Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Nghiên cứu quy hoạch môi trường cấp huyện, ứng dụng cho các huyện đặc trưng (Thường Xuân, Thọ Xuân, Hậu Lộc) của tỉnh Thanh Hóa số liệu tư liệu về điều kiện tự152424

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (18.06 MB, 32 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC T ự NHIÊN
ĐỂ TÀI TRỌNG DlỂM CẤP DẠI HỌC QUỐC GIA
NGHIÊN CỨU QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNG CẤP HUYỆN, ÚNG DỤNG
CHO CÁC HUYỆN ĐẬC TRƯNG (THƯỜNG XUÂN, THỌ XUÂN,
HẬU LỘC) CỦA TỈNH THANH HOÁ
BÁO CÁO CHUVễN Đ€
ĐIỀU TRA, THU THẬP sổ LIỆU Tư LIỆU VỂ DIỀU KIỆN TựNHIẼN, KINH TẾ XÃ
HỘI VÀ HIỆN TRẠNG Nlỗl TRƯỞNG HUYỆN THỌ XUÂN
PGS.TS. Vũ Quyết Thắng
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA M/ì NỌI
ĨRUNG TÂM THÕNG |'HU VIỆN
p r / 8 6 ? ~
HÀ NỘI, 2007
MỞ ĐẦU
Thọ Xuân là huyện nằm ờ phía tây tỉnh Thanh Hóa, được mệnh danh là vùng đất
“địa linh nhân kiệt” có vị thế chiến lược trọng yếu trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước
và giữ nước. Ngoài huyện lỵ Thọ Xuân - trung tâm kinh tế, chính trị, vãn hóa của
huyện - nằm ngay bên hữu ngạn sông Chu, huyện còn có khu đô thi công nghiệp Lam
Sơn - Sao Vàng, một trong bốn khu kinh tế động lực của tĩnh Thanh Hóa và khu di tích
lịch sử Lam Kinh đang trờ thành vùng đất đầy tiềm năng, đã và đang mờ ra triển vọng
lớn cho sự phát triển của ngành công nghiệp và du lịch. Thêm vào đó, nhờ được cấu tạo
bởi hai dạng địa hình: bán sơn địa (trung du) - rất thích hợp với trồng cây công nghiệp
- và đồng bằng châu thổ phì nhiêu, cùng với hệ thống sông Chu, sông Cầu Chày, sông
Hoàng Giang, hệ thống sông Nông Giang, Đập Bái Thượng,., đã khẳng định thế mạnh
của Thọ Xuân trong phát triển nền nông nghiệp toàn diện. Chính những ưu thế này đã
tạo cho Thọ Xuân những cơ hội to lớn trong phát triển nền kinh tế đa dạng. Tuy nhiên,
quá trình đô thị hoá và sự phát triển kinh tế mạnh với tốc độ cao đã làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến chất lượng môi trường. Thêm vào đó, sức chứa về không gian kinh
tế, xã hội có giới hạn trong khi yêu cầu phát triển lại rất lớn, việc hình thành và phát


triển khu đô thị, công nghiệp, các khu vực nông thôn, làng nghề thiếu quy hoạch hợp lý
dễ dẫn đến sự quá tải, suy thoái môi trường, sự biến mất của các hệ sinh thái rừng, hệ
sinh thái vùng bãi bồi sông Chu, phá vỡ cảnh quan thiên nhiên, tạo ra mâu thuẫn, xung
đột trong phát triển chồng chéo giữa các ngành công nghiệp, du lịch, nông nghiệp và
hạ tầng
1
CHƯƠNG 1.
HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TÊ XÃ HỘI HUYỆN THỌ XUÂN
1.1. ĐIỂU KIỆN T ự NHIÊN
1.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Thọ Xuân nằm về phía tây bắc thành phố Thanh Hóa với tọa độ địa lý
19o50’-20o00’ vĩ độ Bắc và 105o25’-105o30’ kinh độ Đông.
Phía Bắc-Tây Bắc giáp huyện Ngọc Lặc và một phần nhỏ huyện cẩm Thủy, phía
nam giáp huyện Triệu Sơn, phía Tây giáp huyện Thường Xuân, phía Đông-Đông Bắc
giáp huyện Yên Định, Đông-Đông Nam giáp huyện Thiệu Hóa.
Thọ Xuân nằm ở vị trí cửa ngõ nối liền đồng bằng với trung du miền núi, có dòng
sông Chu - con sông lớn thứ hai của tỉnh đi qua từ đầu huyện đến cuối huyện, có sân
bay quân sự Sao Vàng, có đường Hồ Chí Minh và Quốc lộ 47 chạy qua, Với những
điều kiện này Thọ Xuân đã thực sự trở thành một vùng đất mở rất thuận lợi cho việc
hội nhập, giao lưu với tất cả các vùng miền trong và ngoài tỉnh. Từ Thọ Xuân cũng có
đường đi tắt qua Triệu Sơn - Như Xuân để vào Nghệ An rồi từ Thọ Xuân có thể qua đất
bạn Lào theo tuyến đường đi Thường Xuân - Bát Mọt hoặc đi Ngọc Lặc - Lang Chánh -
Bá Thước - Quan Hóa để sang tỉnh Hủa Phăn. Từ Thọ Xuân cũng có thể đi được đến
Hòa Bình theo đường qua Ngọc Lặc - cẩm Thủy và đến Ninh Bình theo đường Yên
Định - Vĩnh Lộc đi Phố Cát (Thạch Thành). Nếu theo đường sông Chu, gặp sông Mã ở
Ngã Ba Giàng (Thiệu Hóa) có thể đến được hầu khắp các vùng trong, ngoài tỉnh.
Từ thành phố Thanh Hóa, theo trục đường 47 đến huyện lỵ Thọ Xuân chỉ có
36km. Từ Thọ Xuân lên biên giới Na Mèo gần 150km và ra thủ đô Hà Nội theo con
đường Hồ Chí Minh cũng chỉ hơn 130km.
Chính vị trí địa lý đặc biệt như vậy đã tạo cho Thọ Xuân nhiều thế mạnh và sắc

thái riêng mà nhiều vùng đất khác không có.
1.1.2. Địa hình
Thọ Xuân là một huyện đồng bằng nối liền với trung du và miền núi. Với vị trí
địa lý đặc biệt, địa hình Thọ Xuân phân chia thành hai dạng địa hình cơ bản là vùng
trung du đổi núi thấp và vùng đồng bằng rộng lớn tiêu biểu của xứ Thanh.
* Vùng trung du (vùng bán sơn địa)
Vùng bán sơn địa trải rộng từ Tây Bắc xuống Đông Nam, bao gồm 11 xã, 2 thị
trấn. Vùng này chiếm 53% diện tích đất đai của toàn huyện và được chia thành 2 tiểu
vùng:
Vùng đồi núi thấp bao quanh phía Tây Bắc (địa hình có độ cao từ 15-150m) của
huyện, gồm 6 xã và một phần diện tích của nông trường Thống Nhất.
2
Vùng đồi núi thấp bao quanh phía Tây Nam (địa hình có độ cao từ 20-150m) của
huyện, gồm 5 xã, 2 thị trấn (gồm phần lớn diện tích của nông trường Sao Vàng).
Nhìn chung vùng bán sơn địa của Thọ Xuân hầu hết là những đồi núi thấp chạy
liền mạch nhấp nhô như bát úp, nhiều chỗ lại bằng phẳng nên rất thích hợp cho việc
trồng các loại cây công nghiệp, lâm nghiệp và cây ăn quả khác.
* Vùng đồng bằng
Vùng đồng bằng bao gồm 27 xã và 1 thị trấn nằm về hai phía tả ngạn và hữu ngạn
sông Chu. Diện tích tự nhiên của vùng này chiếm gần 50% diện tích đất đai toàn
huyện. Vùng này cũng có thể chia ra làm 2 tiểu vùng: Vùng đồng bằng hữu ngạn sông
Chu (gồm 17 xã và 1 thị trấn) và Vùng đồng bằng tả ngạn sông Chu (gồm 9 xã.)
Mặc dù vùng đồng bằng huyện Thọ Xuân bị chia cắt thành nhiều cánh đồng có
bình độ khác nhau, tạo ra những khu vực lòng chảo cục bộ gây ngập úng nhưng đây
vẫn là vùng trọng điểm lúa số 1, số 2 của tỉnh Thanh Hóa
Như vậy, địa hình huyện Thọ Xuân là vùng chuyển tiếp giữa đồng bằng và trung
du, độ dốc lớn có chiều nghiêng từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Địa hình này thuận lợi
cho việc kiến thiết các hệ thống thủy lợi tiêu thoát nước trong mùa mưa lũ song cũng
gây ra tình trạng rửa trôi, xói mòn làm mất độ phì của đất.
1.1.3. Khí hậu

