Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

10 địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiêp 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.17 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Phần Nội Dung
I. Khái quát về doanh nghiệp tư nhân và pháp luật về doanh nghiệp tư nhân.
1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân
tại Việt Nam.
2. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân.
2.1 Khái niệm
2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân.
II. Pháp luật về hình thành và chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư nhân
1. Đăng kí kinh doanh doanh nghiệp tư nhân
1.1. Điều kiện đăng kí kinh doanh
1.2. Trình tự và thủ tục đăng kí kinh doanh.
2. Chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư nhân
2.1 Giải thể doanh nghiệp tư nhân
2.2. Phá sản doanh nghiệp
3. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp tư nhân
3.1 Quyền của doanh nghiệp tư nhân
3.2 Nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân
III. Một số đề xuất và kiến nghị
KẾT LUẬN
Danh mục tài liệu tham khảo
1
LỜI NÓI ĐẦU
Phát triển nền kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là mục
tiêu của Đảng và nhà nước ta. Từ khi đại hội VI diễn ra nước ta đã thừa nhận
kinh tế tư nhân và quan tâm, chú trọng nhiều hơn đến việc khai thác, huy
động các nguồn lực để phát triển kinh tế. Để điều chỉnh các vấn đề kinh
doanh Luật doanh nghiệp năm 1999 ra đời đánh dấu cho quá trình hoàn thiện
khung pháp luật của nước ta về các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong
giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường thì luật doanh nghiệp 1999 không


còn đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của nền kinh tế. Và để đáp ứng được
những đòi hỏi đó Luật doanh nghiệp 2005 đã ra đời, thể hiện sự thống nhất
trong việc điều chỉnh địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, thể hiện vai trò của
doanh nghiệp tư nhân so với các loại hình doanh nghiệp khác. Luật doanh
nghiệp 2005 là sự thống nhất của Luật doanh nghiệp năm 1999, Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, Luật đầu tư năm 1996 (đã được sửa đổi,
bổ sung năm 2000). Về nội dung cơ bản, Luật doanh nghiệp năm 2005 không
có nhiều thay đổi so với Luật doanh nghiệp năm 1999, nhưng những quy định
mới của Luật này quy định chi tiết, đầy đủ và toàn diện hơn, trong đó có các
quy định về địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân. Với mong muốn tìm
hiểu thêm về các quy định của Luật doanh nghiệp 2005 làm rõ địa vị pháp lý
của doanh nghiệp tư nhân đồng thời thấy được những điểm tích cực và những
mặt còn hạn chế của các quy định đó mà tôi lựa chọn đề tài “Địa vị pháp lý
của doanh nghiệp tư nhân theo luật doanh nghiệp 2005” làm đề tài tiểu luận
của mình. Việc nghiên cứu đề tài này trong giai đoạn hiện nay rất có ý nghĩa
khi Đảng và nhà nước đang có chính sách phát triển tạo điều kiện thuận lợi
hơn nữa cho việc phát triển loại hình doanh nghiệp này với những đóng góp
của nó cho việc phát triển kinh tế xã hội.
2
PHẦN NỘI DUNG
I. Khái quát về doanh nghiệp tư nhân và pháp luật về doanh nghiệp tư
nhân.
1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về doanh nghiệp tư
nhân tại Việt Nam.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nhà nước đã ban hành hàng loạt
các văn bản pháp luật thừa nhận kinh tế tư nhân và tạo khung pháp lý cho
kinh tế tư nhân nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng. Ngay sau Đại
hội hai năm tức là năm 1988 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 27/HĐTB
đã cho phép các cá thể kinh doanh đạt lợi nhuận cao được mở rộng thêm quy
mô kinh doanh trở thành công ty tư nhân hoặc kết hợp với nhau thành đơn vị

