều thể thức thanh toán mới
xuất hiện: ủy nhiệm chi, nhờ thu, thanh toán bằng thẻ
e, Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Thị trường chứmg khoán là hình thức phát triển cao của thị trường tài
chính, tham gia vào đó đòi hỏi người đầu tư phải có trình độ chuyên môn và
phải dự tính được những rủi ro thường rất cao của chứng khoán. Đòi hỏi
không phải ai cũng có và ai cũng đáp ứng đủ, vậy nên các Ngân hàng trong
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
10
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
quá trình phấn đấu để cung cấp đủ các dịch vụ tài chính để thỏa mãn mọi nhu
cầu của khách hàng đã bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán.
f, Dịch vụ bảo hiểm, bảo lãnh:
Do Ngân hàng có khả năng thanh toán cho một khách hàng là rất lớn và
lại nắm giữ tiền gửi của khách hàng nên rất có uy tín trong việc bảo lãnh cho
khách hàng. Gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng ngày càng đa dạng
và phát triển mạnh, Ngân hàng thường bảo lãnh để khách hàng có thể mua
chịu hàng hóa, thiết bị, phát hành chứng khoán, vay tín dụng
Cũng từ sự uy tín mà từ lâu nay Ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách
hàng, điều đó đảm bảo việc hoàn trả nếu khách hàng gặp rủi ro.
Thường thì Ngân hàng hay kết hợp với hình thức tiết kiệm (nhân thọ) để
đảm bảo cho khách hàng các hình thức tiết kiệm bình thường.
g, Quản lý ngân quỹ:
Các cá nhân và doanh nghiệp để đảm bảo mức lợi nhuận và độ an toàn
cao nhất có thể của mình do vậy họ đã nhờ các Ngân hàng giữ hộ tiền và do
có kinh nghiệm lâu năm trong việc quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc

thu ngân sách nên nhiều Ngân hàng đã cung cấp dịch vụ quản lý ngân quỹ.
Trong đó, ngân hàng sẽ quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và
tiến hành đầu tư phần thặng dư tạm thời của các doanh nghiệp vào các chứng
khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn để thu lợi nhuận cho công ty.
h, Tài trợ các hoạt động của chính phủ
Với khả năng tích tụ và tập trung một khối lượng lớn tiền vốn của các
ngân hàng và do nhu cầu chi tiêu lớn và cấp bách, trong khi thu không đủ của
chính phủ nên chính phủ các nước đều luôn muốn tiếp cận với các khoản cho
vay của ngân hàng. Ngày nay, vì chính phủ có quyền cấp giấy phép hoạt
động và thực hiện kiểm soát Ngân hàng nên khi đó các ngân hàng phải cam
kết thực hiện ở một mức độ nào đó cho những chính sáchcủa chính phủ và tài
trợ cho chính phủ (mua trái phiếu chính phủ với một tỷ lệ nhất định hoặc cho
vay ưu đãi cho các doanh nghiệp của chính phủ).
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
11
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
Như vậy, ngày nay vối sự phát triển của nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các Ngân hàng ngày
càng cung cấp nhiều hơn các dịch vụ về tài chính đáp ứng cho nhu cầu đang
tăng của khách hàng. Nhiều loại hình mới có chất lượng hơn được cung cấp
đã giúp ngân hàng tạo sự thuận tiện trong giao dịch, nâng cao sức cạnh tranh
giữa các Ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, tăng thu nhập cho mình.
1.2 HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
Nguồn vốn của NHTM phần lớn do thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi
trong sản suất kinh doanh được gửi vào Ngân hàng với các mục đích khác
nhau. Ngân hàng đóng vai trò tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế
để chuyển đến các nhà đầu tư có nhu cầu về vốn để phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngân hàng và các
hoạt động về nguồn vốn quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và phất triển của