Khí hậu huyện Thọ Xuân có tính chất xen giữa hai mùa: mùa đông gió lạnh, khô
và mùa hè mưa nhiều có bão lụt kèm theo. Nhìn chung khí hậu rất thuận lợi cho việc
phát triển canh tác nông - lâm nghiệp. Tuy nhiên, ở mỗi vùng địa hình giữa vùng trung
du đồi núi và vùng đồng bằng khí hậu có những nét khác biệt, chênh lệch nhau cả về
nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm, gió, sương, Về mùa hè nóng ẩm mưa nhiều, một số đất
nhẹ ở địa hình cao hay đất đồi núi dốc ở 11 xã phía Tây Nam và Bắc, Đông Bắc sẽ bị
xói mòn, rửa trôi nhiều chất dinh dưỡng và keo đất, còn những vùng trũng thấp sẽ bị
ngập úng, gây ra hiện tượng yếm khí thiếu ô xy trong đất. về mùa đông hanh khô,
nước bốc hơi mạnh, chân đất cao dễ bị khô hạn, tạo điều kiện cho sự hình thành các kết
von, đá ong trong đất.
Theo số liệu điều tra khảo sát của các cơ quan khí tượng trong tỉnh, huyện các
đặc trưng về khí hậu của huyện Thọ Xuân thể hiện như sau:
Nhiệt độ không khí
- Bình quân năm: 23,4°c
- Trung bình cao: 26,7°c
- Trung bình thấp: 20,3°c
- Cao tuyệt đối: 39,3°c
- Thấp tuyệt đối: 4,4°c
- Biên độ ngày và đêm cách nhau 6,4°c
3
Lượng mưa
- Bình quân năm: 1911,2mm
- Năm cao nhất: 2929,3mm (1925)
- Năm nhỏ nhất: 1459mm (1936)
- Tháng lớn nhất: 760mm (tháng 9) và tháng nhỏ nhất là tháng 1 với 3mm
Độ ẩm không khí
- Bình quân năm: 86%
- Trung bình cao: 97%
- Trung bình thấp: 60%
- Thấp tuyệt đối: 18% (Tháng 1)

Lượng bốc hơi
- Binh quân năm: 788 mm
- Tháng cao nhất: 86,4 mm (tháng 7)
- Tháng thấp nhất: 41,8 mm (tháng 2)
Sương
- Sương mù: thường xuất hiện trong mùa đông và mùa xuân
- Sương muối: Những năm rét nhiều thì thường xuất hiện sương muối (vào tháng
1, 2), mức độ tác hại không lớn
1.1.4. Thủy văn
Thọ Xuân nằm trong vùng thủy văn sông Chu, có 3 con sông chảy qua: sông Chu,
sông Hoàng và sông Cầu Chày
* Sông Chu
Sông Chu là nhánh sông lớn nhất trong hệ thống sông Mã và là sông lớn thứ 2 ở
tỉnh Thanh Hóa. Tổng chiều dài cùa sông là 325 km, bắt nguồn từ cao nguyên Sầm
Nưa (Lào) trên độ cao 1.100m rồi chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam đến Mường
Hinh, Nghệ An rồi chuyển sang hướng Tây Đông chảy qua các huyện Thường Xuân,
Thọ Xuân, Thiệu Hóa và nhập vào sông Mã ở Ngã Ba Giàng. Toàn bộ diện tích lưu vực
là 7.630 km2 (ở Việt Nam chiếm khoảng 41%). Phần sông chảy qua Việt Nam dài 145
km và phần chảy qua huyện Thọ Xuân dài 29,4 km. Thượng nguồn có độ dốc lớn, lòng
sông sâu, bề ngang sông hẹp dòng chảy uốn khúc, bắt nguồn từ những vùng núi cao có
những cánh rìmg đại ngàn cộng thêm sự tác động của hướng núi cũng như hướng gió
thịnh, làm cho nước sông không ổn định và có sự chênh lệch rất lớn giữa mùa mưa và
mùa khô cạn. Theo số liệu điều tra cho biết:
4
Lượng mưa
- Bình quân năm: 191 l,2mm
- Năm cao nhất: 2929,3mm (1925)
- Năm nhỏ nhất: 1459mm (1936)
- Tháng lớn nhất: 760mm (tháng 9) và tháng nhỏ nhất là tháng 1 với 3mm
Độ ẩm không khí

- Bình quân năm: 86%
- Trung bình cao: 97%
- Trung binh thấp: 60%
- Thấp tuyệt đối: 18% (Tháng 1)
Lượng bốc hơi
- Binh quân năm: 788 mm
- Tháng cao nhất: 86,4 mm (tháng 7)
- Tháng thấp nhất: 41,8 mm (tháng 2)
Sương
- Sương mù: thường xuất hiện trong mùa đông và mùa xuân
- Sương muối: Những năm rét nhiều thì thường xuất hiện sương muối (vào tháng
1, 2), mức độ tác hại không lớn
1.1.4. Thủy văn
Thọ Xuân nằm trong vùng thủy văn sông Chu, có 3 con sông chảy qua: sông Chu,
sông Hoàng và sông Cầu Chày
* Sông Chu
Sông Chu là nhánh sông lớn nhất trong hệ thống sông Mã và là sông lớn thứ 2 ở
tỉnh Thanh Hóa. Tổng chiều dài của sông là 325 km, bắt nguồn từ cao nguyên Sầm
Nưa (Lào) trên độ cao 1.100m rồi chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam đến Mường
Hinh, Nghệ An rồi chuyển sang hướng Tây Đông chảy qua các huyện Thường Xuân,
Thọ Xuân, Thiệu Hóa và nhập vào sông Mã ờ Ngã Ba Giàng. Toàn bộ diện tích lưu vực
là 7.630 km2 (ở Việt Nam chiếm khoảng 41%). Phần sông chảy qua Việt Nam dài 145
km và phần chảy qua huyện Thọ Xuân dài 29,4 km. Thượng nguồn có độ dốc lớn lòng
sông sâu, bề ngang sông hẹp dòng chảy uốn khúc, bắt nguồn từ những vùng núi cao có
những cánh rừng đại ngàn cộng thêm sự tác động cùa hướng núi cũng như hướng gió
thịnh, làm cho nước sông không ổn định và có sự chênh lệch rất lớn giữa mùa mưa và
mùa khô cạn. Theo số liệu điều tra cho biết:
4
- Lượng nước về mùa mưa của sông Chu chỉ trong 3 tháng từ tháng 8 đến tháng
10 chiếm 75% - 85% tổng lượng nước cả năm. Lưu lượng nước lũ lớn nhất tại Bái

