Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT tỉnh tuyên Quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.11 KB, 63 trang )

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Thế giới vừa trải qua một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu với sự sụp
đổ của hàng loạt các ngân hàng lớn mạnh. Bắt đầu là sự sụp đổ của các ngân hàng
Mỹ: Ocala National Bank, Lehman Brothers, Washington Mutual Inc (WaMu)
Tính đến cuối năm 2009 đã có 123 ngân hàng của Mỹ phá sản.
Với tính liên thông cao của hệ thống ngân hàng, tài chính, cuộc khủng
hoảng này ngay lập tức ảnh hưởng nặng nề tới các nền kinh tế hùng mạnh ở châu
Âu, châu Á như: UBS, Bradford & Bingley (B & B)
Vậy nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới là gì, nó bắt nguồn
từ đâu?
Người ta cho rằng nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay bắt
đầu từ sự sụp đổ tài chính phố Wall với chính sách tín dụng dưới chuẩn, hay còn
gọi là tín dụng thế chấp bất động sản rủi ro cao, Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ thực
thi chính sách tiền tệ nới lỏng làm cho đô la rẻ so với các đơn vị tiền tệ khác trên
thế giới. Kết quả là thị trường tài chính và thị trường bất động sản sôi lên và nổ
tung.
Việt Nam là một nước đang phát triển đồng thời cũng là thành viên của các
tổ chức thế giới: WTO, ASEAN nên cũng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới. Cho đến nay có thể nói ảnh hưởng của khủng hoảng tới Việt Nam
là nghiêm trọng, tuy con đường tác động có khác. Nếu như cuộc khủng hoảng bắt
đầu từ nền kinh tế Mỹ ảnh hưởng ngay lập tức tới các nền kinh tế hùng mạnh khác,
thì cơn bão này đến Việt Nam chậm hơn một nhịp, nó thể hiện trươc hết ở các lĩnh
vực xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài
Để khắc phục sự suy giảm kinh tế, Chính Phủ đã dùng các gói kích cầu, hỗ
trợ DN và các tổ chức, cá nhân vay vốn đầu tư sản xuất kinh doanh thông qua hệ
thống ngân hàng Do đó, mặc dù có nhiều khó khăn của cuộc khủng hoảng tài
chính nhưng Việt Nam cũng đã thực hiện thành công mục tiêu ngăn chặn suy giảm
kinh tế, GDP tăng 5,2%, là 1 trong 12 nước có GDP tăng trưởng dương của thế
giới và là nước tăng trưởng cao nhất trong khu vực Đông Nam Á.


Như vậy, ngân hàng ngoài chức năng thanh toán, tạo tiền còn đóng vai trò
quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 1 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
đảm bảo quá trình tái sản xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy mô sản xuất
.
Trong nền kinh tế thị trường, cung cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ
bản của ngân hàng. Đối với các hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng thường
chiếm tới hơn 1/2 tổng tài sản có và thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng từ 1/2 đến
2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Vả lại, rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào các danh mục tín dụng. Khi
ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng thì nguyên nhân
thường phát sinh từ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Việc ngân hàng không thu
hồi được vốn, có thể là do ngân hàng đã buông lỏng quản lý, cấp tín dụng không
minh bạch, áp dụng một chính sách tín dụng kém hiệu quả, hay do nền kinh tế đi
xuống không lường trước.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất
của NHTM. Nhiều quan điểm cho rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường kinh doanh,
có thể phòng ngừa, hạn chế chứ không thể loại trừ. Rủi ro xảy ra không những làm
thiệt hại cho ngân hàng mà còn cho cả khách hàng và toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy,
việc nghiên cứu giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trở thành một yêu cầu bức
thiết đối với hệ thống ngân hàng.
Sau một thời gian tìm hiểu tình hình hoạt động kinh doanh tại NHNo &
PTNT Tỉnh Tuyên Quang, em nhận thấy tầm quan trọng của công tác giám sát và
phòng ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, em
đã chọn đề tài “Một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại
NHNo & PTNT tỉnh Tuyên Quang” làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là hệ thống lại các kiến thức về rủi ro tín
dụng và các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng. Trên cơ sở tiến hành xem xét

thực trạng rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT Tuyên Quang. Từ đó đề xuất những
giải pháp và kiến nghị giúp ngân hàng có thể hạn chế rủi ro tín dụng một cách tốt
nhất trong khả năng của mình.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là rủi ro tín dụng tại các NHTM và thực
trạng rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT Tuyên Quang.
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 2 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động của NHNo & PTNT Tuyên
Quang trong 3 năm trở lại đây: năm 2007 năm 2008 và năm 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu đề tài có sử dụng các phương pháp chung như phương
pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử. Ngoài ra đề tài còn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu riêng như phương pháp so sánh, thống kê, bảng
biểu để tiến hành phân tích số liệu qua các năm của NHNo & PTNT Tuyên Quang.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo chuyên
đề được kết cấu thành:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng tại NHTM
Chương 2: Thực trạng về rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT Tuyên Quang
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo &
PTNT Tuyên Quang
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 3 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
I. Tín dụng và vai trò của tín dụng:
1.Khái niệm và đặc trưng của tín dụng:
a)Khái niệm:

Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm
thời một lượng giá trị từ người sở hữu
sang người sử dụng và sau một thời gian
nhất định được quay trở lại người sở hữu
một lượng giá trị lớn hơn ban đầu.
b)Đặc trưng của tín dụng:
Thứ nhất, là quan hệ chuyển nhượng mang tính chất tạm thời. Đối tượng
của sự chuyển nhượng có thể là tiền hoặc hàng hóa kéo dài thời gian thanh toán
trong quan hệ mua bán hàng hóa. Tính chất tạm thời của sự chuyển nhượng đề cập
đến thời gian sử dụng giá trị đó. Nó là kết quả của sự thoả thuận giữa các đối tác
tham gia quá trình chuyển nhượng để đảm bảo sự phù hợp giữa thời gian nhàn rỗi
và thời gian cần sử dụng lượng giá trị đó. Sự thiếu phù hợp của thời gian chuyển
nhượng có thể ảnh hưởng đến quyền lợi tài chính và hoạt động kinh doanh của cả
hai bên và dẫn đến nguy cơ phá huỷ quan hệ tín dụng. Thực chất trong quan hệ tín
dụng chỉ có sự chuyển nhượng quyền sử dụng lượng giá tạm thời nhàn rỗi trong
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 4 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
một khoảng thời gian nhất định mà không có sự thay đổi quyền sở hữu đối với
lượng giá trị đó.
Thứ hai, tính hoàn trả. Lượng vốn được chuyển nhượng phải được hoàn trả
đúng hạn cả về thời gian và về giá trị bao gồm hai bộ phận: gốc và lãi. Phần lãi
đảm bảo cho lượng giá trị hoàn trả lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Sự chênh lệch
này là giá trả cho quyền sử dụng vốn tạm thời. Nói cách khác, nó là giá trả cho sự
hy sinh quyền sử dụng vốn hiện tại của người sở hữu vì thế nó phải đủ hấp dẫn để
người sở hữu có thể sẵn sàng hy sinh quyền sử dụng đó.
Thứ ba, quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa người cho vay và
người đi vay. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ tín dụng.
Người cho vay tin tưởng rằng vốn sẽ được hoàn trả đầy đủ khi đến hạn. Người đi
vay cũng tin tưởng vảo khả năng phát huy hiệu quả của vốn vay. Sự gặp gỡ giữa
người đi vay và người cho vay về điểm này sẽ là điều kiện hình thành quan hệ tín