các Ngân hàng thương mại. Nguồn vốn đóng vai trò chi phối và quyết định
đối với các hoạt động của các NHTM trong việc thực hiện các chức năng của
mình. Nó bao gồm các loại sau:
1.2.1.1 Vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng
Vốn thuộc sở hữu của NHTM chiếm một tỷ trọng nhỏ trong các khoản
mục tạo nên nguồn vốn (thường chỉ chiếm 5% trong tổng nguồn vốn) nhưng
nó có vai trò cực kỳ quan trọng đối với các Ngân hàng. Do tính chất thường
xuyên ổn định nên Ngân hàng có thể sử dụng nó vào các mục đích khác nhau
như trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo tài sản cố định phục vụ cho bản thân
Ngân hàng, có thể sử dụng cho vay, đặc biệt là đầu tư góp vốn liên doanh.
Mặt khác với chức năng bảo vệ, vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng được coi
như là tài sản đảm bảo gây lòng tin với khách hàng, duy trì khả năng thanh
toán cho khách hàng khi Ngân hàng hoạt động thua lỗ. Hơn nữa nó là một
căn cứ quyết định đối với qui mô và khối lượng vốn huy động cũng như hoạt
động cho vay và bảo lãnh của Ngân hàng. Quy mô và sự tăng trưởng vốn
thuộc sở hữu của Ngân hàng sẽ quyết định năng lực phát triển của NHTM.
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
12
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
Khi đánh giá về qui mô của một NHTM thì tiêu chí đầu tiên được đề cập là
vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng đó.
a, Vốn điều lệ: Là mức vốn được hình thành khi Ngân hàng được thành
lập. Vốn điều lệ luôn lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định nó được quy định bởi
điều lệ của ngân hàng còn vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có khi
thành lập một Ngân hàng do ngân hàng nhà nước quy định. Vốn điều lệ được
ghi vào điều lệ thành lập Ngân hàng. Tuỳ thuộc vào loại hình Ngân hàng mà
vốn điều lệ được hình thành từ những nguồn gốc khác nhau:
Ngân hàng quốc doanh: Vốn điều lệ được hình thành từ Ngân sách nhà
nước cấp
Ngân hàng cổ phần: Vốn điều lệ được hình thành từ vốn góp của các cổ

đông thông qua việc mua các cổ phiếu.
Ngân hàng liên doanh: Vốn điều lệ được hình thành từ vốn góp của các
bên liên doanh.
Ngân hàng nước ngoài: Vốn diều lệ được hình thành từ 100% vốn nước
ngoài.
Ngân hàng tư nhân: Vốn điều lệ được hình thành từ vốn của chủ Ngân
hàng.
b, Các quỹ
Quỹ dự trữ: Nhằm để bổ sung vốn điều lệ.
Quỹ dự phòng rủi ro: Để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng nhằm bảo vệ vốn điều lệ.
Quỹ phúc lợi, khen thưởng: Dùng để khen thưởng các cá nhân cũng như
tổ chức đạt thành tích tốt.
Lợi nhuận chưa chia: Đây là nguồn để tạo tăng vốn chủ sở hữu của ngân
hàng nhằm mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu.
1.2.1.2 Vốn nợ
a, Vốn vay
Tiền gửi mà Ngân hàng nhận được là nguồn vốn mà Ngân hàng có được
một cách thụ động. Trong hoạt động của mình nếu như thiếu vốn thì Ngân
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
13
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
hàng phải chủ động tìm kiếm vốn để thực hiện các hoạt động của mình.
Nguồn vốn mà Ngân hàng chủ động tạo nên đó là nguồn vốn vốn vay. Vậy
các Ngân hàng đi vay khi nào?
Thứ nhất: Vay để đáp ứng nhu cầu khả năng thanh toán của Ngân hàng.
Vì hoạt động chủ yếu và thường xuyên của Ngân hàng là nhận tiền gửi
với trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền
để sử dụng. Do vậy có những trường hợp số tiền dự trữ và số tiền mà Ngân
hàng nhận được trước đó trong ngày ít hơn số tiền mà khách hàng rút thì

Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán tiền cho khách hàng nghĩa
là Ngân hàng thiếu tiền trả cho khách hàng nên Ngân hàng phải đi vay.
Thứ hai: Vay hộ cho khách hàng
Vì hoạt động cơ bản của Ngân hàng là tài trợ cho nền kinh tế nên khi
khách hàng có nhu cầu vay vốn Ngân hàng và đảm bảo các yêu cầu do Ngân
hàng đặt ra thì Ngân hàng sẽ cho vay. Tuy nhiên với những khách hàng vay
với khối lượng lớn, thời hạn dài mà Ngân hàng lại không muốn dùng toàn bộ
số tiền của mình có để đầu tư cho dự án này (vì rủi ro đem lại có thể rất cao)
nhưng Ngân hàng cũng không muốn mất khách hàng nên họ thoả thuận với
nhau qua đó Ngân hàng thay mặt khách hàng phát hành trái phiếu để thu gom
tiền trong nền kinh tế để phục vụ vốn cho dự án. Người ta chỉ phát hành trái
phiếu vừa đủ số tiền mà dự án cần dùng và trong một thời hạn bằng thời gian
tồn tại của dự án.
Thứ ba: Vay để giảm chi phí nguồn tiền cho giai đoạn sau.
Vào cuối kỳ hạch toán, nếu các chủ Ngân hàng dự tính được thu nhập
của kỳ đó lớn nghĩa là kỳ đó họ phải chịu thuế nhiều. Nếu họ cũng dự tính
được kỳ sau họ sẽ có những khoản chi phí lớn thì họ có thể phát hành kỳ
phiếu ngắn hạn trả lãi trước nhằm tăng chi phí cho kỳ này và giảm chi phí cho
kỳ sau Như vậy Ngân hàng sẽ đi vay với các lý do trên, với các mục đích vay
khác nhau Ngân hàng sẽ áp dụng các hình thức vay khác nhau
+ Vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng
và vốn vay từ Ngân hàng trung ương tuỳ theo tình hình hoạt động của Ngân
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
14
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
hàng trong từng thời kỳ và lý do của các khoản vay của mình mà Ngân hàng
có những hình thức vay phù hợp, Ngân hàng có thể sử dụng phương thức
khác như vay vốn ở các tổ chức tín dụng khác hoặc vay ở NHNN. Thực tế
cho thấy hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn là không đồng đều giữa các
Ngân hàng, ở những thời điểm có những Ngân hàng thiếu vốn nhưng lại có

những tạm thời đang thừa vốn thì các Ngân hàng này có thể vay mượn lẫn
nhau vì mục đích của cả đôi bên. Hơn nữa các Ngân hàng đều làm trung gian
thanh toán cho nền kinh tế nên các Ngân hàng đều mở tài khoản tiền gửi lẫn
nhau và trong những trường hợp Ngân hàng nào đó thiếu vốn để thanh toán
chi khách hàng của mình thì Ngân hàng kia có thể cho vay để Ngân hàng đó
đảm bảo khả năng thanh toán. Trong những trường hợp cấp bách mà Ngân
hàng không thể vay được ở các Ngân hàng khác thì có thể vay ở NHTW vì
NHTW là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM. Tuỳ theo mục đích sử
dụng và hình thức vay vốn mà NHTW chia thành các loại sau:
- Vốn vay ngắn hạn bổ sung: Là hình thức mà NHTM xin vay vốn bổ
sung nguồn vốn ngắn hạn của mình. Trong trường hợp này các NHTM chỉ
được vay khi còn hạn mức tín dụng theo qui định của NHTW.
- Vốn vay để đảm bảo khả năng chi trả: Các NHTM vay vốn của NHTW
để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán hoặc thiếu hụt trong dự trữ
(thường là vay với thời hạn ngắn).
- Tái cấp vốn: NHTW cho các NHTM vay vốn trên cơ sở các chứng từ
có giá, các chứng từ này phải hợp lệ, hợp pháp và an toàn. Tái cấp vốn gồm
có các hình thức: Cho vay bằng chiết khấu hoặc tái chiết khấu giấy tờ có giá
và cho vay có bảo đảm. Tuy nhiên việc NHTM vay vốn ở NHTW phụ thuộc
vào chính sách tiền tệ quốc gia trong từng thời kỳ mà NHTW có thể cho vay
với khối lượng, thời hạn, lãi suất, hạn mức… khác nhau để thực hiện chính
sách tiền tệ của mình.
b, Nguồn vốn khác
+ Điều chuyển vốn
Ngày nay hệ thống NHTM được tổ chức theo mô hình tổng công ty và
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
15
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
các công ty con gồm Ngân hàng mẹ và các hệ thống các Ngân hàng Chi
nhánh trực thuộc. Có một phương thức huy động vốn rất hiệu quả hiện nay là