Thượng với 6.000m3/s, lưu lượng trung bình là 25m3/s, kiệt nhất là 19m3/s.
- Cường lũ biến động mạnh, bình quân 15-20 km/h, có khi lên đến 80km/h -
100km/h. Thời gian lũ kéo dài bình quân 7 ngày/trận, lớn nhất 15 ngày. Tháng có lũ
lớn nhất là tháng 9. Mùa lũ nước sông cao hơn trong đồng 2 - 4m, mùa kiệt nước sông
lại thấp hơn trong đồng 5 - 7m.
Trên địa bàn huyện Thọ Xuân có một nhánh sông Chu là Khe Trê bắt nguồn từ xã
Nguyệt ấn (Ngọc Lặc), chảy qua xã Xuân Thiên, Thọ Minh rồi đổ ra sông Chu, lòng
khe hẹp và sâu.
Sông Chu đóng một vai trò hết sức quan trọng về nhiều mặt đối với vùng đất
huyện Thọ Xuân, tạo cho Thọ Xuân một khu vực đồng bằng phù sa mới tiêu biểu và
rộng lớn nhất của xứ Thanh để canh tác nông nghiệp.
* Sông Cầu Chày
Bắt nguồn từ dãy núi Ngọc Khê, huyện Ngọc Lặc, chảy theo ranh giới 2 huyện
Thọ Xuân và Yên Định, chiều dài khoảng 87,5 km, diện tích lưu vực là 551 km2, phần
chảy qua địa phận Thọ Xuân là 24 km, lưu lượng lũ lớn nhất là 136 m3/s, lưu lượng
kiệt 0,7m3/s.
* Sông Hoàng.
Bắt nguồn từ dãy núi phía Tây nông trường Sao Vàng, chảy qua địa phận các
huyện Thọ Xuân, Triệu Sơn, Nông Cống, Đông Sơn và nhập vào sông Yên ở ngã ba
Yên Sở, cách bờ biển gần 30 km. Sông Hoàng có chiều dài khoảng 81 km, diện tích lưu
vực là 336 km2. Nằm trong phạm vi huyện Thọ Xuân vói chiều dài là 29 km, diện tích
lưu vực là 105 km2.
Sông Hoàng có lưu lượng lũ lớn nhất khoảng 67,5 m3/s, lưu lượng kiệt là 0,1
m3/s. Lòng sông quanh co uốn khúc, sông ngắn nên lũ tập trung khá nhanh, cùng một
lúc đổ xuống vùng đổng bằng huyện Thọ Xuân tạo nên sự thay đổi đột ngột, gây ngập
úng, lụt.
Sông Hoàng còn có 1 nhánh trên đất Thọ Xuân, dài 10 km chảy qua các xã Thọ
Nguyên, Xuân Khánh, Xuân Phong có tác dụng tiêu là chủ yếu.
Đánh giá chung
Nhìn chung, hệ thống sông ngòi, khe suối b huyện Thọ Xuân rất phong phú, có

nước quanh năm. Tổng lượng nước trên các sông đều lớn, khả năng lợi dụng nước
nguồn còn nhiều tiềm năng như đập Bái Thượng (ở sông Chu), đập Cầu Nha (ở sông
Cầu Chày). Ngoài những sông và khe trên, trên địa bàn huyện Thọ Xuân còn có nhiều
hổ, ao nằm phân tán rải rác. Đáng kể nhất là: Hồ Mạ ở xã Quảng Phú với diện tích 39,8
ha; hồ Sao Vàng ờ thị trấn Sao Vàng với diện tích 12 ha; hồ Đoàn Kết ờ thị trấn Lam
5
Scm với diện tích 8,75 ha; hồ cây Quýt ở xã Xuân Thắng với diện tích 3 ha; hồ Đông
Trường ở thị trấn Sao Vàng với diện tích 0,95 ha.
Sông Chu ở Thọ Xuân là nơi tập trung nhiều hoạt động kinh tế như: cải tạo lòng
sông trong việc điều tiết nguồn nước, điều tiết dòng sông chảy qua đập dâng nước, các
hệ thống tưới tự chảy, các trạm bơm Do đó, bộ mặt các dòng sông trong vùng có thể
thay đổi đáng kể, quá trình bốc thoát hơi nước, nguồn nước mùa cạn ở các khu vực
trong vùng đều có những biến đổi mạnh mẽ và quan trọng nhất là giải quyết nguồn
nước tưới cho hàng chục vạn ha đất canh tác ở nhiều huyện trong tỉnh.
Tuy nhiên, bên canh sự thuận lợi trên sông suối và nguồn nước tự nhiên nói
chung của Thọ Xuân cũng gây ra những khó khăn, bất cập. VI hệ thống sông phân bố
không đều, lòng sông lại hẹp, ngắn, dốc và uốn khúc nhiều nên về mùa mưa nước dễ
tập trung nhanh, gây úng lụt cục bộ trên diện rộng như sông Hoàng và sông Cầu Chày.
Trong mùa lũ, vấn đề bảo vệ an toàn các tuyến đê sông Chu là yêu cầu hết sức quan
trọng, đòi hỏi rất nhiều công sức. về mùa cạn, mực nước thấp nhất ở các sông cách
mặt đất từ 5 -1 0 m, làm cho việc bơm tưới rất khó khăn.
1.1.5. Tài nguyên thiên nhiên
a. Tài nguyên đất
Là huyện đồng bằng châu thổ sông Chu - sông Mã tiếp giáp với vùng trung du
miền núi, đất đai của huyện được hình thành rõ rệt trên sản phẩm phong hóa của các
loại đá mẹ và mẫu chất tích tụ từ tác động của sông.
Theo các điều tra Nông hoá thổ nhưỡng diện tích 26.260,65ha (năm 2000), đất
đai của huyện Thọ Xuân có thể chia thành 4 nhóm chính:
-Nhóm đât xám: Agrsols, diện tích: 8.931,0ha.
-Nhóm đất phù xa: Fluvials, diện tích: 15.893,2ha.

-Nhóm đất đỏ: Fersalsols, diện tích: 809,1 ha.
-Nhóm đất tầng mỏng: Leptosls, diện tích: 627,3ha.
b. Tài nguyên nước
* Nước mặt
Với hệ thống sông, suối, khe, hồ, mau, đầm và ao rộng trên khắp các địa bàn từ
vùng bán sơn địa đến vùng đồng bằng châu thổ, Thọ Xuân là huyện có nguồn nước mặt
vô cùng giàu có và phong phú. Theo ước tính sơ bộ, trữ lượng nguồn nước mặt của toàn
huyện có thể đạt 3,4 tỉ m \ trong khi đó nhu cầu sử dụng nước cho mọi vùng lãnh thổ
tính đến năm 2004 chỉ cần 1/3 lượng nước đến. Nguồn nước mặt phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp, chủ yếu được lấy từ Sông Chu qua hệ thống thuỷ nông sông Chu tưới cho
các xã, tiểu vùng hữu ngạn sông Chu và lấy từ sông Cầu Chày bằng các trạm bơm điện
tưới cho các xã đồng bằng thuộc tiểu vùng tả ngạn sông Chu.
6
Ngoài ra, hàng năm địa bàn huyện Thọ Xuân còn phải tiếp nhận một nguồn nước
ngoại lai rất lớn từ Thường Xuân, Ngọc Lặc và Lang Chánh đổ về với lượng gần bằng
2/3 lượng nước về mùa mưa. Nhưng do huyện có hệ thống thủy nông hoàn chỉnh (với
rất nhiều hổ chứa nước và hệ thống tiêu thủy dồi dào) cho nên đến nay tình trạng lũ lụt,
ngập úng đã được khắc phục một cách cơ bản. Tuy nhiên, để khai thác và sừ dụng hiệu
quả tối đa nguồn nước mặt, cần phải thường xuyên mở mang, gia cố thêm hệ thống giữ
nước và tiêu nước.
* Nước ngâm
Nước ngầm ở Thọ Xuân nằm trong bối cảnh chung của Thanh Hoá không phong
phú và phân bố không đồng đều giữa các vùng. Phía Đông (đồng bằng) Thọ Xuân địa
hình hơi dốc từ Tây Bắc sang Đông Nam, địa chất ở đây là trầm tích hệ thứ 4 có bê dày
trung bình 60m tạo ra 3 lớp nước ngầm, 2 lớp dưới rất phong phú, lưu lượng 22-231/s,
độ khoáng l-2,2g/l. Phủ lên hai lớp dưới là lớp nước trầm tích rất nghèo, lưu lượng chỉ
có 0,1-0,71/s. Phía Tây (vùng đồi) bao gồm dải đồi thấp ven đồng bằng có độ cao trung
bình trên dưới 20m. Nước ngầm ở khu này phân thành 2 lớp, lớp trên lượng nước rất
nghèo trong mùa khô. Lớp dưới có độ sâu 70-80m, trữ lượng khá phong phú, lưu lượng
4-61/s. Ngoài giếng khơi nhân dân còn sử dụng giếng khoan lấy từ mạch nước sâu phục