lớn hơn gọi là công ty tư doanh. Tới năm 1990 Nhà nước đã ban hành Luật
doanh nghiệp tư nhân, theo đó Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và sự
phát triển của doanh nghiệp tư nhân, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật
với các loại hình doanh nghiệp khác. Trong thời kỳ này mặc dù đã có khung
pháp lý điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp tư nhân tuy nhiên loại hình
doanh nghiệp này vẫn chưa thực sự phát triển.
Gần 10 năm sau ngày ban hành Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990, để
có thể tạo một khung pháp lý hoàn thiện hơn cho doanh nghiệp tư nhân, để
phù hợp hơn với tình hình kinh tế xã hội trong thời ký mới thì Quốc hội đã
ban hành Luật doanh nghiệp năm 1999 trong đó có quy định địa vị pháp lý
của doanh nghiệp tư nhân. Có thể nói Luật doanh nghiệp 1999 đã quy định về
doanh nghiệp tư nhân một cách khá đầy đủ và chi tiết từ cơ cấu tổ chức , trình
tự thành lập, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp cũng như chủ
doanh nghiệp tư nhân. Đó là cơ sở cho Doanh nghiệp tư nhân phát triển bình
đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác.
Bước sang thế kỷ XXI cùng với xu hướng chung của thế giới là toàn cầu
hoá và khu vực hoá, Việt Nam đang chuẩn bị những bước cuối cùng để có thể
tham gia vào sân chơi chung của thế giới về kinh tế đó là vào tổ chức thương
3
mại thế giới. Để có thể được tham gia vào sân chơi này chúng ta phải có một
hệ thống pháp luật minh bạch, rõ ràng, phù hợp với thông lệ và pháp luật thế
giới nói chung và hệ thống pháp luật về doanh nghiệp và đầu tư nói riêng. Vì
vậy, ngày 29/11/2005, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật doanh nghiệp thay
thế cho Luật doanh nghiệp năm 1990; Luật doanh nghiệp nhà nước 2003 và
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, Luật sửa đổi bổ sung năm
2000. Luật doanh nghiệp năm 2005 ra đời đã thống nhất điều chỉnh địa vị
pháp lý của các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam, không phân biệt đó là
doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hay doanh nghiệp tư nhân. Điều này
một lần nữa khẳng định vị trí vai trò của doanh nghiệp tư nhân bên cạnh các

loại hình doanh nghiệp khác.
2. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân.
2.1 Khái niệm
Trước hết, doanh nghiệp tư nhân cũng là một loại hình doanh nghiệp.
Theo đó nó cũng sẽ có những đặc điểm của một doanh nghiệp nói chung.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2005 thì “Doanh
nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng
ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh”. Bên cạnh những dấu hiệu chung để nhận biết một doanh
nghiệp, thì doanh nghiệp tư nhân cũng có những nét đặc thù mà thông qua đó
có thể phân biệt doanh nghiệp tư nhân với các loại hình doanh nghiệp khác.
Theo quy đinh tại Điều 141 Luật doanh nghiệp năm 2005 thì “ Doanh nghiệp
tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp; Doanh nghiệp
tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào; Mỗi cá nhân chỉ
được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân”. Từ định nghĩa của Luật
doanh nghiệp ta có thể thấy một số đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân.
4
2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân.
Thứ nhất, Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm
chủ.
Đặc điểm để phân biệt đầu tiên và cũng là rõ nét nhất của doanh nghiệp
tư nhân với các loại hình doanh nghiệp khác là doanh nghiệp tư nhân chỉ do
một cá nhân làm chủ. Theo quy định của pháp luật Việt Nam trước đây quy
định về các doanh nghiệp cũng như Luật doanh nghiệp năm 2005 thì doanh
nghiệp tư nhân được xếp vào nhóm doanh nghiệp một chủ cùng với doanh
nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ. Mặc dù có các loại
hình doanh nghiệp khác cũng do một chủ sở hữu nhưng doanh nghiệp tư nhân
vẫn có những đặc điểm riêng, đó là: doanh nghiệp tư nhân chỉ có duy nhất
một cá nhân làm chủ sở hữu . Vì vậy, trong doanh nghiệp tư nhân không xuất

hiện sự góp vốn giống như những công ty có nhiều chủ sở hữu, nguồn vốn
của doanh nghiệp cũng chủ yếu xuất phát từ tài sản của một cá nhân. Từ đặc
điểm trên chúng ta có thể phân tích sâu thêm một số đặc điểm liên quan tới
việc một chủ sở hữu trong doanh nghiệp tư nhân
- Vấn đề sở hữu vốn trong doanh nghiệp tư nhân
Nguồn vốn ban đầu của các loại hình doanh nghiệp là vốn điều lệ được
các thành viên cam kết góp vào công ty. Tuy nhiên, với doanh nghiệp tư nhân
thì vốn ban đầu của doanh nghiệp xuất phát chủ yếu từ tài sản của một cá
nhân, phần vốn này do chủ doanh nghiệp tự khai báo với cơ quan đăng ký
kinh doanh, đây là vốn đầu tư ban đầu của chủ doanh nghiệp. Theo quy định
tại khoản 1 Điều 142 Luật doanh nghiệp 2005 thì “Vốn đầu tư của chủ doanh
nghiệp tư nhân do chủ doanh nghiệp tự đăng ký. Chủ doanh nghiệp tư nhân
có nghĩa vụ đăng ký chính xác tổng số vốn đầu tư, trong đó nêu rõ vốn bằng
đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi và các tài sản khác, đối với vốn
bằng tài sản khác phải ghi rõ loại tài sản, số lượng và giá trị còn lại của mỗi
loại tài sản”. Như vậy, cá nhân là chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ đưa vào kinh
doanh một số vốn nhất định trong khối tài sản thuộc sở hữu của cá nhân mình
5
và theo nguyên tắc tài sản đưa vào kinh doanh đó là tài sản của doanh nghiệp
tư nhân. Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp tư
nhân có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư, việc tăng hoặc giảm vốn đầu tư
này phải được ghi chép vào sổ kế toán. Trong trường hợp giảm vốn xuống
dưới mức vốn đầu tư đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh thì phải báo
cáo với cơ quan đăng ký kinh doanh và chỉ được giảm khi cơ quan này cho
phép (theo tinh thần của khoản 3 Điều 142 Luật doanh nghiệp năm 2005). Từ
những quy định của pháp luật về vốn đối với doanh nghiệp tư nhân như vậy
nên chúng ta không thể phân biệt được đâu là vốn và tài sản của chủ doanh
nghiệp tư nhân và đâu là phần vốn và tài sản của doanh nghiệp tư nhân, trong
mọi thời điểm việc thay đổi mức vốn đưa vào kinh doanh đều có thể diễn ra,
vì vậy ranh giới giữa tài sản và vốn đưa vào kinh doanh và phần tài sản còn