dụng. Cơ sở của sự tin tưởng này có thể do uy tín của người đi vay, do giá trị tài
sản thế chấp hoặc do sự bảo lãnh của người thứ ba.
2.Vai trò của tín dụng:
a)Vai trò của tín dụng đối với ngân
hàng:
Tín dụng là hoạt động lớn nhất và có
vai trò quan trọng nhất của ngân hàng.
Đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín
dụng thường chiếm lớn hơn 1/2 tổng tài
sản có và thu nhập từ hoạt động tín dụng
chiếm khoảng từ 1/2 đến 2/3 tổng thu
nhập của ngân hàng. Vì vậy có thể coi
hoạt động tín dụng là dòng “huyết
mạch” chính nuôi sống ngân hàng.
b)Vai trò của tín dụng đối với khách
hàng:
* Khách hàng là doanh nghiêp.
Tín dụng ngân hàng là vốn quan trọng của Doanh nghiệp
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 5 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
Các nguồn vốn của doanh nghiệp chủ yếu bao gồm ba loại: Nguồn từ ngân
sách nhà nước (các doanh nghiệp nhà nước), nguồn tự có dưới dạng các quỹ,
nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng. Nguồn vốn tự có và nguồn vốn ngân sách nhà
nước lại có giới hạn nên vốn từ ngân hàng là cứu cánh cho doanh nghiệp.
Thông qua tín dụng của ngân hàng, doanh nghiệp có thêm vốn để đầu tư đổi
mới máy móc công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng xuất lao động.
Đó là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng có vai trò nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Các doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường thì phải tìm mọi cách để

hạ giá thành nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm đồng thời phải không ngừng
cải tiến quy cách mẫu mã hàng hóa. Muốn làm được điều này cách tốt nhất là
thường xuyên áp dụng khoa học công nghệ, máy móc hiện đại vào trong sản xuất.
Nhưng công nghệ máy móc sản xuất hiện đại phải cần một lượng vốn rất lớn mới
có thể mua được mà lượng vốn tự có của doanh nghiệp thường nhỏ nên doanh
nghiệp cần có sự tài trợ vốn từ phía ngân hàng thông qua các khoản tín dụng mà
ngân hàng cho doanh nghiệp vay. Vì vậy mà tín dụng ngân hàng góp phần nâng
cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng giúp cho doanh nghiệp biết sử dụng vốn hiệu quả hơn.
Các nguồn vốn tín dụng được cung cấp cho khách hàng luôn kèm theo các
điều kiện tín dụng để hạn chế rủi ro tín dụng và rủi ro lựa chọn đối nghịch buộc
các Doanh nghiệp đi vay phải quan tâm thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm
bảo mối quan hệ lâu dài với khách hàng.
*Khách hàng là cá nhân, hộ gia đình:
Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao đời sống của người dân. Nếu như
trước đây những người dân phải mất cả đời mới xây dựng nhà để ở hoặc mất nhiều
năm mới có thể mua sắm được nội thất như tivi, tủ lạnh, máy giặt Nhưng bây giờ
chỉ cần một công việc ổn định thì cá nhân có thể đến ngân hàng đề nghị ngân hàng
cấp một khoản vay tiêu dùng để mua sắm nội thất hoặc mua nhà, sản xuất kinh
doanh
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 6 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
c)Vai trò của tín dụng ngân hàng đối
với nền kinh tế, xã hội:
* Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tái tạo sản xuất xã hội:
Tín dụng cung ứng vốn một cách kịp thời cho các nhu cầu sản xuất và tiêu
dùng của các doanh nghiệp, cá nhân. Nhờ đó mà các chủ thể này có thể đẩy nhanh
tốc độ sản xuất cũng như tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả các hình thức tín dụng sẽ tạo sự chủ
động cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh khi

đó nó không phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tự có của bản thân. Điều này
giúp cho các nhà sản xuất tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng
lực sản xuất của xã hội.
* Tín dụng là kênh chuyển tải tác động của nhà nước đến các mục tiêu vĩ mô:
Các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế bao gồm ổn định giá cả, tăng trưởng
kinh tế và tạo công ăn việc làm. Việc đảm bảo đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô hài
hòa phụ thuộc một phần vào khối lượng và cơ cấu tín dụng xét cả về mặt thời hạn
cũng như đối tượng tín dụng. Vấn đề này đến lượt nó lại phụ thuộc vào các điều
kiện tín dụng như lãi suất, điều kiện vay, yêu cầu thế chấp bảo lãnh và chủ trương
mở rộng tín dụng được quy định trong chính sách tín dụng từng thời kỳ. Như vậy
thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện tín dụng, nhà nước có thể thay
đổi quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận động của nguồn tín dụng, nhờ đó mà
ảnh hưởng đến tổng cầu của nền kinh tế cả về quy mô cũng như kết cấu. Sự thay
đổi của tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ tác động ngược lại tới
tổng cung và các điều kiện sản xuất khác. Điểm cân bằng cuối cùng giữa tổng
cung và tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ cho phép đạt được các
mục tiêu vĩ mô cần thiết.
* Tín dụng là công cụ thực hiện các chính sách xã hội:
Các chính sách xã hội, về mặt bản chất được đáp ứng nguồn tài trợ không
hoàn lại từ ngân sách nhà nước. Song phương thức tài trợ không hoàn lại thường
bị hạn chế về quy mô và thiếu hiệu quả. Để khắc phục hạn chế này, phương thức
tài trợ không hoàn lại có xu hướng bị thay thế bởi phương thức tài trợ có hoàn lại
của tín dụng nhằm duy trì nguồn cung cấp tài chính và có điều kiện mở rộng quy
mô tín dụng chính sách. Chẳng hạn việc tài trợ vốn cho người nghèo ngày nay
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 7 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
được thực hiện phổ biến bằng tín dụng đối với người nghèo với lãi suất thấp.
Thông qua phương thức tài trợ này, các mục tiêu chính sách được đáp ứng một
cách chủ động và hiệu quả hơn. Khi các đối tượng chính sách buộc phải quan tâm
đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo hoàn trả đúng thời hạn thì kỹ năng lao động