vụ sinh hoạt và đời sống.
c. Tài nguyên rừng
Với hơn 50% diện tích là đối núi thấp phân bố ở vùng trung du sông Chu, có điêu
kiện đất đai, khí hậu thuận lợi, trước đây Thọ Xuân là huyện có rừng tự nhiên gần như
phủ kín khắp các vùng địa hình Tây Bắc - Đông Nam của huyện. Tuy nhiên, trong vài
thập kỷ gần đây, rừng tự nhiên của Thọ Xuân đã bị thu hẹp và cạn kiệt do sự khai thác
bừa bãi của con người. Kết quả kiểm tra rừng năm 1999 cho thấy, Thọ Xuân còn lại
1.806 ha rừng, trong đó có 56,30 ha là rừng tự nhiên, 1.749,7 ha là rừng trồng. Trong
rừng trồng có 351,79 ha rừng gỗ có trữ lượng; 684 ha rừng tre, nứa, luồng; 713,73 ha
rừng cao su.
Hiện nay, huyện Thọ Xuân chỉ còn lại một số khu vực có rừng tự nhiên và rừng
tái sinh đang được bảo vệ như rừng lim ở xã Xuân Phú, rừng ở khu di tích lịch sử văn
hóa Lam Kinh và rừng nguyên sinh ờ khu vực đồi Chè ở phía đông núi Chẩu. Tại
những nơi này vẫn còn những cây to lớn có tuổi từ 100 năm đến vài trăm năm trở lên. ,
Theo thống kê của huyện đến năm 2005, toàn huyện có đất lâm nghiệp là
2.122,32 ha, trong đó đất rừng sản xuất là 2.014,54 ha, đất rừng phòng hộ là 107,78 ha.
Hiện tại đất đồi núi chưa sừ dụng (ở dạng còn hoang hóa) đang tiếp tục được khai thác
để trồng cây lâm nghiệp là 1.821,62 ha, trong số đó sẽ chọn ra 600 ha có độ dốc >15°
và >20° để trồng cây ăn quả tập trung. Với đà này, dự báo trong vài năm tới (đến
2010), diện tích rừng đặc dụng, rừng trồng mới và mô hình nông lâm kết hợp chắc
chắn sẽ đạt được 3.943,94 ha
7
d. Tài nguyên khoáng sản
Do không nằm trên phạm vi chính của đứt gãy sông Mã mà là vùng rìa tiếp nối
vói đới cấu trúc sinh khoáng Sầm Nưa - Hoành Sem nên khoáng sản ở huyện Thọ Xuân
không phong phú bằng các huyện miền núi khác trong tỉnh.
Khoáng sản ở Thọ Xuân chủ yếu là khoáng sản phi kim loại. Các loại khoáng sản
phi kim loại phong phú và dồi dào nhất là nguồn cát, sỏi phân bố ở tất cả các xã ven
đôi bờ sông Chu từ đầu huyện đến cuối huyện. Đây là một nguồn lợi đáng kể do thiên
nhiên ban tặng. Chất lượng cát, sỏi ở huyện vừa sạch, vừa dễ khai thác. Ngoài sự tiềm

tàng về cát sỏi Thọ Xuân còn có nguồn đất sét dồi dào có thể phát triển nghề gach
ngói. Ngoài ra, ở Thọ Xuân còn phát hiện được các mỏ phốt phát ở khu vực núi Gò Tô
(xã Xuân Châu), phân lân (xã Thọ Lâm) và mỏ than bùn ở các xã Xuân Sơn, Thọ Lâm,
Xuân Tân và một số núi đá vôi nằm rải rác ở các địa điểm Xuân Châu (núi Gò Tô:
5,5ha), Xuân Thắng (núi Chẩu: 40,2ha), Thọ Xương (núi Mục), và một số điểm ở Mục
Sơn, Bái Thượng, Nông trường Sao Vàng, Thọ Lâm
Nhìn chung, nguồn khoáng sản ở Thọ Xuân không phong phú và đa dạng về loại
hình so với những vùng đất khác, những đây vẫn là một nguồn lực quan trọng và to lớn
để tận dụng khai thác phục vụ cho phát triển nền kinh tế trong huyện.
e. Tài nguyên du lịch
Tiềm năng du lịch Thọ Xuân khá phong phú, nhưng chưa được sắp xếp, khai thác.
Ngoài Lam Kinh, đang được đầu tư, tôn tạo tầm cỡ quy mô quốc gia, lấy Lam Kinh và
lễ hội Lam Kinh làm điểm tựa có thể cùng huyện bạn xây dựng, tạo lập mạng lưới du
lịch sinh thái ở các địa danh lịch sử nổi tiếng như Lũng Nhai, nơi mấy trăm năm về
trước đã có hội thề Lũng Nhai của người anh hùng Lê Lợi và các cộng sự của mình,
như Chí Linh nơi nghĩa quân Lê Lợi mài gươm, đá núi phải mòn và ở các địa danh
khác của huyện Thọ Xuân.
Nhờ có cầu Hạnh Phúc, từ Lam Kinh về đền thờ Lê Hoàn có nhiều thuận lợi, có
thể tạo ra “tour” du lịch và di tích lịch sử nổi tiếng Lam Kinh, đền thờ Lê Hoàn, thành
nhà Hồ (Vĩnh Lộc) và ngược lại.
Đặc biệt, Thọ Xuân còn có thể tạo ra tuyến du lịch cảnh quan đập Bái Thượng,
hệ thống sông Chu, nơi khởi đầu cho việc đưa nước tưới cho hàng chục vạn ha đất canh
tác, hàng trăm ngàn con người sinh sống và môi trường trong lành của văn minh lúa
nước.
/ . Tài nguyên nhân văn
Thọ Xuân là nơi có bề dày lịch sử, văn hóa cách mạng vơi 25 di tích được xếp
hạng, trong đó 7 di tích Quốc gia và 18 di tích cấp tỉnh (xem phụ lục 1: Bảng thống kê
di tích lịch sử văn hóa đã xếp hạng huyện Thọ Xuân). Thiên nhiên, lịch sử và con
người của vùng này đã hòa quyện, tạo nên truyền thống lịch sử văn hóa Thọ Xuân;
mảnh đất “địa linh nhân kiệt” sản sinh ra nhiều Anh hùng dân tộc nổi tiếng kiệt xuất

như: Lê Hoàn, vị vua thời tiền Lê đã góp nhiều công lao cho dân tộc và Lê Lợi người
8
làm lên cuộc kháng chiến chống quân Minh, lập ra triều đại hậu Lê phát triển, hưng
thịnh trong lịch sử Việt Nam.
Trong hai cuộc khàng chiến thần thánh của dân tộc, Thọ Xuân đã đóng góp nhiều
sức người, sức của cho đất nước, được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân; 67 bà mẹ được phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng; nhiều
thương binh, liệt sỹ, anh hùng lực lượng vũ trang, nhiều giáo sư, tiến sỹ, chiến sỹ thi
đua trong phong trào thi đua xây dựng đất nước. Có thể nói Thọ Xuân là vùng đất hiếu
học, quý trọng nhân tài, luôn xứng đáng với các bậc danh nhân tiền bối.
Thọ Xuân là nơi có nhiều lễ hội truyền thống: Lễ hội Lê Hoàn 8/3 Âm lịch, lễ
hội Lam Kinh 22/8 Âm lịch được tổ chức quy mô lớn, hàng vạn lượt người trên mọi
miền Tổ quốc vê dự, ngoài ra còn có nhiều lễ hội quy mô cấp xã. Đến năm 2000 trong
phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới, Thọ Xuân có 19.000 gia đình đạt gia đình
văn hóa, 97 làng, khu phố, cơ quan văn hóa, trong đó có 17 làng đạt danh hiệu làng văn
hóa cấp tỉnh, 30 làng đạt cấp huyện.
Thọ Xuân cũng là mảnh đất có nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng như:
Bánh gai Tứ Trụ; 12 Xứ Láng trồng dâu nuôi tằm, quay tơ dệt lụa; thổ cẩm Xuân Phú,
nón là Thọ Lộc, cót Bắt Căng.
Với lịch sử văn hiến truyền thống của mảnh đất “địa linh nhân kiệt”, nhân dân
cần cù, sáng tạo có ý chí tự lực, tự cường khắc phục khó khăn, kế thừa và phát huy
những kinh nghiệm, thành quả đạt được nhằm phát triển nền kinh tế - văn hóa xã hội
xứng đáng với truyền thống quê hương Thọ Xuân anh hùng.
1.2. HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN k in h t ế - XÃ HỘI
1.2.1. Dân số
Thọ Xuân là một huyện lớn có 41 đơn vị hành chính, trong đó có 38 xã và 3 thị
trấn với tổng diện tích đất tự nhiên là 30.304,69 ha. Tính đến ngày 31/12/2005, dân số
toàn huyện là 235.436 người, đồng bào dân tộc ít chiếm khoảng 3%, đồng bào theo đạo
thiên chúa chiếm khoảng 10%, dân số vùng nông thôn chiếm khoảng 92%. Mật độ dân
số bình quân 776 người/km2. Diễn biến dân số và cơ cấu dân số huyện Thọ Xuân qua

các năm (xem phụ lục 2) theo xu hướng trong biểu đồ như sau:
9
Người
250000
2001 2002 2003 2004 2005
%
EES3 Tổng dân số trnng bình
r 2.5
»1
!= □ Dân sổ thành thị
- 2
£
£
- 1.5
í ỉ Dân số nông thôn
- ĩ
- 1
—♦— Tốc độ tăng dân số TB
i
- 0.5
—#— Tốc độ tăng dân sổ
- KỈ
thành thị
L ^
°N ăm
—^ T ố c độ tăng dân số
15
nông thôn
Biểu đồ 1: Diễn biến dân số và cơ cấu dân số huyện Thọ Xuân
Nhìn vào biểu đồ ta thấy, tốc độ tăng dân số của huyện trong giai đoạn 2001-