lại của chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ tồn tại một cách tạm thời, tương đối hay
nói cách khác là hai phần tài sản này không có sự phân biệt rạch ròi và rõ
ràng. Đây là sự khác biệt nổi bật của chủ doanh nghiệp tư nhân với chủ sở
hữu vốn trong các loại hình doanh nghiệp khác.
- Mối quan hệ giữa quyền quản lý và quyền sở hữu
Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ đầu tư duy nhất, vì vậy, chủ
doanh nghiệp tư nhân có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan tới tổ chức
và hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời chủ doanh nghiệp tư nhân cũng là
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân. Có thể nói quyền tự
chủ trong tổ chức và hoạt động của chủ doanh nghiệp tư nhân là một ưu điểm
cua doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp tư nhân không phải chia sẻ
quyền quản lý doanh nghiệp với bất kỳ chủ thể nào, chủ doanh nghiệp có
quyền định đoạt tất cả mọi vấn đề để doanh nghiệp hoạt động tốt nhất, chủ
doanh nghiệp tư nhân có thể tự mình hoặc thuê người quản lý doanh nghiệp.
Trong trường hợp thuê người quản lý doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp tư
nhân vẫn phải tự mình chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của doanh
nghiệp dưới sự điều hành, quản lý của người được thuê. Giới hạn trách nhiệm
6
giữa chủ doanh nghiệp và người được thuê quản lý được thông qua một hợp
đồng, tuy nhiên về cơ bản chủ doanh nghiệp vẫn là người chịu trách nhiệm
chính và trực tiếp trước pháp luật và với bên thứ ba.
- Về phân phối lợi nhuận
Vấn đề phân phối lợi nhuận không được pháp luật đặt ra đối với doanh
nghiệp tư nhân, vì doanh nghiệp này chỉ có một chủ sở hữu duy nhất. Như
vậy, toàn bộ lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được sẽ thuộc về chủ doanh
nghiệp sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước và với bên thứ ba.
Lợi nhuận của doanh nghiệp cũng không phải chia cho người quản lý (nếu
chủ doanh nghiệp thuê người quản lý) trong mối quan hệ giữa chủ doanh
nghiệp với người quản lý đơn thuần chỉ là quan hệ giữa người sử dụng lao
động và người lao động, vấn đề lợi nhuận sẽ không được đặt ra trong hợp

đồng giữa chủ doanh nghiệp tư nhân với người được thuê quản lý. Lật lại vấn
đề chủ doanh nghiệp là người duy nhất được hưởng lợi nhuận cũng đồng
nghĩa là cá nhân duy nhất đó phải gánh chịu toàn bộ trách nhiệm và chịu mọi
rủi ro trong kinh doanh mà không thể chia sẻ với người khác.
Có thể nói đây là vấn đề có tính hai mặt một cách rõ nét, vấn đề không
chia sẻ lợi nhuận, không chia sẻ quyền quản lý đã thúc đẩy các nhà đầu tư lựa
chọn mô hình doanh nghiệp tư nhân, đồng thời việc không thể chia sẻ rủi ro
cũng là một điểm hạn chế lớn, là nguyên nhân khiến cho không ít nhà đầu tư
không muốn kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân.
Thứ hai: tư cách pháp lý của doanh nghiệp tư nhân
Theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005 thì doanh nghiệp tư
nhân không có tư cách pháp nhân (mặc dù luật không quy định là không có,
tuy nhiên, bốn loại hình doanh nghiệp còn lại luật đều ghi nhận là có tư cách
pháp nhân nhưng doanh nghiệp tư nhân thì luật không quy định) vì vậy, có
thể nói doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp duy nhất theo Luật
doanh nghiệp 2005 không có tư cách pháp nhân. Trước đây theo Luật doanh
nghiệp năm 1999 thì luật quy định doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh
7
không có tư cách pháp nhân vì liên quan tới quan hệ vốn và tài sản của doanh
nghiệp không độc lập với vốn và tài sản của chủ doanh nghiệp và như vậy nếu
quy định nó có tư cách pháp nhân thì nó đã trái với quy định của Bộ luật dân
sự. Tuy nhiên, theo Luật doanh nghiệp năm 2005 thì luật quy định công ty
hợp danh vẫn có tư cách pháp nhân mặc dù tài sản của công ty hợp danh với
tài sản của chủ sở hữu cũng chưa có sự tách biệt rõ ràng. Việc doanh nghiệp
tư nhân không có tư cách pháp nhân nó đã phần nào làm hạn chế hoạt động
thương mại của doanh nghiệp.
Thứ ba: Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn trước mọi
khoản nợ phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp tư nhân
Do tính chất độc lập về tài sản của doanh nghiệp không có nên chủ
doanh nghiệp tư nhân sẽ là người chịu trách nhiệm duy nhất trước mọi rủi ro