của họ cũng sẽ được cải thiện từng bước. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho sự ổn
định tài chính của các đối tượng chính sách và từng bước làm cho họ có thể tồn tại
độc lập với nguồn tài trợ. Đó chính là mục đích của việc sử dụng phương thức tài
trợ các mục tiêu chính sách bằng con đường tín dụng.
II.Lý luận cơ bản về RRTD trong hoạt động kinh doanh của NHTM:
1.Khái niệm RRTD, đặc điểm:
Trong kinh doanh lợi nhuận và rủi ro luôn song hành với nhau, lợi nhuận
càng cao thì rủi ro càng lớn. Ta thấy rằng đối với hầu hết các ngân hàng hoạt động
tín dụng là hoạt động lớn nhất và quan trọng nhất, nó đem lại thu nhập chủ yếu
cho ngân hàng song rủi ro trong hoạt động tín dụng xảy đến với các ngân hàng
không phải là nhỏ. Vậy để có thể tìm hiểu, phân tích về rủi ro tín dụng trước tiên ta
phải hiểu được rủi ro tín dụng là gì? Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN (Điều
2, chương 1) ta đưa ra định nghĩa về rủi ro tín dụng như sau: Rủi ro tín dụng là
khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết.
2.Dấu hiệu nhận biết:
STT Các biểu hiện của tín
dụng có vấn đề
Các biểu hiện của chính sách
tín dụng kém hiệu quả
1 Trả nợ vay không đúng kì
hạn hoặc thất thường
Sự lựa chọn khách hàng không
đúng với cấp độ rủi ro của họ
2 Thường xuyên sửa đổi thời
hạn xin gia hạn tín dụng
Chính sách cho vay phụ thuộc
vào những sự kiện có thể xảy ra
trong tương lại (VD sự hợp nhất)

3 Có hồ sơ đảo nợ Cho vay trên cơ sở lời hứa cho
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 8 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
khách hàng duy trì số dư tiền gửi
lớn
4 Lãi suất tín dụng cao không
bình thường (Để bù đắp rủi
ro tín dụng)
Thiếu kế hoạch rõ ràng để thanh
lý từng khoản tín dụng
5 Tài khoản phải thu hay hàng
tồn kho tăng không bình
thường
Tỉ lệ tín dụng cao cho khách
hàng có trụ sở ngoài lãnh địa
hoạt động của ngân hàng
6 Tỉ lệ nợ / Vốn chủ sở hữu
tăng ( Hệ số đòn bẩy tăng)
Hồ sơ tín dụng không đầy đủ,
thiếu sót và không đồng bộ.
7 Thất lạc hồ sơ đặc biệt là
các báo cáo tài chính của
khách hàng
Tỉ lệ cho vay nội bộ cao (Cán bộ
công nhân viên, hội đồng quản
trị, ban giám đốc, cổ đông)
8 Chất lượng đảm bảo tín
dụng thấp
Có xu hướng quá thái trong cạnh
tranh (Cấp tín dụng xấu để giữ

chân khách hàng)
9 Tin vào đánh giá lại tài sản
để tăng vốn chủ sở hữu của
khách hàng
Cho vay hỗ trợ các mục đích đầu

10 Thiếu báo cáo lưu chuyển
tiền tệ hay dự báo luồng tiền
Không nhạy cảm với sự thay đổi
các điều kiện môi trường kinh tế
11 Khách hàng dựa vào nguồn
thu nhập bất thường để trả
nợ
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 9 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
3. Nguyên nhân:
a)Nguyên nhân khách quan:
* Môi trường chính trị, luật pháp:
Sự ổn định hay bất ổn định của chính trị sẽ quyết định rủi ro tín dụng ít hay
nhiều. Thật vậy, nếu một quốc gia có nền chính trị không ổn định, thường xuyên
có các cuộc bạo động, khủng bố xảy ra thì việc kinh doanh, đầu tư của các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư sẽ gặp phải khó khăn, họ thường xuyên làm ăn thua lỗ và
do đó không có tiền để trả nợ vay ngân hàng, rủi ro tín dụng xảy ra với ngân hàng.
Hệ thống pháp luật không đồng bộ, không thống nhất cũng là nguyên nhân
rủi ro tín dụng. Sự chồng chéo giữa luật dân sự và luật các tổ chức tín dụng dẫn
đến việc khi có tranh chấp xảy ra giữa ngân hàng và các chủ thể vay vốn sẽ không
biết giải quyết theo luật nào.
* Môi trường kinh tế:
Ta xem xét về chính sách tiền tệ, chu kỳ kinh tế, tỷ giá hối đoái, lạm phát,
chính sách lãi suất Đây là các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. Chẳng hạn,