2005 có xu hướng giảm dần (năm 2001 là 1,128% so với năm 2000, năm 2005 là
0,419% so với năm 2000). Tốc độ tăng bình quân trong cả giai đoạn (2000-2005) là
0,523%. Tốc độ tăng dân số đô thị tăng dần (từ 0,459% năm 2002 lên 1,609% nãm
2005), tốc độ tăng dân số nông thôn giảm dần (từ 0,455% năm 2002 xuống 0,113%
năm 2005). Theo đó cơ cấu dân số thành thị tăng dần, năm 2001 dân số thành thị
chiếm 8,5%, năm 2005 chiếm gần 9% trong tổng dân số.
Trên địa bàn toàn huyện, dân cư được phân bố như trong bản đồ sau:
10
C*a*« < a>tcw
SÔKỢ. > A «ổ. *>
Hỉnh . bản đồ hiện trạng phân bố dân cư huyện Thọ Xuân
Nhìn vào bản đồ phân bố dân cư ta thấy dân số phân bố không đều giữa các khu
vực trong huyện, ở khu vực các xã miền núi dân cư thưa thót, lẻ tẻ với mật độ dân số
trung bình khu vực là 373 người/km2, xã Xuân Phú chỉ có 196 người/km2. Trong khi tại
các thị trấn và các xã vùng đồng bằng dân cư tập trung đông (Thị trấn Lam Sơn: 1.952
người/km2, Thị trấn Thọ Xuân: 3.240 người/km2, xã Nam Giang: 1.398 người/km2).
1.2.2. Lao động
Trong giai đoạn 2001-2004, lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế có
xu hướng tăng lên. Năm 2004, số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế là
92.680 người, chiếm 39,37% trong tổng số dân. Số lao động phân bố trong các ngành
kinh tế (xem phụ lục 2)
Theo điều tra mới đây nhất của huyện (2007), mật độ dân số bình quân tăng lên là
790 người/km2, tổng hợp dân số và lao động trong huyện như sau:
11
Bảng I: Tổng hợp dân số và lao động huyện 2007
TT
Chỉ tiêu
Tổng số
(người)
Tỷ lệ

(%)
1
Tổng dân số 239.611 100
2 Tổng lao động 92.616 38,7
Trong đó:
4,4
- Lao động khối cơ quan Nhà nước-quản lý kinh tế
4.107
- Lao động phi nông nghiệp
15.142 16,4
- Lao động nông lâm nghiệp 73.049 78,9
- Lao động ngư nghiệp, diẽm nghiệp 318 0,3
3 Tổng số hộ dân cư (hộ)
56.785
Trong đó:
- Hộ phi nông nghiệp 14.039 24,7
- Hộ nông lâm nghiệp 42.512 74,9
- Hộ ngư nghiệp, diẽm nghiệp 234
0,4
Nguồn: Báo cáo của phòng Môi trường-UBND huyện Thọ Xuân T6/2007
1.2.3. Đặc điểm kinh tế
a) Tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong giai đọan 1996 - 2000, tốc độ tăng trưởng bình quân là 10,3%/nãm (tỉnh
7,3%/năm), đến giai đoạn 2000-2005 tăng lên đạt mức bình quân là 11,7%/năm. Năm
2006 tăng lên 13,2%. (Bảng 2).
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tê bình quân của huyện
Chỉ tiêu
1996-2000
2000-2005
2006

Mức tăng GDP bình quân (%năm) 10,3
11,7
13,2%
Trong đó: + Nông-Lâm nghiệp 7,4 6,4
6%
+ Công nghiệp-XDCB
11,0
19,1
19,8
+ Dịch vụ-Thương mại
15,7 14,2
17,3
Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình phát triển KT-XH của Huyện ủy Thọ Xuân
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, công nghiệp
- tiểu thủ công nghiệp, giảm tỷ trọng ngành nông - lâm nghiệp. Nhưng tỷ trọng ngành
công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng chậm.
12
Bảng 3: Cơ cấu kinh tế của huyện (%)
Chỉtiẽu
1996
2000 2005 2006
Cơ cấu GDP
100,00
100,00
100,00 100,00
Nông-Lâm nghiệp
65,80
51,40 39,20
36,70
Công nghiệp-XD

12,40
16,50 23,20 24,30
Dịch vụ-TM
21,80
32,10
37,60
39,00
Nguồn: Báo cáo tổng kết quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tể của Huyện ủy Thọ Xuân
b) Thực trạng phát triền các ngành.
+ Nông lâm nghiệp:
- Trồng trọt: Đã hình thành rõ nét các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung,
chuyên canh sản xuất gắn với thị trường. Vụ đông trở thành vụ sản xuất chính, khả
năng thâm canh cao, cây trồng đa dạng, đặc biệt là cây trồng có giá trị hàng hoá cao,
giá trị sản xuất bình quân trên ha canh tác đến năm 2005 đạt 33,6% triệu đồng. Năm
2005, sản lượng lương thực đạt mục tiêu đề ra 110.000 tấn. Sản lượng mía nguyên liệu
trên 200 nghìn tấn/năm. Các cây công nghiệp: Lạc, đậu tương có sự tăng trường cả
về diện tích, năng suất và sản lượng.
- Chăn nuôi phát triển: Năm 2005 đàn bò lai Sind, lẹm hướng nạc đều chiến trên
50% tổng đàn, phát triển nghề nuôi bò sửa; đưa tỷ trọng ngành chăn nuôi chiếm 39,4%
tổng giá trị sản xuất nông nghiệp, tăng 7,8% so với năm 2000.
- Lâm nghiệp phát triển theo hướng lâm nghiệp xã hội, chăm sóc và bảo vệ rừng,
nâng cao hiệu quả kinh tế lâm nghiệp.
+ Công nghiệp -TTCN:
Giá trị sản xuất bình quân hàng năm tăng 18,6%. Các ngành nghề truyền thống
tiếp tục phát triển gắn với thị trường tiêu thụ, nghề trồng dâu nuôi tằm bước đầu được
khôi phục. Một số ngành nghề mới được du nhập, phát triển mạnh như chế biến bột
giấy, mộc cao cấp, gỗ xẻ xuất khẩu Các cơ sờ sản xuất CN - TTCN chủ yếu là
khu vực kinh tế tư nhân với công nghệ được đổi mới.
+ Dịch vụ - thương mại:
Hệ thống dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển mạnh, đến