chu chuyển vốn điều hoà. Do tình hình hoạt động của các chi nhánh tại các
địa bàn khác nhau là khác nhau (do ảnh hưởng của điều kiện phát triển kinh tế
của từng vùng, do phong tục tập quán…) Cho nên những Chi nhánh Ngân
hàng mà hoạt động sử dụng vốn vượt quá khả năng huy động vốn thì đầu kỳ
lập kế hoạch lên Ngân hàng mẹ và xin được nhận được một lượng vốn điều
hoà cần thiết cho hoạt động của mình. Còn những Ngân hàng mà khả năng
huy động vốn vượt quá khả năng sử dụng vốn thì đầu kỳ cũng lập kế hoạch sẽ
điều chuyển một lượng vốn về Ngân hàng mẹ để được hưởng lãi suất điều
hoà. Như vậy Ngân hàng mẹ chịu trách nhiệm điều chuyển vốn từ nơi thừa
sang nơi thiếu của các chi nhánh trong cùng hệ thống, chi phí nhận nguồn vốn
điều hoà này thấp hơn chi phí nguồn vốn huy động nhưng các Ngân hàng chỉ
được nhận nguồn vốn này sau khi đã lập kế hoạch về lượng vốn huy động
được trong kỳ sau.
+ Nguồn vốn uỷ thác đầu tư
Một số Ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ Ngân hàng đại lý, khi đó
trong nguồn vốn của Ngân hàng còn có thêm khoản mục vốn uỷ thác đầu tư.
Nguồn vốn này được hình thành chủ yếu là do các tổ chức tài chính trong
nước hoặc nước ngoài uỷ thác cho Ngân hàng một khoản tiền để Ngân hàng
thực hiện cho vay đối với các dự án của mình, cũng có thể là các khoản vay
của Chính phủ được uỷ thác.
1.2.1.3 Phương thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
Theo quan niệm của các nhà kinh tế học và các nhà Ngân hàng trong
tổng nguồn vốn của Ngân hàng ngoài nguồn vốn thuộc chủ sở hữu thì tất cả
các nguồn vốn còn lại được coi là nguồn vốn huy động. Như vậy nguồn vốn
huy động của các Ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng tới hơn 90% trong
tổng nguồn vốn. Vì vậy các hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng tồn tại và
phát triển được là nhờ nguồn vốn huy động này.
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
16
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp

a, Nhận tiền gửi
Là nguồn vốn mà Ngân hàng huy động được từ các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế, cá nhân… trong xã hội thông qua quá trình nhận tiền gửi, thanh
toán hộ, các khoản cho vay tạo tiền gửi và các nghịệp vụ kinh doanh khác.
Bản chất của tài khoản tiền gửi là tài sản thuộc sở hữu của các đối tượng
khách hàng khác nhau, Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng nó để cho vay, chiết
khấu, thanh toán… nhưng không có quyền sở hữu, Ngân hàng có trách nhiệm
phải hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút tiền
để sử dụng. Tiền gửi chiếm một tỷ trọng khá lớn trong nguồn vốn huy động
của các Ngân hàng thương mại. Các hình thức nhận tiền gửi của các Ngân
hàng thương mại rất đa dạng, tuỳ thuộc vào các tiêu thức khác nhau mà được
chia thành từng loại khác nhau:
+ Theo tiêu thức nguồn hình thành
Các khoản ký gửi của các cá nhân và tổ chức là các khoản tiền mà cá
nhân và tổ chức trực tiếp chuyển vào Ngân hàng: Cá nhân gửi tiền tết kiệm,
doanh nghiệp nộp tiền bán hàng…Đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi
trong nền kinh tế được Ngân hàng tập trung lại. Các cá nhân và tổ chức
thường gửi tiền với kỳ hạn và mục đích khác nhau, các cá nhân thường gửi
tiền để hưởng lãi còn các tổ chức doanh nghiệp thường là để sử dụng các dịch
vụ thanh toán của Ngân hàng.
- Tiền gửi tiết kiệm: Phần lớn là các khoản ký gửi của cá nhân với mục
đích là tìm kiếm một khoản thu nhập với số tiền nhàn rỗi của mình. Thông
thường tiền gửi có khối lượng nhỏ, thời hạn ngắn. Những người gửi tiền tiết
kiệm là những đối tượng giảm chi tiêu trong hiện tại với kỳ vọng sẽ tăng được
chi tiêu trong tương lai. Phương thức gửi tiền tiết kiệm chủ yếu là nộp tiền
trực tiếp vào Ngân hàng hoặc gián tiếp chuyển thu nhập dưới hình thức
chuyển qua tài khoản.
- Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Loại hình này khá phổ biến ở các nước
phát triển, thường sử dụng với những hộ có thu nhập thấp và trung bình.
Những người để dành một khoản tiền gửi vào Ngân hàng (Thông thường là

Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
17
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
các khoản tiền đều đặn hàng năm) với ý định tích luỹ tiền cho một mục đích
nhất định trong tương lai như xây dựng nhà cửa, mua ôtô… và cũng được
hưởng lãi trên số tiền gửi như các loại tiết kiệm khác. Khi có nhu cầu sử dụng
tiền vào mục đích nói trên, nếu số dư của khoản tiết kiệm đó chưa đủ thì Ngân
hàng có thể hỗ trợ thêm một phần dưới hình thức cho vay với một lãi suất hợp
lý đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên. Đây là một hình thức huy động vốn
trung và dài hạn khá hiệu quả, có tính chất ổn định, đồng thời có tác dụng tích
cực trong việc hỗ trợ cho người dân về việc mua sắm nhà, phương tiện.
- Tiền gửi thanh toán: Là các khoản ký gửi của cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh không nhằm mục đích tìm kiếm thêm thu nhập
mà để được hưởng các dịch vụ thanh toán của Ngân hàng, thông thường các
khoản tiền gửi thanh toán có số lượng lớn. Mặt khác một số Ngân hàng
thường ưu tiên hơn đối với các doanh nghiệp mở tài khoản tại Ngân hàng và
phải có số dư nhất định trên tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng. Các khoản tiền
gửi này Ngân hàng phải chịu chi phí thấp, phải quản lý chính xác khâu dự trữ
nhưng lại được sử dụng một khoản tiền lớn phục vụ cho các hoạt động của
mình. Các khoản tiền gửi thanh toán một mặt làm phát triển hệ thống thanh
toán không dùng tiền mặt qua hệ thống Ngân hàng, tiết kiệm chi phí trong lưu
thông, mặt khác kiểm soát được hoạt động của các doanh nghiệp. Khi thực
hiện chức năng là trung gian thanh toán cho nền kinh tế, Ngân hàng tạo được
một nguồn vốn từ hoạt động thanh toán: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng,
tài khoản tiền gửi chờ thanh toán… Các khoản tiền tạm thời đang nằm ở tài
khoản của Ngân hàng chờ sử dụng nên được coi là nhàn rỗi. Ngân hàng
thương mại cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu hộ
hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho các tổ chức tín dụng khác, nhận vốn
uỷ thác của các tổ chức trong và ngoài nước…. Do tiền được giải ngân theo
tiến độ công việc nên Ngân hàng có thể sử dụng tạm thời các khoản tiền đó

vào kinh doanh.
+ Tín dụng tạo tiền gửi: Ít người biết được rằng đây là một hình thức
nhận tiền gửi. Khi Ngân hàng cho khách hàng vay vốn thì Ngân hàng chuyển
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
18
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
số tiền cho vay của khách hàng vào tài khoản tiền gửi của khách hàng ngay
trong Ngân hàng. Khi khách hàng chưa có nhu cầu rút tiền ngay và rút không
hết thì Ngân hàng có thể tạm thời sử dụng số tiền còn lại đó mặc dù với thời
hạn rất ngắn.
+ Theo tiêu thức kỳ hạn
Ngày nay người ta thường phân chia các khoản tiền gửi theo tiêu thức
này để có thể quản lý tốt lượng tiền gửi, tiền lãi và là cơ sở để Ngân hàng xây
dựng chiến lược dự trữ phù hợp và chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn đó
vào quá trình hoạt động kinh doanh.
- Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là các khoản tiền gửi không có kỳ hạn xác
định, người gửi tiền có thể rút ra bất kỳ lúc nào tuỳ theo nhu cầu của mình do
đó lãi suất của loại tiền gửi này thường thấp hơn so với các loại tiền gửi có kỳ
hạn xác định. Tiền gửi không kỳ hạn đáp ứng nhu cầu của những khách hàng
chưa có dự định rõ ràng trong tương lai còn các doanh nghiệp lựa chọn nhằm
mục đích thanh toán trong kinh doanh. Do vậy lượng tiền gửi không kỳ hạn
thường chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng.
Với đặc tính của nguồn tiền này là luôn biến động cho nên Ngân hàng chỉ
được sử dụng một phần của lượng tiền gửi không kỳ hạn nhận được tuỳ thuộc
vào dự tính của Ngân hàng về sự ổn định tương đối của lượng tiền huy động
được trong thời gian tới. Quản lý tiền gửi không kỳ hạn là một phần quan
trọng của quả lý dự trữ của Ngân hàng.
- Tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa người
gửi tiền và Ngân hàng về số lượng, kỳ hạn và lãi suất của khoản tiền gửi đó.
Do đặc tính của khoản tiền gửi này là có độ ổn định cao hơn nguồn không kỳ