khi NHTW muốn thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thì NHTW sẽ nới rộng các
điều kiện cấp tín dụng cho khách hàng của các NHTM. Các khách hàng sẽ được
vay vốn ở ngân hàng nhiều hơn, dễ dàng hơn vì vậy mà rủi ro tín dụng xảy đến với
ngân hàng nhiều hơn.
Chu kỳ kinh tế: Sự phát triển của kinh tế thường diễn ra theo chu kì: hưng
thịnh– suy thoái - khủng hoảng – phát triển – hưng thịnh Trong thời kì phát triển
và hưng thịnh, hoạt động kinh doanh thuận lợi, do đó hoạt động tín dụng khá an
toàn. Còn trong thời kì khủng hoảng, suy thoái, sản xuất đình trệ nên các các
khoản tín dụng gặp rủi ro gia tăng.
Sự biến động của tỷ giá hối đoái cũng là nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín
dụng. Chẳng hạn khi khách hàng vay ngoại tệ để thanh toán tiền hàng nhập khẩu,
đến thời hạn trả nợ cho ngân hàng đồng ngoại tệ đó lên giá mạnh, tất cả số tiền mà
khách hàng thu được từ việc bán số hàng nhập khẩu đó cũng không đủ để trả nợ
cho ngân hàng nên khách hàng đã không trả nợ đúng hạn. Chính sự biến động của
tỷ giá làm cho nhà kinh doanh gặp phải rủi ro và dẫn đến rủi ro tín dụng xảy đến
với ngân hàng.
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 10 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
* Môi trường công nghệ:
Khoa học công nghệ phát triển mạnh như vũ bão, sự ra đời của công nghệ
mới đánh bại và thay thế hoàn toàn công nghệ cũ. Sự phát triển của khoa học công
nghệ vừa là thuận lợi nhưng cũng là khó khăn cho các doanh nghiệp, bởi vì nếu
doanh nghiệp có đủ tiềm lực tài chính để nhập máy móc hiện đại về thì việc sản
xuất kinh doanh sẽ rất thuận lợi, hàng hóa tiêu thụ nhanh, thu được lợi nhuận cao.
Nhưng ngược lại, nếu doanh nghiệp không có đủ tiềm lực tài chính để nhập máy
móc hiện đại, thêm vào đó máy móc mà doanh nghiệp đang sử dụng trong sản xuất
được mua bằng nguồn vốn vay của ngân hàng, máy móc vẫn chưa khấu hao hết thì
việc sản xuất của doanh nghiệp vô cùng khó khăn vì hàng hóa sản xuất ra không
tiêu thụ được do trên thị trường đã xuất hiện nhiều mặt hàng mới mẫu mã đẹp,
chất lượng tốt được sản xuất theo công nghệ hiện đại. Việc sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp gặp khó khăn, doanh nghiệp sẽ không có tiền để trả nợ khoản
vay dùng để mua máy móc cho ngân hàng, rủi ro tín dụng xảy đến với ngân hàng.
* Nguyên nhân bất khả kháng:
Như thiên tai, bão lụt, hạn hán, động đất, núi lửa Những hiện tượng như
vậy ngày nay đã trở nên phổ biến ở nhiều nước. Thực tế những hiện tượng này xảy
ra trong ngắn hạn nhưng để lại hậu quả rất nặng nề. Nó làm cho các nhà đầu tư,
các doanh nghiệp, các hộ sản xuất mất một phần hoặc toàn bộ số vốn đầu tư. Và
nếu như các dự án của họ bị thất bại thì họ cũng không thể trả được nợ vay của
ngân hàng .
b)Nguyên nhân từ phía khách hàng:
* Khách hàng là cá nhân:
Tất cả những biến cố bất thường nào xảy đến với cá nhân đều có thể gây ra
rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Chẳng hạn: họ bị mất việc làm nên sẽ không có
khoản thu nhập ổn định để có thể trả nợ vay cho ngân hàng hoặc khách hàng bị ốm
đau, tai nạn tất cả những biến cố này có thể khiến khách hàng không thể trả nợ
cho ngân hàng.
Ngoài những biến cố trên còn phải kể đến một nguyên nhân rất quan trọng
mà khiến ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng đó là rủi ro đạo đức, khách hàng sử
dụng tiền vay không đúng mục đích, cố ý không trả nợ cho ngân hàng.
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 11 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
* Khách hàng là doanh nghiệp:
-Rủi ro trong kinh doanh:
Thiệt hại của thị trường cung cấp như: Giá nguyên vật liệu tăng ngoài dự
kiến làm tăng phí sản xuất ngoài dự kiến. Nếu doanh nghiệp tăng giá bán thì hàng
hóa khó tiêu thụ dẫn đến ứ đọng vốn. Nếu doanh nghiệp giữ nguyên giá thì lợi
nhuận giảm hoặc bị thua lỗ, gây thiệt hại về tài chính, không trả được nợ cho ngân
hàng. Hoặc nguyên vật liệu cung cấp không đảm bảo quy cách phẩm chất làm chất
lượng sản phẩm giảm dẫn đến khó khăn trong tiêu thụ, có thể làm tăng chi phí nếu
gia công lại hoặc tăng phế liệu. Thứ ba, không đủ số lượng nguyên vật liệu, không

đảm bảo thời gian cung cấp khiến doanh nghiệp phải sản xuất dưới quy mô công
suất nên số lượng sản phẩm sản xuất ra giảm, tăng chi phí cố định bình quân cho
một đơn vị sản phẩm, tăng giá thành sản phẩm. Hoặc khi không có đủ nguyên liệu
để sản suất sẽ không sản xuất đủ hàng để giao cho khách như đã thỏa thuận sẽ làm
giảm uy tín của doanh nghiệp và còn bị phạt về kinh tế.
Thiệt hại từ thị trường tiêu thụ: Do không nghiên cứu kỹ về thị trường tiêu
thụ mà số lượng sản phẩm của doanh nghiệp cung ứng lớn hơn nhu cầu của thị
trường hoặc chất lượng sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của khách
hàng nên sản phẩm không tiêu thụ được gây ứ đọng vốn.Sự suy giảm chất lượng
quản lý: Sự thay đổi đội ngũ chủ chốt trong doanh nghiệp làm cho bộ máy hoạt
động của doanh nghiệp không đồng bộ, hiệu quả sản xuất không cao, giảm số
lượng sản phẩm sản xuất ra hoặc chất lượng sản phẩm giảm sút và do đó doanh
nghiệp không đạt được lợi nhuận dự kiến hoặc tồi tệ hơn bị thua lỗ. Khi doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ sẽ không có tiền trả nợ cho ngân hàng, ngân hàng gặp phải
rủi ro tín dụng.
- Rủi ro tài chính:
Do cơ cấu vốn bất hợp lý thể hiện: Tỷ lệ nợ trên tổng nguồn vốn cao hoặc
sử dụng nợ ngắn hạn vào các mục đích dài hạn như mua sắm tài sản cố định
Doanh ngiệp bị chiếm dụng vốn trong thời gian kéo dài: Ví dụ như ngành
xây dựng cơ bản
c)Nguyên nhân từ phía ngân hàng:
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 12 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
- Chính sách tín dụng không hợp lý: Ta thấy mục tiêu tín dụng gồm an toàn,
lợi nhuận, lành mạnh và phải phù hợp với quy định của pháp luật. Một chính sách
tín dụng hợp lý phải kết hợp hài hòa các mục tiêu chứ không quá tập trung vào
một mục tiêu nào. Nếu chính sách tín dụng của ngân hàng không hợp lý, chẳng
hạn như ngân hàng quá chú trọng đến lợi nhuận, nới lỏng các điều kiện cho vay
thì sự an toàn của tín dụng sẽ không được đảm bảo.
- Ngân hàng không phân tích, đánh giá được khách hàng một cách đầy đủ