năm 2005 các xã, thị trấn đã có bưu điện văn hoá xã; 100% xã, thị trấn có điện thoại;
bình quân 3,3 máy điện thoại/100 dân. Các dịch vụ thông tin điện từ, dịch vụ Internet
được phát triển góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý,
13
dịch vụ vận tải phát triển mạnh ở các địa phương trong huyện; dịch vụ du lịch, lễ hội
đang từng bước được coi trong.
+ Tài chính - tín dụng:
Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 5 năm qua đều vượt kế hoạch tỉnh giao; đáp
ứng chi thường xuyên, đảm bảo qui định của Luật Ngân sách. Hoạt động túi dụng -
ngân hàng có nhiều đổi mới. Năm 2005, nguồn vốn huy động đạt 123 tỷ đồng.
+ Các thành phần kinh tế:
Đến năm 2005, toàn huyện có 73 HTX; 250 trang trại và 48 doanh nghiệp. Các
thành phần kinh tế phát triển, đặc biệt là kinh tế HTX, kinh tế trang trại đã khẳng định
lợi thế và vai trò tích cực trong việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nông thôn, tham gia xoá đói, giảm nghèo, góp phần phân công lại lao động xã hội
+ Kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội:
Trong 5 năm qua đã đầu tư gần 400 tỷ đồng, tăng 2,7 lần so với thời kỳ 1996 -
2000; trong đó : nguồn vốn Trung ương, vốn tỉnh 51,2%, vốn ngân sách huyện, xã
27,7%, vốn dân đóng góp 21,1% Phong trào làm đường giao thông nông thôn được
hưởng ứng rộng rãi, đã rải nhựa 31km đường liên xã, đường xã, 265km đường thôn,
xóm được bê tông hoá. Hệ thống đê, kè, cống được đầu tư, từng bước cứng hoá mặt đê
Trung ương.
c) Hiện trạng sử dụng đất
Theo thống kê, kiểm kê diện tích đất theo đơn vị hành chính, năm 2005 với diện
tích tự nhiên 30.035,58ha tình hình đất đai được sử dụng như sau:
- Đất nông nghiệp: Diện tích 15.389,25 ha chiếm 51,24% diện tích đất tự nhiên
- Đất lâm nghiệp có rừng: Diện tích 2.122,32 ha chiếm 7,07% diện tích đất tự
nhiên
- Đất chuyên dùng: Diện tích 4.446,83 ha chiếm 14,8% diện tích đất tự nhiên
- Đất ở: Diện tích là 2.658,28 ha chiếm 8,85% diện tích tự nhiên

- Đất chưa sử dụng: 3.015,9 ha chiếm 10,04% diện tích dự nhiên
Diện tích đất còn lại 2.403 ha đưa vào sử dụng ở những mục đích khác nhau,
chiếm khoảng 8% diện tích đất tự nhiên
1.2.4. Văn hóa - xã hội
+ Giáo due - đào tao: Chất lượng giáo dục toàn diện và mũi nhọn được nâng lên.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị học đường được đầu tư nâng cấp, năm 2005 toàn huyện có
38 trường chuẩn quốc gia.
+ Ván hoá - thông tin: Đổi mới về nội dung, hình thức tuyên truyền đường lối
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, đã khai trương xây dựng 159 làng, khu
14
phố, cơ quan văn hoá. Phong trào thể dục thể thao phát triển mạnh theo hướng xã hội
hoá.
+ Cồng tác chãm sóc sức khoẻ cho nhản dân: Chất lượng khám chữa bệnh cho
đối tượng chính sách được nâng lên. Mạng lưới y tế toàn huyện được củng cố. Năm
2005 toàn huyện có 27/41 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Cơ sở vật chất, trang thiết bị
phục vụ khám chữa bệnh tăng đáng kể. Công tác dân số, gia đình và trẻ em đạt kết quả
rõ rệt, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hàng năm ở mức 0,7 - 0,9%, giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5
tuổi suy dinh dưỡng đến năm 2005 còn 16,5%.
+ Các chính sách xã hỏi: Giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo được thực
hiện có hiệu quả, đời sống vật chất của nhân dân được nâng lên, thực hiện tốt các chính
sách xã hội và người có công với Cách mạng, giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm 3%.
15
CHƯƠNG z .
HIỆN TRẠNG Nlfil TRƯỜNG HUYỆN THỌ XUÂN
2.1. HIỆN TRẠNG HẠ TẦNG VỂ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
2.1.1. Các công trình khai thác và cấp nước
ở hầu hết các địa bàn trong huyện, nước được khai thác từ 3 nguồn: nước mặt
(gồm nước sông suối, hồ đập, kênh tưới, tiêu, trạm bơm), nước ngầm (nguồn nưóc dưới
đất khai thác bằng các giếng khoan, giếng đào) và nước mưa (hứng qua mái nhà, cây
cối được chứa trong bể).

Hiện tại, nước dùng cho sinh hoạt và sản xuất hoàn toàn dựa vào tự nhiên, chưa
có công trình cấp nước nào. Nước cấp cho sinh hoạt cùa người dân được lấy từ giếng
khơi, giếng khoan 20 - 30m. Nước cấp cho công nghiệp, sản xuất lấy từ kênh nông
giang, qua các trạm bơm rồi xử lý và đưa vào sử dụng.
2.1.2. Hệ thống công trình thu gom, thoát nước và xử lý nước thải
Hiện nay, huyện vẫn chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Nước mưa, nước
thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp dịch vụ đều chưa có các trạm thu gom xử lý trước
khi thải vào các thủy vực.
Tại khu đô thị công nghiệp Lam Sơn - Sao Vàng chưa có hệ thống thu gom và
thoát nước thải riêng. Nước thải sinh hoạt thoát tự nhiên, tự ngấm xuống đất là chù yếu.
Nước thải công nghiệp cùa hai nhà máy giấy Mục Sơn và đường Lam Sơn có hệ thống
xử lý nhưng chưa đạt yêu cầu về các chỉ tiêu kỹ thuật thải đổ ra sông Chu gây ô nhiễm
nguồn nước sông Chu.
Tại thị trấn Thọ Xuân và khu vực các thị tứ, nước thải sinh hoạt cũng thải trực
tiếp vào các ao hồ hoặc đổ ra sông Chu, đồng ruộng qua các hệ thống cống rãnh, kênh
tiêu thoát nước.
Ngoài ra, tại các khu di tích lịch sử văn hoá (kể cả những nơi đã, đang và sẽ hình
thành phát triển du lịch) đều chưa có hộ thống các hạ tầng về bảo vệ môi trưcmg.
2.1.3. Hệ thống cơ sở thu gom và xử lý chất thải rắn
Hiện tại, huyện vẫn chưa có hệ thống thu gom, tái chế và xử lý chất thải rắn tập
trung và hợp vệ sinh.
Toàn bộ lượng chất thải thu gom được cùa khu đô thị, công nghiệp Lam Sơn - Sao
Vàng được đưa đến bãi chứa rác ờ khu vực chân núi Chẩu về phía Nam, nằm trên địa
bàn của 2 xã Thọ Lâm và Xuân Thắng. Tại đây, rác thải chỉ được đem đổ chất thành
bãi mà không có bất kỳ hình thức xừ lý nào, đã và đang gây ra những vấn đề ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng cho khu vực.
16
Tại thị trấn Thọ Xuân cũng chưa có bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh. Toàn bộ lượng
rác thải của thị trấn thu gom được đưa ra đổ ở bãi chứa rác tạm thời ở khu vực ngoài đê
sông Chu nằm ở khu vực bãi sông đẩu thị trấn mà không có bất cứ biện pháp xử lý nào.

Tại khu vực bãi rác, do vị trí nằm ờ bãi sông ngoài đê nên thường xuyên bị ngập lụt vào
mùa mưa lũ. Khi nước sông Chu dâng cao, lũ kéo về, toàn bộ lượng rác ỏ bãi bị kéo
trôi theo dòng nước tỏa đi các nơi gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường nước
sông Chu và là nguồn tạo ra các ổ dịch bệnh sau lũ. Khi nước rút, rác bị trôi nổi dạt vào
các khu vực ven sông, khu dân cư bị ngập lụt, và một phần nổi lềnh bềnh trên mặt sông
gây mất mỹ quan môi trường của thị trấn và các xã, huyện khác nằm ven dòng sông
Chu.
Tại các thị tứ, do chưa có bãi rác tập trung nên rác thải bị người dân vứt khắp nơi
ra môi trường xung quanh, ở ven đồng ruộng, dọc bãi sông, bờ ao, cống rãnh, ven lề
đường, xung quanh các điểm họp chợ và ngay tại góc vườn trong mỗi gia đình bất cứ
chỗ nào cũng có những điểm rác thải tồn đọng làm mất mỹ quan thôn xóm, gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Các bệnh viện và trung tâm y tế chưa được đầu tư các công trình xử lý chất thải.
Đây là nguồn thải gây ô nhiễm môi trường, nguồn lây lan dịch bệnh rất nguy hiểm.
Hiện mới chỉ có bệnh viện huyện đã xây dựng công trinh xử lý rác thải bệnh viện và lò
đốt chất thải y tế, song gần như không hoạt động do thiếu kỹ thuật và nguồn kinh phí
để vận hành.
Đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp, trên địa bàn toàn huyện chỉ có Công ty
đường Lam Sơn, Nhà máy giấy Mục Sơn là đã đầu tư hàng tỷ đồng để xây dựng các
công trình xử lý chất nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Nhưng do nhận thức về
công tác bảo vệ môi trường của phẫn lớn các cơ sờ sản xuất còn hạn chế, nguồn kinh
phí cho công tác bảo vệ môi trường hạn hẹp nên việc đầu tư cho xử lý ô nhiễm môi
trường tại các cơ sở công nghiệp này còn yếu, việc thực hiện các giải pháp BVMT đã
đề cập trong báo cáo ĐTM chưa được quan tâm đúng mức.
2.2. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC
2.2.1. Môi trường nước mặt
Môi trường nước mặt tại các khu vực đô thị, công nghiệp trên địa bàn thị trấn
đang ở mức báo động về ô nhiễm do các nguồn nước mặt (sông, hồ, ao, kênh tưới,
tiêu ) đều là nơi tiếp nhận nước thải chưa xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn cho
phép từ các nguồn nước thải sinh hoạt, sản xuất.