hạn nên Ngân hàng chủ động trong việc sử dụng nguồn tiền đó để phục vụ
cho hoạt động kinh doanh của mình, vì vậy Ngân hàng trả lãi suất hơn loại
tiền gửi không kỳ hạn và tiền giửi thanh toán, Ngân hàng đưa ra các kỳ hạn
khác nhau như 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng,… Mức lãi suất thường tỷ
lệ thuận với kỳ hạn, nếu kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Các khách hàng
gửi tiền theo loại này thì khi đến hạn sẽ được hoàn trả gốc và lãi theo qui
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
19
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
định, nếu chưa đến hạn mà khách hàng gửi tiền rút tiền ra trước thì khách
hàng chỉ được hưởng lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn.
+ Theo tiêu thức loại tiền
- Tiền gửi nội tệ: Đây là khoản tiền gửi cơ bản mà các Ngân hàng thương
mại nhận được, nguồn vốn nội tệ là nguồn vốn chủ yếu đối với các Ngân hàng,
nó phụ thuộc vào mức thu nhập trong nước và lãi suất huy động trong từng thời
kỳ, loại tiền này thường chiếm tỷ trọng cao trong tổng lượng tiết kiệm.
- Tiền gửi ngoại tệ: Bên cạnh nhận tiền gửi nội tệ, Ngân hàng còn nhận
tiền gửi dưới dạng ngoại tệ đặc biệt là các ngoại tệ mạnh như USD, EUR,
GBP, DEM… Những ngoại tệ này cũng rất cần thiết trong hoạt động của
Ngân hàng như kinh doanh ngoại tệ trong nước, trong quan hệ tài trợ xuất
nhập khẩu, thanh toán quốc tế… Các Ngân hàng có xu hướng mở rộng kinh
doanh đối ngoại thường có nguồn vốn ngoại tệ lớn. Nhận tiền gửi bằng ngoại
tệ là một phương thức đa dạng hoá về phương thức huy động vốn của các
Ngân hàng thương mại.
b, Phát hành kỳ phiếu có mục đích
Khi các Ngân hàng muốn có một khoản tài chính để tài trợ cho các dự án
có qui mô lớn, thời hạn dài hoặc tăng qui mô hoạt động của các Ngân hàng
hoặc liên doanh với các tổ chức khác mà nguồn vốn vốn hiện tại chưa đáp
ứng được, Ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu để tạo nguồn vốn trung và
dài hạn để đầu tư cho các hoạt động này. Có thể kỳ phiếu là một chứng chỉ