trước khi cho vay đồng thời không giám sát được việc sử dụng vốn vay một cách
chặt chẽ sau khi đã giải ngân cho khách hàng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này
có thể do: Các NHTM chưa chú trọng, quan tâm đúng mức đến công tác thông tin
phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cho vay. Sự hợp tác giữa NHTM và trung tâm
thông tin tín dụng (CIC) chưa đồng bộ và chưa đạt hiệu quả cao. Ngân hàng thiếu
thông tin hoặc thông tin không chính xác kịp thời để đánh giá vai trò, vị trí của
doanh nghiệp trong ngành, khả năng thị trường hiện tại và tương lai, do đó quyết
định cho vay thiếu chính xác. Hơn nữa, ngân hàng không giám sát được khách
hàng về việc sử dụng khoản vay có đúng mục đích hay không. Việc ngân hàng
không giám sát được khoản vay một phần là do ngân hàng chưa chú trọng phát
triển tốt đội ngũ nhân viên tìm hiểu thị trường, phần còn lại là do tính minh bạch
trong hoạt động của các công ty vẫn là một vấn đề nan giải ở Việt Nam.
-Việc thiết kế sản phẩm tín dụng của ngân hàng không phù hợp thể hiện: xác
định mức cho vay, hạn mức tín dụng, thời hạn cho vay không chính xác dẫn đến
rủi ro tín dụng.
-Mức độ tập trung tín dụng cao: Tức là ngân hàng tập trung vào một lĩnh
vực vào doanh nghiệp vượt quá mức quy định nên khi có rủi ro xảy đến ở lĩnh vực
kinh doanh hoặc doanh nghiệp đó thì ngân hàng cũng sẽ bị thiệt hại nặng nề.
-Ngân hàng không thực hiện tốt bảo đảm tín dụng: Không đăng kí giao dịch
bảo đảm, việc quản lý tài sản bảo đảm lỏng lẻo để thất thoát tài sản, giảm giá trị tài
sản bảo đảm, không đánh giá đúng về giá trị tài sản bảo đảm dẫn đến cho vay vượt
quá giá trị tài sản bảo đảm
- Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức: Một số cán bộ tín dụng không cưỡng lại
được sự cám dỗ của đồng tiền nên đã nhận tiền hối lộ của khách hàng thẩm định
hồ sơ vay vốn qua quýt, cấp tín dụng bừa bãi, thông đồng với khách hàng để lừa
đảo tiền của nhà nước.
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 13 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
d)Nguyên nhân từ phía bảo đảm tín
dụng:

- Bảo đảm bằng tài sản: Tài sản bảo đảm bị suy giảm giá trị do giá cả thị
trường biến động theo chiều hướng giảm (bất động sản), do bản thân tài sản trong
quá trình sử dụng bị hư hỏng, hao mòn lớn hơn dự kiến.Do mức cho vay áp dụng
không chính xác (cao hơn nhiều so với khả năng thu hồi). Do tính chuyển hóa tài
sản thành tiền mặt thấp. Ngoài ra ngân hàng còn có thể gặp khó khăn trong việc
tiếp cận, nắm giữ và xử lý tài sản đảm bảo, đôi khi tại thời điểm xem xét không
biết nó có tranh chấp pháp lý hay không.
-Bảo lãnh rủi ro có thể từ phía người bảo lãnh gặp sự cố bất ngờ như tai nạn,
ốm đau hoặc do người bảo lãnh cố tình không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Rủi ro tín dụng với nhiều nguyên nhân gây ra là đa đạng và đa chiều nên
cán bộ tín dụng cần tìm hiểu rõ nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp để từ đó có
hướng giải quyết phù hợp.
4. Hậu quả:
Rủi ro tín dụng gây ra những tác hại vô cùng nghiêm trọng không chỉ với hệ
thống ngân hàng, với người vay mà còn cả nền kinh tế và xã hội.
a.Đối với với ngân hàng:
Ngân hàng là đối tượng trực tiếp chịu ảnh hưởng của rủi ro tín dụng. Thiệt
hại đầu tiên mà ngân hàng phải gánh chịu là sự tổn thất về tài chính, khách hàng
không trả được nợ ngoài khoản tiền thu được từ việc phát mại các tài sản thế chấp
của khách hàng, ngân hàng phải lấy từ quỹ dự phòng rủi ro của mình để bù đắp
vào khoản tín dụng bị mất ở một chừng mực nhất định, rủi ro tín dụng làm ảnh
hưởng đến uy tín của ngân hàng, xói mòn niềm tin vào sự lành mạnh của hệ thống
ngân hàng. Vượt qua giới hạn đó, việc rút tiền ồ ạt của khách hàng dẫn đến rủi ro
thanh khoản, có thể đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản và đe dọa sự ổn định của
toàn hệ thống ngân hàng.
b.Đối với người đi vay:
Khi người đi vay không thưc hiện được nghĩa vụ trả nợ theo đúng như hợp
đồng tín dụng thì từ thời điểm đó họ sẽ phải chịu sự giám sát chặt chẽ, khắt khe từ
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 14 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng

ngân hàng. Uy tín của người đi vay bị giảm sút sẽ rất khó khăn để vay một khoản
vay mới ở chính ngân hàng đó cũng như các ngân hàng khác và như vậy càng khó
khăn cho người đi vay. Và khi uy tín bị giảm sút thì họ lại càng khó khăn trong
việc kinh doanh vì các đối tác làm ăn sẽ không tin tưởng vào khả năng thực hiện
các đơn đặt hàng, các hợp đồng kinh tế của họ như vậy có thể đẩy họ đến bờ vực
phá sản.
c.Đối với nền kinh tế xã hội:
Khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình tưởng
chừng chỉ gây thiệt hại cho ngân hàng nhưng thực chất nó gây thiệt hại cho cả nền
kinh tế xã hội bởi vì khoản tín dụng mà ngân hàng cấp người đi vay đã không
được sử dụng hiệu quả do đó lợi ích kinh tế, xã hội dự kiến nhận đựơc sẽ không
còn nữa. Quyền lợi của người gửi tiền sẽ không được đảm bảo, ảnh hưởng xấu tới
tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế, người lao động mất việc làm, phá vỡ
các kế hoạch kinh tế xã hội của nhà nước
Như chúng ta đã biết một trong những nguyên nhân gây ra và làm trầm
trọng thêm cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997 là sự kinh doanh
thua lỗ của phần lớn các ngân hàng trong khu vực. Sự thua lỗ này chủ yếu là do
hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng kém hiệu quả, rủi ro tín dụng ở mức
cao, các khoản nợ quá hạn tăng cao làm ứ đọng lượng vốn trong nền kinh tế, cản
trở sự tăng trưởng kinh tế.
Các tác động trong ngành ngân hàng thường mang tính dây truyền do đó
nếu một ngân hàng có rủi ro tín dụng quá lớn có thể dẫn đến phá sản, kéo theo tình
trạng khó khăn, khủng hoảng ở các ngân hàng khác, gây mất ổn định thị trường tài
chính tiền tệ, làm cho giá trị đồng nội tệ không ổn định, gây biến động tỷ giá. Kết
quả là gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cũng như đời sống
nhân dân. Hậu quả cuối cùng có thể dẫn đến khủng hoảng trong đời sống chính trị
xã hội.
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 15 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
Tóm lại, rủi ro tín dụng không những tác hại đối với ngân hàng mà còn tác

hại đối với cả nền kinh tế, trật tự xã hội, không chỉ nguy hại trong phạm vi một
quốc gia mà còn có thể ảnh hưởng đến nhiều nước. Do đó, quan tâm tới việc hạn
chế rủi ro tín dụng không chỉ là việc riêng của các ngân hàng thương mại mà còn
là việc cần phải quan tâm của NHTW, Chính phủ và xã hội.
5.Biện pháp phòng ngừa và hạn chế RRTD:
a.Đo lường rủi ro tín dụng của một danh mục tín dụng:
. Tỷ lệ nợ quá hạn =
Để hiểu được ý nghĩa của tỷ lệ này thì ta phải hiểu được thế nào là nợ quá
hạn. Theo quyết định 493/2005/QD-NHNN ta có thể đưa ra định nghĩa về nợ quá
hạn: Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hay toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá
hạn. Cụ thể hơn ta có thể dựa vào điều 6 chương 2 trong quy định 493 để có thể
xác định được nợ quá hạn. Nội dung của Điều 6 như sau:
Khoản 1: Tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ
* Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi
đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2, điều
này.
* Nhóm 2: Nợ cần chú ý bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại khoản 3 điều
này và khoản 4 điều này.
* Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm:
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 16 -
Dư nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ

cấu lại.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 3 và
khoản 4 điều này.
* Nhóm 4: Nợ nghi ngờ bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày theo thời hạn
đã cơ cấu lại.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3 và 4
điều này.
* Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
- Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn
đã được cơ cấu lại.
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 và 4
điều này.
Khoản 2: Trường hợp khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi suất theo kỳ hạn
đã được cơ cấu lại tối thiểu trong vòng 1 năm đối với các khoản nợ trung và dài
hạn, 3 tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và được tổ chức tín dụng đánh giá là
có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại, tổ
chức tín dụng có thể phân loại lại khoản nợ đó vào nhóm 1.
Khoản 3: Trường hợp khách hàng có nhiều hơn 1 khoản nợ đối với tổ chức
tín dụng mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì tổ chức
tín dụng bắt buộc phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm
nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 17 -
Dư nợ xấu
Tổng dư nợ
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
Khoản 4: Trường hợp các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và các

khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn đã cơ cấu lại) mà tổ
chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy
giảm thì tổ chức tín dụng chủ động tự quyết định phân loại các khoản nợ đó vào
các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.
Từ nội dung của Điều 6 ta có thể xác định cụ thể được nợ quá hạn bao gồm:
nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4 và nhóm 5.
Ngân hàng nào có tỷ lệ nợ quá hạn cao thì rủi ro lớn vì tỷ trọng khách hàng
gặp khó khăn trong việc trả nợ cao.
Tỷ lệ nợ quá hạn cao cũng đồng nghĩa với việc chi phí của ngân hàng tăng
lên: Chi phí thực tế và chi phí cơ hội đều tăng lên. Với một khoản nợ tốt, ngân
hàng sẽ dễ dàng thu được nợ và tiếp tục thực hiện những khoản cho vay mới
nhưng với một khoản tín dụng có nguy cơ rủi ro như khách hàng chậm trả nợ lãi,
gốc hoặc tình hình kinh doanh của khách hàng không tốt thì ngân hàng lại phải
tốn thêm chi phí giám sát với khoản vay, chi phí xử lý tài sản bảo đảm, chi phí
pháp lý và do đó sẽ làm tăng chi phí thực tế của ngân hàng. Với một khoản vay
không tốt thì các cán bộ ngân hàng dồn toàn bộ tâm trí vào việc đòi nợ mà ngại
cho vay mới và ít có thời gian tìm các đối tác mới vì thế làm tăng chi phí cơ hội
của ngân hàng.
Tỷ lệ nợ xấu =
Theo quyết định 493 ta có thể đưa ra định nghĩa về nợ xấu và cách xác định
nợ xấu như sau:
Nợ xấu: là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 quy định tại điều 6 hoặc
điều 7 quy định này.
Tỷ lệ nợ xấu cũng là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ
chức tín dụng. Nếu tỷ lệ này cao thì rủi ro tín dụng cao vì đây là những khách hàng
có dấu hiệu khó khăn về tài chính nên khó trả nợ cho ngân hàng.
Tỷ lệ mất
Dư nợ mất
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 18 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng

vốn =
vốn
Tổng dư nợ
Dư nợ mất vốn chính là các khoản nợ thuộc nhóm 5.
Tỷ lệ này càng cao thì thiệt hại cho ngân hàng càng lớn vì nó phản ánh
những khoản tín dụng mà ngân hàng bị mất và phải dùng quỹ dự phòng bù đắp.
Tỷ lệ dự phòng rủi ro đã
trích lập =
Dự phòng rủi ro đã
trích
Tổng dư nợ
Cũng theo quyết định 493. Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm
nợ như sau:
- Nhóm 1: 0%
- Nhóm 2: 5%
- Nhóm 3: 20%
- Nhóm 4: 50%
- Nhóm 5: 100%
Số tiền dự phòng cụ thể phải được tính theo công thức sau:
R = max{0,(A - C)} x r
Trong đó:
R – Số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A – Giá trị của khoản nợ
C – Giá trị của tài sản bảo đảm
r – Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể.
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 19 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
Dự phòng chung: Tổ chức tín dụng thực hiện trích lập và duy trì dự phòng
chung bằng 0,75% tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 quy định
tại Điều 6 hoặc điều 7 quy định này.

Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ rủi ro càng cao vì dự phòng trích lập nhiều sẽ
làm tăng chi phí của ngân hàng dẫn đến giảm lợi nhuận thậm chí gây thua lỗ cho
ngân hàng.
b.Các mô hình lượng hoá rủi ro tín dụng:
Hai mươi năm trở về trước, hầu hết các ngân hàng chỉ dựa duy nhất vào
phương pháp truyền thống (định tính) để đánh giá rủi ro tín dụng người vay.
Phương pháp truyền thống này tỏ ra vừa mất thời gian, tốn kém lại mang tính chủ
quan, chính vì vậy, ngân hàng không ngừng cải tiến phương pháp đánh giá khách
hàng để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng khi cấp tín dụng cho
công ty vẫn tiếp tục sử dụng phương pháp truyền thống để đánh giá rủi ro tín
dụng.
Ngày nay, một số ngân hàng đã sử dụng mô hình cho điểm để lượng hóa rủi
ro tín dụng người vay. Mô hình cho điểm tín dụng có ưu điểm so với phương pháp
truyền thống ở chỗ là, nó cho phép xử lý nhanh chóng 1 số lượng lớn các đơn xin
vay, với chi phí thấp, khách quan, do đó góp phần tích cực trong việc kiểm soát rủi
ro tín dụng ngân hàng. Các mô hình cho điểm tín dụng sử dụng các số liệu phản
ánh những đặc điểm của người vay để lượng hóa xác suất vỡ nợ cũng như phân
loại người vay thành các nhóm có mức độ rủi ro khác nhau. Để sử dụng các mô
hình này, nhà quản lý phải xác định được các tiêu chí về kinh tế và tài chính liên
quan đến rủi ro tín dụng đối với từng nhóm khách hàng cụ thể. Đối với tín dụng
tiêu dùng, các tiêu chí đó có thể là thu nhập, tài sản, tuổi tác, giới tính, nghề
nghiệp Đối với tín dụng công ty, thì các chỉ tiêu tài chính thường là các chỉ tiêu
chủ yếu. Sau khi các tiêu chí đã được xác định, kỹ thuật thống kê sẽ được sử dụng
để lượng hóa xác suất rủi ro tín dụng hoặc để phân hạng rủi ro tín dụng.
Sau đây, chúng ta sẽ tiếp cận với một số mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng
cơ bản thường sử dụng nhất.
*Mô hình phân biệt tuyến tính (mô hình điểm số Z của Đại lượng Z là
thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc
vào:
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 20 -

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
-Trị số của các chỉ số tài chính của người vay (Xj).
-Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người vay trong quá khứ.
Từ đó, Altman đi đến mô hình cho điểm như sau:
Z = 1,2X
1
+ 1,4X
2
+ 3,3X
3
+ 0,6X
4
+ 0,99X
5
Trong đó:
X
1
: Tỷ số “vốn lưu động ròng/ tổng tài sản”.
X
2
: Tỷ số “lợi nhuận giữ lại/ tổng tài sản”.
X
3
: Tỷ số “lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/ tổng tài sản”
X
4
: Tỷ số “thị giá cổ phiếu/ giá trị ghi sổ của nợ dài hạn”.
X
5

: Tỷ số “doanh thu/ tổng tài sản”.
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi
trị số Z thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm có nguy
cơ vỡ nợ cao.
Giả sử, một khách hàng tiềm năng có các chỉ số tài chính là: X
1
= 0; X
2
= 0;
X
3
= -0,02, X
4
= 0,10; X
5
= 2,0. Chỉ số X
2
bằng 0 và chỉ số X
3
là một số âm nói lên
rằng khách hàng bị thua lỗ trong kỳ báo cáo, còn chỉ số X
4
bằng 10% nói lên rằng
khách hàng có tỷ số “ nợ/ vốn chủ sở hữu” cao. Tuy nhiên, tỷ số “ vốn ròng/ trên
tổng tài sản” (X
1
) và tỷ số “ doanh thu/ tổng tài sản ” (X
5
) lại cao, nên phải phản
ánh khả năng thanh khoản và duy trì doanh số bán hàng là tốt. Từ số liệu đã cho ta

tính được điểm số Z của khách hàng là 1,64.
Theo mô hình của điểm Z của Altman, bất cứ các công ty nào có điểm số Z
thấp hơn 1,8 được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao. Căn cứ vào kết
luận này, ngân hàng sẽ không cấp tín dụng cho khách hàng này cho đến khi cải
thiện được điểm số Z lớn hơn 1,8.
Bên cạnh những ưu điểm thì mô hình điểm số tín dụng có những hạn chế
sau:
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 21 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
-Mô hình này chỉ cho phép phân biệt khách hàng thành 2 nhóm là “ vỡ nợ”
và “ không vỡ nợ”. Trong thực tế, vỡ nợ được phân thành nhiều loại, từ không trả
hay chậm trễ trong việc trả lãi tiền vay, đến việc không hoàn trả nợ gốc và lãi tiền
vay. Điều này hàm ý, cần có một mô hình cho điểm chính xác hơn, toàn diện hơn
theo nhiều thang điểm để phân loại khách hàng thành nhiều nhóm tương ứng với
các mức vỡ nợ khác nhau.
-Không có lý do rõ ràng để giải thích sự bất biến về tầm quan trọng của các
biến số theo thời gian, dù là trong ngắn hạn. Tương tự như vậy, các biến số (X
j
)
cũng không phải là bất biến, đặc biệt là khi điều kiện thị trường và kinh doanh
thường xuyên thay đổi. Ngoài ra, mô hình cũng giả thiết rằng các biến số X
j