Chất lượng nước sông đang bị giảm sút do hoạt động sản xuất công nghiệp, tưới
tiêu trong nông nghiệp và sinh hoạt. Trên địa bàn huyện Thọ Xuân có 3 con sông chảy
qua là sông Chu, sông Hoàng và sông Cầu Chày. Tại vùng thượng lưu chất lượng nước
còn khá tốt, vùng hạ lưu phần lớn đã bị ổ nhiễm, có nơi ờ mức nghiêm trọng. Nguyên
nhân chủ yếu là do nước thải của các cơ sở sản xuất công nghiệp, kinh doanh, nước
thải sinh hoạt không được xử lý đã và đang thải trực tiếp ra sông. Chất lượng nước suy
DAI HOC Q!'"
TPUNG TA'
17
giảm mạnh, nhiều chỉ tiêu như: BOD, COD, chất thải rắn lơ lửng, amoni, tổng Nitơ,
tổng Phốt pho cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Cụ thể:
+ Nước thải của Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn vói lưu lượng lớn
1000m3/ngày đêm, nồng độ các chất ô nhiễm cao, COD vượt TCVN 5945-2005 (cột B)
là 3,9 lần, BOD5 vượt 2,66 lần (theo kết quả giám sát môi trường tháng 3/2006 của
Công ty), có màu trắng đục, mùi hôi khó chịu thải ra sông Chu
+ Nước thải của Công ty Giấy Mục Sơn theo kết quả giám sát của Sờ Tài nguyên
và Môi trường vào tháng 12/2005 chưa đạt tiêu chuẩn cho phép, thải ra Khe Mục với
lưu lượng 500m 3/ng à y đêm, có màu đen, mùi hôi khó chịu.
+ Nước thải của Doanh nghiệp tư nhân Hòa Hà, xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân
theo kết quả kiểm tra thực tế: Doanh nghiệp hoạt động hết công suất với 6 nồi nấu bột
giấy 2m3/nồi) đang hoạt động. Doanh nghiệp có 3 hồ xử lý sinh học diện tích khoảng
6.000m2 nhưng nước thải sản xuất (nước nấu, rửa bột giấy) không được xừ lý mà thải
trực tiếp ra ngoài môi trường qua hệ thống ống nhựa và hệ thống mương bê tông rồi đổ
vào sông Chu.
+ Nước thải của quá trình rửa bột, xeo giấy của xí nghiệp giấy Lam Kinh được
thải ra hồ có diện tích 0,5 ha nằm ngoài bãi sông rồi chảy ra sông Chu, gây ô nhiễm
nước sông. Qua kiểm tra và giám sát môi trường năm 2004, 2005 cho thấy: Chỉ tiêu
BOD5 vượt tiêu chuẩn cho phép theo TCVN 5945-2005 (cột B) từ 5,12 đến 27,2 lần,
chỉ tiêu COD vượt từ 3,98 lần đến 20,1 lần.
Theo báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Thanh Hóa năm 2006 đưa ra kết quả

phân tích chất lượng nước mặt tại một số điểm trên sông Chu (trên đập Bái Thượng và
dưới cửa xả
18
Bảng 4: Kết quả phân tích nước sông Chu (trên đập Bái Thượng)
TT Thông số
Đơn vị
Mẩu nước sông
chu trên đập Bái
Thượng
Nước sông Chu dưới
cửa xả nhà máy Giấy
Lam Kinh
TCVN 5942-
1995
200 5 2006 200 5 200 6 A
B
1 pH
-
7,94 6,63
7,42 6,12 6-8,5 5,5-9
2 Độ đục NTU 12,1
-
8,49
- -
3 DO
mg/l
7,33
-
5,4
>6

>2
4 bo d 5
mg/1 3,2
1,6
6,4
12,8
<4 <25
5
COD
mg/l
4,5 2,8
9,4 24
<10
<35
6
s s mg/l
105 4,8
322 16,4
20
80
7 NHt4 mg/l
0,183
-
0,486 0,05
1
8 NO3- mg/l <0,01 0,213
1,78
0,354 10 15
9
NO2- mg/l

<0,01
0,027 <0,01
0,054
0,01 0,05
10
Fe
mg/l
2,29
-
2,194 1
2
11 Mn
mg/l
0,261
-
0,217
0,1
0,8
12 Pb mg/l 0,008
-
0,004 0,05 0,02
13 Cd
mg/l
<
0,001
<0,001
-
0,01 0,02
14
Florua

mg/l
0,56 0,75
-
1
1,5
15 Cr®+
mg/l <0,001
-
<0,001
0,05 0,05
16
Hg
mg/l 0,001
-
0,001
0,001
0,002
17
As
mg/l
<0,01 0,0002 0,01
0,0002
0,05
0,1
18 Coliform
MNP/
10Oml
120
490 690
5400

5.000
10.000
19
Dư lượng TBVTV
- Clo hữu cơ
- Lân hữu cơ
mg/l <0001
0,002
0,001
0,002
0,01
0,01
Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường 2006 tỉnh Thanh Hóa
19
Vào tháng 9/2006, trường Đại học khoa học Tự nhiên Hà Nội cũng đã tiến hành
khảo sát và phân tích chất lượng nước mặt tại một số vị trí. Kết quả phân tich các chỉ
tiêu được thể hiện ở bảng 6.
Bảng 6. Kết quả phân tích chất lượng nước mặt khu vực huyện Thọ Xuân
TT
Chỉ
tiêu
Đơn
vị
Vị trí lẫy mẫu phân tích
TCVN
5942-1995
(cột B)
TC
BYT
2005

M1 M2
M3
M4 M5 M6
M7 M8
1
Nhiệt
độ
°c 28,4 28,3 28,5 28,1 28,1
28,4
28,0 27,9
-
-
2 pH
-
6,86 7,23 7,44 7,34 7,03 7,15
7,47
7,45 5,5-9
6-8,5
3 DO mg/l 1,41
1,43 1,41
1,44
1,43
1,38 1,42 1,42 >=2
-
4 Độ dẫn
ms/cm
0,064 0,070 0,063 0,071 0,058 0,193
0,065 0,064 -
-
5 Độ đục

NTU 162 148 121 92 156 212 199 146
-
5
6 ss mg/1
175
71
96 123
137
143 111 116 80
-
7
N-N0-3
mg/l
8,99
4,17 6,20
8,89
4,78
0,96 2,05
1,94
15 50
8 N-NH\ mg/l 0,019 0,032 0,012 0,008 0,006 0,176
0,028 0,022
1 3
9 Ca2t
mg/l
20 16 18 16 16 12 16
16
-
-
10

Mg2t mg/l 2,4 7,2 7,2 4,8 4,8 4,8
4,8 4,8
-
-
11
Độ
cứng
mgỉỉ 60 70
75 60 60
50 60
60
-
350
12
COD
mg/l
17 29
20 11
3 80
18 18
<35
-
13 bo d5 mg/l
-
- -
-
-
66 -
-
<25 -