nhận nợ của Ngân hàng có mục đích kỳ hạn rõ ràng. Kỳ phiếu của Ngân hàng
phát hành để huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế để tạo lập nguồn
vốn ngắn hạn. Khi Ngân hàng muốn giảm chi phí cho kỳ sau thì Ngân hàng
phát hành kỳ phiếu ngắn hạn trả trước.
c, Phát hành trái phiếu
Trái phiếu Ngân hàng thực chất là một giấy nhận nợ của Ngân hàng với
khách hàng. Phát hành trái phiếu Ngân hàng nhằm tập trung vốn trung và dài
hạn để tài trợ cho các dự án lớn theo yêu cầu phát triển trên địa bàn hoặc tập
trung vốn tài trợ cho các dự án được Chính phủ chỉ định Ngân hàng phát hành
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
20
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
trái phiếu chủ yếu là để vay hộ khách hàng. Trái phiếu khác kỳ phiếu có mục
đích ở chỗ kỳ phiếu có mục đích thường được sử dụng linh hoạt hơn như kỳ
phiếu có thể được phát hành ở từng chi nhánh trên cơ sở được sự chấp thuận
của NHTW với khung lãi suất và thời hạn phát hành riêng biệt, còn trái phiếu
thường được phát hành với qui mô lớn hơn và đồng loạt trong cả hệ thống
Ngân hàng.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá huy động vốn của ngân hàng
Vốn của NHTM có đặc điểm khác so với vốn của các doanh nghiệp khác
bởi tính đặc thù của nó, vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn của doanh nghiệp, vốn nợ là nguồn chủ yếu của ngân hàng. Vốn này rất
đa dạng và gồm nhiều thành phần, trong số đó có những thành phần không ổn
định, đổi lại khả năng giao dịch lại cao và tỷ lệ lãi suất thấp, một số khác hạn
chế khả năng phát hành séc ổn định nhưng lãi suất cao hơn.
Rõ ràng phần lớn các nguồn nợ của ngân hàng liên quan tới chi phí trả
lãi. Chi phí trả lãi là bộ phận chi phí lớn nhất đối với các ngân hàng, vì vậy có
ảnh hưởng quyết định đối với thu nhập của ngân hàng, nó chịu tác động trực
tiếp bởi quy mô, cơ cấu các nguồn trả lãi và lãi suất cá biệt, chính vì vậy để
đánh giá hoạt động huy động vốn của ngân hàng ta dựa vào các chỉ tiêu sau:

- Quy mô, cơ cấu nguồn huy động đủ lớn để tài trợ cho các danh mục tài
sản và không ngừng tăng trưởng ổn định.
- Nguồn vốn có chi phí hợp lý
- Huy động vốn phù hợp với sử dụng vốn về mặt kỳ hạn
- Quản lý tốt các loại rủi ro liên quan đến hoạt động huy động vốn.
1.2.2.1 Quy mô và cơ cấu nguồn vốn huy động
Nguồn vốn từ bên ngoài của ngân hàng bao gồm nhiều bộ phận khác
nhau: nguồn tiền gửi, nguồn tiền vay và các nguồn khác. Mỗi thành phần này
có đặc tính khác nhau về qui mô, cơ cấu, tính ổn định, thời gian tồn tại, chi
phí phải trả, khả năng thanh toán và rủi ro lãi suất. Trong đó:
+ Qui mô là chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động của ngân hàng. Qui
mô nguồn huy động gia tăng đáp ứng cho hoạt động tài trợ không ngừng tăng
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
21
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
trưởng sẽ tạo điều kiện để ngân hàng mở rộng hoạt động, nâng cao tính thanh
khoản và tính ổn định của nguồn vốn.
+ Cơ cấu nguồn vốn ảnh hưởng tới cơ cấu tài sản và quyết định chi phí
của ngân hàng, nó phải phù hợp với cơ cấu sử dụng. Nếu cơ cấu nguồn huy
động không phù hợp, không đáp ứng được yêu cầu sử dụng thì sẽ không tối
đa được dư nợ tín dụng và đầu tư, ngược lại cơ cấu huy động đa dạng mà sử
dụng không hết thì hoạt động không hiệu quả, ngân hàng vẫn phải chịu lãi
suất trên phần huy động thừa.
Tùy điều kiện cụ thể, các nguồn có thể có tốc độ và quy mô thay đổi
khác nhau. Các ngân hàng lớn có quy mô nguồn lớn thì tốc độ tăng trưởng
nguồn có thể không cao như các ngân hàng nhỏ, những ngân hàng ở nơi
nguồn tiền dồi dào có cơ cấu nguồn khác với các ngân hàng ở xa. Cơ cấu
nguồn vốn của ngân hàng có thể rất khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc điểm khách
hàng, chiến lược kinh doanh và hoạt động Marketing của ngân hàng. Nhìn
chung cơ cấu nguồn vốn của một ngân hàng được xem là hợp lý nếu các