hoàn toàn độc lập không phụ thuộc lẫn nhau.
-Đã không tính tới nhân tố quan trọng nhưng khó lượng hóa,nhưng lại ảnh
hưởng đáng kể đến mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng. Ví dụ, yếu tố “danh
tiếng” của khách hàng, yếu tố “mối quan hệ truyền thống” giữa khách hàng và
ngân hàng, hay yếu tố vĩ mô như chu kỳ kinh tế, chu kỳ kinh doanh. Nhìn chung,
các nhân tố này thường không được đề cập trong mô hình ghi điểm tín dụng Z.
Mặt khác, mô hình cho điểm thường không sử dụng các thông tin đại chúng có

sẵn, như giá cả thị trường của các tài sản tài chính
*Mô hình xác suất tuyến tính:
Mô hình này sử dụng các số liệu thông kê trong quá khứ để giải thích quá
khứ trả nợ của khách hàng vay. Mức độ quan trọng của từng yếu tố trong mô hình
sẽ được sử dụng để dự đoán xác suất rủi ro tín dụng của từng khoản vay.
Cách thực hiện:
-Tiến hành lựa chọn các tiêu thức phản ánh đặc điểm của khách hàng vay,
liên quan đến khả năng trả nợ như: tỉ suất lợi nhuận sau thuế/ vốn chủ sở hữu
(ROE), hệ số thanh toán, hệ số nợ
-Phân chia các khoản nợ cũ thành 2 nhóm:
Nhóm 1: Nhóm có rủi ro mất vốn z
i
= 1.
Nhóm 2: Nhóm không có rủi ro mất vốn z
i
= 0.
Thiết lập mối quan hệ của các khoản vay đó với các tiêu thức đó đã lựa
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 22 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
chọn theo mô hình hồi quy sau:
n, m
Z
i
= ∑ B
j
X
ij
Trong đó:
X
i,j

: là các giá trị ROE, hệ số nợ
B
j
: phản ánh mức độ quan trọng của từng tiêu thức đến mức rủi ro của
khoản vay ( bằng việc sử dụng mô hình ta tính được hệ số B
j
).
-Nhân hệ số B
j
với tiêu thức của khách hàng mới (khoản vay mới) ta tính
được Z
i
là xác suất rủi ro của khoản vay đó.
*Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng:
Ngày nay, nhiều ngân hàng sử dụng phương pháp cho điểm để xử lý các
đơn xin vay của người tiêu dùng. Thực tế, nhiều tổ chức thẻ tín dụng đã sử dụng
mô hình điểm số để xử lý số lượng đơn yêu cầu ngày một gia tăng, những ngân
hàng cũng sử dụng mô hình này để đánh giá những khoản tín dụng mua sắm xe
hơi, trang thiết bị gia đình, bất động sản và kinh doanh nhỏ. Nhiều khách hàng yêu
thích sự thuận tiện và nhanh chóng khi những yêu cầu tín dụng của họ được xử lý
bằng hệ thống cho điểm tự động. Thông thường, khách hàng có thể gọi điện thoại
đến ngân hàng để liên hệ việc vay thông qua hệ thông máy tính nối mạng, trên cơ
sở dữ liệu của khách hàng, trong vòng vài phút ngân hàng có thể thông báo kết quả
tín dụng cho khách hàng.
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng trong mô hình cho
điểm tín dụng tiêu dùng bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số
người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, số tài khoản cá nhân
Mô hình điểm tín dụng tiêu dùng thường sử dụng từ 7 đến 12 hạng mục,
mỗi hạng mục được cho điểm từ 1 đến 10, điểm của chúng thường được sử dụng ở
các ngân hàng Mỹ.

Rõ ràng, mô hình điểm số đã loại bỏ được sự phán xét chủ quan trong quá
trình cho vay và giảm đáng kể thời gian quyết định tín dụng của ngân hàng. Tuy
nhiên, mô hình này cũng có một số nhược điểm như đã không thể tự điều chỉnh
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 23 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
được một cách nhanh chóng để thích ứng được với những thay đổi trong nền kinh
tế và những thay đổi trong cuộc sống gia đình. Một mô hình điểm số không linh
hoạt có thể đe dọa đến chương trình tín dụng tiêu dùng của ngân hàng, bỏ sót
những khách hàng lành mạnh, làm giảm lòng tin của cộng đồng vào dịch vụ ngân
hàng.
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 24 -
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Ng©n hµng
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHN
O
& PTNT TỈNH TUYÊN
QUANG
I. Tổng quan về NHN
0
&PTNT tỉnh Tuyên Quang:
1.Lịch sử hình thành và hoạt động của NHNo & PTNT Tuyên
Quang:
a.Lịch sử hình thành:
Là một trong những Ngân hàng thuộc hệ thống NHNo và PTNT Việt Nam.
NHNo và PTNT tỉnh Tuyên Quang được thành lập theo quyết định số 198/NHNH
– 05 ngày 02 tháng 06 năm 1998 của hệ thống NHNN Việt Nam. Trải qua quá
trình hoạt động NHN
0
và PTNT tỉnh Tuyên Quang đã góp phần đáng kể vào sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

NHNo & PTNT tỉnh Tuyên Quang đã và đang là kênh chuyển tải vốn đến cá
nhân, hộ gia đình và các công ty cổ phần, TNHH và các DN trong toàn tỉnh. Góp
phần tạo công ăn việc làm, giúp người dân trên địa bàn tỉnh ngày càng làm giàu
lên từ bàn tay và khối óc của mình, từng bước làm thay đổi diện mạo kinh tế xã
hội tỉnh. Với chức năng và nhiệm vụ là tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi
trong các tầng lớp dân cư, các thành phần kinh tế, để tạo lập nguồn vốn ngày càng
lớn để có nguồn vốn phong phú thích hợp. Tổ chức cho vay đối với các thành phần
kinh tế, phục vụ cho sản xuất kinh doanh, đảm bảo khai thác được tiềm năng kinh
tế, nguồn lực lao động nhằm nâng cao nhịp độ phát triển kinh tế trong nông nghiệp
bằng cách đầu tư vào các ngành thế mạnh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần
giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống cho nhân dân,
góp phần làm cho bộ mặt kinh tế tỉnh Tuyên Quang ngày càng thêm đổi mới.
b. Chức năng và nhiệm vụ:
Khác với thời kỳ đầu thành lập hiện nay NHNo Tuyên Quang không còn là
ngân hàng chuyên phục vụ chủ yếu đối tượng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn mà được phép cung cấp dịch vụ ngân hàng cho tất cả các tổ chức, cá nhân
Hoàng Thu Thủy - NHK-K9 - 25 -

×