14
Cl- mgỉì
13,49 16,33 17,04 15,98
12,78 7,10
9.23
7,81
-
300
15 so 2-4 mg/l 92
95
97 87 90 77
97
95
-
-
M1: Cầu Phúc Như, xã Nam Giang
M2: Cẩu Hạnh Phúc - xã Hạnh Phúc
M3: Quàn Độ - Thọ Diên
M4: Cầu Mục Sơn 1 - thị trấn Lam Sơn
M5: Cầu Mục Sơn 2 - thi trấn Lam Sơn
M6: Kênh thải khe mục, suối Khe Mục - thỊ trấn Lam Sơn
M7: Đập Bái Thượng
M8: Cẩu Bái Thượng
Kết quả phân tích ở bảng 6 cho thấy: ở hầu hết các vị trí khảo sát nồng độ chất
rắn lơ lửng đều vượt TCCP (cột B) từ 1,2 đến 2,2 lần. Tại kênh thải khe Mục, nồng độ
BOD5 vượt TCCP (cột B) là 2,64 lần và COD vượt TCCP (cột B) là 2,29 lần.
20
Chất lượng nước tại các hồ trong khu vực thị trấn, thị tứ cũng đang bị ô nhiêm và
suy giảm nghiêm trọng do hoạt động của các trang trại chăn nuôi gia súc và hoạt động
sản xuất nông nghiệp cũng như các hoạt động sinh hoạt của người dân ven hồ. Qua

điều tra thực tế tại thị trấn Thọ Xuân, hồ nằm phía Đông thị trấn người ta gọi là hồ thị
trấn hiện đang bị ô nhiêm do nguồn nước thải sinh họat của dân cư. Dân cư sống khu
vực quanh hồ thải trực tiếp toàn bộ lượng nước thải sinh hoạt xuống hồ mà không qua
bất kỳ hình thức xử lý nào làm cho nước hồ bị ô nhiễm bởi các chất hữu cơ, có màu
đen và mùi khó chịu. Hồ nằm phía Tây thị trấn (thuộc địa bàn xã Xuân Trường) có
diện tích lưu vực 15 ha, bị ô nhiễm do 1 trại chăn nuôi lợn xây dựng nằm ngay trên bờ
hồ. Trại chăn nuôi lợn có quy mô lớn, công suất lớn nhất đạt khoảng 1.000 con/lứa,
mỗi năm chăn nuôi từ 2 - 3 lứa. Trại chăn nuôi này hình thành và bắt đấu đi vào hoạt
động từ năm 2001. Toàn bộ lượng nước thải, phân lợn từ trại đều được xả trực tiếp
xuống hồ để nuôi cá. Hiện tại, nguồn nước hồ chưa bị ô nhiễm nghiêm trọng, nhưng
toàn bộ khu vực dân cư phía Tây thị trấn ở xung quanh hồ (trong đó có 2 trường học)
thường xuyên phải chịu mùi hôi thối tỏa ra từ khu trang trại, nhất là vào những ngày
trời nắng nóng.
2.2.2. Chất lượng nước ngầm
Để đánh giá chất lượng nước ngầm khu vực huyện Thọ Xuân, từ ngày 3-15
tháng 11 năm 2007, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên đã tiến hành lấy mẫu nước
ngầm tại 10 vị trí khác nhau trên địa bàn huyện và phân tích tại phòng thí nghiệm phân
tích môi trường của Khoa Môi trường. Kết quả phân tích được thể hiện ở bảng 7
21
Bảng 7: Kết quả phán tích chất lượng nước ngầm khu vực huyện Thọ Xuân
TT
Chỉ
tiêu
Đơn
Kết quả phân tích
TCVN
5944-
1995
vị
M1 M2 M3 M4 M5

M6 M7
M8
M9
M10
1 pH
-
5,6
6,6 6,4
6,3
6,1
6,5
6,8
6,3
6,4 5,6
6,5-
8,5
2
Độ
dẫn
0
0,06 0,02 0,01 0,02
0,03
0,02
0,04 0,03 0
-
3
cr
mg/l
0 177,5
65,7

21,3
71 710
14,2 177,5
127,8
0
200-
600
4
so42-
mg/l
10,8
56,3 41 25,6 43,5 20,5
33,3
28,2 20,5
10,2
200-
400
5
Độ
đục
Pt-
Co
0 0
0
13
0
286 2 0 494 0
5-50
6
Hàm

lượng
muối
% 0
0,03 0,01 0,01
0,01 0,01 0,01
0,02
0,01
0
-
7 Ca2* mg/l 6 42 28 18
32 28 26 28 30 6
300-
500
8
Mg2t
mg/l 4,5 22,8 9,6 7,2
12
20,4
9,6 19,2 9,6 4,2
-
9 Fe* mg/l
0,043 0,013 0,246 3,358
0,327 18,31 1,357 0,116
31,58 0,028 1-5
10 As*
mg/l
0,005
0,004
0,001 0,003 0,001
0,009 0,001 0,001

0,006
-
0,05
11 Cu*
mg/l
-
0,004 0,002
0,001
-
0,058
-
-
0,037
-
1
Nguồn: Kết quả khảo sát và phân tích nước ngầm của trường ĐHKHTN ngày 3-1511112007
Từ kết quả phân tích ở bảng 7 cho thấy, hầu hết các chỉ tiêu phân tích cùa các
mẫu đều nằm trong tiêu chuẩn cho phép đối với TCVN 5944/1995. Tuy nhiên, tại một
số vị trí lấy mẫu có hàm lượng một số chỉ tiêu phân tích vượt tiêu chuẩn cho phép
nhiều lần. Đặc biệt là các mẫu M6 có hàm lượng Fe đạt 18,31mg/l; Mẫu M9 đạt
31,58mg/l
2.3. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ
Chất lượng môi trường không khí ở Thọ Xuân khá tốt, đặc biệt là ở khu vực nông
thôn và khu vực các xã miền núi nơi có mật độ cây xanh và độ che phủ rừng cao. Tuy
nhiên, ờ một vài khu vực dân cư nông thôn đã và đang hình thành và phát triển các hoạt
động sản xuất ngành nghề tiểu thù công nghiệp như dột thổ cẩm ờ xã Xuân Phú, làm
nón ờ Thọ Lộc, sản xuất cót ép, mây, tre đan, gỗ, tại xã Thọ Nguyên thì môi trường
không khí đang có dấu hiệu bị ô nhiễm cục bộ.
22
ở các thị trấn, khu đô thị, công nghiệp môi trường không khí đang trở thành vấn

đề cấp bách bởi ô nhiễm bụi, hơi khí độc ngày càng gia tăng. Tại một số khu dân cư tập
trung đông người, xung quanh các cơ sở công nghiệp, trang trại chăn nuôi, nồng độ các
hơi khí độc CO, NOx, S02, H2S và bụi khá cao, ảnh hưỏng trực tiếp đến sức khỏe
của cộng đồng trong khu vực.
Theo kết quả khảo sát và phân tích của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thanh
Hóa (bảng 8), chất lượng không khí qua các năm tại một số vị trí như sau:
Bảng 8: Kết quẩn phần tích chất lượng môi trường không khí
TT
Vị trí lấy mẫu
Thời
gian
Kết quả phân tích các thông số (ng/m3)
CO NO,
S 0 2
THC B ụ i lơ tửng
1
Ngã ba Mục Sơn -
TT Lam Sơn
2004 -
72
7
-
810
2005
3540
46
22
-
1200
2006

470
184
310
430 1030
2
Cổng nhà máy
đường Lam Sơn
2004
-
68 7,6
-
760
2005 10950 44 42
-
800
2006 310 153
210
450 970
3
Ngã tư Sao Vàng -
TT Sao Vàng
2004
-
50 4,2
-
210
2005
4037
35
12

-
100
2006
1500 102 360 3200 1320
4 TCVN 5937-2005
-
40 50
-
140
Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường Thanh Hóa năm 2006
Tại vị trí cổng nhà máy đường Lam Sơn - Thị trấn Lam Sơn, nồng độ bụi lơ lửng
có xu hướng gia tăng và vượt mức cho phép (TCVN 5937-2005) từ 5,4 lần (2004) đến
5,7 lần (2005) và năm 2006 vượt TCVN 5937-2005 là 6,9 lần.
Tại ngã ba Mục Sơn - Thị trấn Lam Sơn, nồng độ bụi cao hơn và ngày càng tăng
lên. So với TCVN 5937-2005: nồng độ bụi lơ lửng vượt 5,8 lần (2004); 8,6 lần (2005);
7,4 lần (2006).
Tại ngã tư nông trường Sao Vàng - Thi trấn Sao Vàng: nãm 2004 nồng độ bụi lơ
lửng vượt TCVN 1937-2005 là 1,5 lần, đến năm 2005 đạt tiêu chuẩn cho phép theo
TCVN 5937-2005, nhưng năm 2006 nồng độ bụi lại cao hơn mức tiêu chuẩn cho phép
(TCVN 5937-2005) 9,4 lần.
23

×