thành phần của nó đáp ứng được kế hoạch sử dụng vốn, đồng thời với chi phí
biến động thấp nhất. Một ngân hàng cân đối được quy mô và tốc độ tăng
trưởng của nguồn vốn sẽ tạo lập được nguồn vốn tăng trưởng ổn định kết hợp
với chi phí vốn hợp lý, tạo điều kiện cho ngân hàng hoạt động có hiệu quả:
ngân hàng có thể cơ cấu lại nguồn vốn, mở rộng qui mô hoạt động, chủ động
trong việc chuyển dịch cơ cấu dư nợ, kết quả kinh doanh khả quan hơn, từ đó
nâng cao sức cạnh tranh và uy tín.
1.2.2.2 Chi phí vốn
Chi phí huy động vốn của các ngân hàng thể hiện ở khoản chi phí trả lãi
(trả lãi cho tiền gửi và tiền vay), cùng với khoản chi phí không dưới dạng lãi
suất (chi phí phi lãi) mà ngân hàng phải bỏ ra để huy động vốn. Công tác huy
động vốn của ngân hàng được đánh giá có chất lượng và hiệu quả cao về
phương diện chi phí khi nó đạt được những lợi ích cơ bản sau:
+ Tìm kiếm được nguồn có chi phí thấp nhất để đáp ứng nhu cầu cho
vay và đầu tư đồng thời thoả mãn các yêu cầu tương xứng giữa huy động và
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
22
Học viện ngân hàng Chuyên đề tốt nghiệp
sử dụng về các phương diện qui mô, thời hạn, tính ổn định. Những nguồn có
chi phí biên thấp nhất sẽ là nguồn có ưu thế nhất về phương diện chi phí.
+ Tăng được lợi nhuận cho ngân hàng mà không nhất thiết phải chấp nhận
những rủi ro cao do sức ép tăng chi phí vốn. Lợi nhuận của ngân hàng về cơ
bản sẽ bằng tổng thu nhập trừ đi chi phí và thuế, đo đó việc tăng lợi nhuận bằng
cách tăng thu nhập (thông qua việc đầu tư vào tài sản sinh lời cao tương ứng
với rủi ro cao) sẽ mạo hiểm hơn là cách quản lý hiệu quả chi phí vốn.
Những nguồn có thời hạn ngắn thường có chi phí nguồn thấp và tính ổn
định thấp, ngược lại những nguồn có thời hạn càng dài thì chi phí cao hơn
nhưng ổn định hơn. Nên để hoạch định chiến lược kinh doanh cho mỗi giai
đoạn, căn cứ vào chi phí phải trả cho mỗi nguồn ngân hàng đưa ra các sách
lược huy động vốn phù hợp nhằm mục tiêu mở rộng kinh doanh, tăng dư nợ

cho vay, đầu tư đồng thời bảo đảm tiền lãi bù đắp được chi phí nguồn và đem
lại doanh lợi mong muốn mà không ảnh hưởng đến khả năng thanh toán. Lãi
suất ngân hàng quy định trả cho từng nguồn (nhóm nguồn) chỉ phần lớn chi
phí của nó, chi phí thực hiện cho vốn và các chi phí khác như kiểm ngân, phí
dịch vụ, phí bảo hiểm tiền gửi tính trên số được sử dụng để đầu tư vào tài sản
sinh lời.
Tuỳ theo tính chất của từng nguồn vốn sẽ có nhiều mức lãi suất danh
nghĩa khác nhau và để cạnh tranh mở rộng nguồn tiền, các ngân hàng đều cố
gắng tạo ra các ưu thế của riêng mình trong đó có lãi suất cạnh tranh. Một
ngân hàng có thể đưa ra mức lãi suất danh nghĩa cao hơn các ngân hàng khác
hoặc cũng có thể tạo ra lãi suất cạnh tranh bằng các phương pháp như trả lãi
làm nhiều lần trong kỳ hoặc trả lãi trước. Để đánh giá hiệu quả của các
phương pháp này ngân hàng căn cứ vào NEC (Net effective cost: lãi suất hiệu
quả của mỗi nguồn tiền). Giả sử không có lạm phát, dự trữ bắt buộc thì:
NEC =
Lãi thực phải trả khách hàng
Gốc thực ngân hàng sử dụng
Lương Thị Việt Hà Lớp: LTCĐ 5E
23

×