của doanh nghiệp và trách nhiệm này là vô hạn. Vấn đề này có thể hiểu là chủ
doanh nghiệp tư nhân không chỉ chịu trách nhiệm trong phần vốn đầu tư đã
đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh mà phải chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình trong trường hợp phần vốn đăng ký đầu tư không đủ để
thực hiện nghĩa vụ về tài sản với nhà nước và với bên thứ ba. Một doanh
nghiệp tư nhân khi lâm vào tình trạng phá sản thì tất cả tài sản thuộc sở hữu
của chủ doanh nghiệp tư nhân đều nằm trong diện tài sản phá sản của doanh
nghiệp.
Cũng từ tính chịu trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân mà
pháp luật quy định doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất ký loại
chứng khoán nào và chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ được thành lập duy nhất
một doanh nghiệp tư nhân.
8
II. Pháp luật về hình thành và chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư
nhân
1. Đăng kí kinh doanh doanh nghiệp tư nhân
Đăng kí kinh doanh là thủ tục luật định nhằm khai sinh về mặt pháp lý
cho công ty (thừa nhận tư cách pháp lý của công ty) và công ty sẽ được đảm
bảo về mặt pháp lý kể từ khi hoàn tất thủ tục đăng kí kinh doanh.
1.1. Điều kiện đăng kí kinh doanh
Thứ nhất: về chủ thể được quyền thành lập doanh nghiệp tư nhân. Theo
quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005 thì “ Tổ chức cá nhân Việt Nam,
tổ chức cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại
Việt Nam theo quy định của luật này” (khoản 1 Điều 13 Luật doanh nghiệp
2005) trừ trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 13 của Luật doanh
nghiệp. Theo đó thì một doanh nghiệp tư nhân sẽ được đăng kí nếu như chủ
thể không rơi vào một trong các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều
13.
Thứ hai: điều kiện về vốn. Trước đây, theo Luật doanh nghiệp năm
1990 để thành lập doanh nghiệp tư nhân đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải có

vốn pháp định, đây là điều kiện bắt buộc đối với các chủ doanh nghiệp. Tuy
nhiên, đến Luật doanh nghiệp năm 1999 và bây giờ là Luật doanh nghiệp năm
2005 thì đã bỏ quy định này, mà pháp luật chỉ đòi hỏi vốn pháp định đối với
một số ngành nghề nhất định. Như vậy, để thành lập doanh nghiệp tư nhân thì
chủ doanh nghiệp không phải đáp ứng điều kiện bắt buộc về một số vốn nhất
định, số vốn ban đầu là do chủ doanh nghiệp tự khai.
Ngoài hai yêu cầu trên thì nhà đầu tư muốn đăng ký kinh doanh doanh
nghiệp tư nhân thì phải đáp ứng một số yêu cầu theo quy định của pháp luật
như đối với điều kiện về ngành nghề kinh doanh, điều kiện về tên doanh
nghiệp…
9
1.2 Trình tự và thủ tục đăng kí kinh doanh.
Doanh nghiệp tư nhân là một trong những loại hình doanh nghiệp được
Luật doanh nghiệp năm 2005 điều chỉnh, vì vậy, để đăng kí kinh doanh thì
doanh nghiệp tư nhân cũng phải tuân theo trình tự thủ tục luật định. Để đăng
ký kinh doanh doanh nghiệp tư nhân các nhà đầu tư phải thực hiện các bước
sau:
- Nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh tới cơ quan đăng ký kinh doanh có
thẩm quyền. Trong hồ sơ phải có các giấy tờ sau: giấy đề nghị đăng ký kinh
doanh theo mẫu thống nhất, bản sao chứng thực cá nhân hợp pháp, và các
giấy tờ khác nếu doanh nghiệp kinh doanh các ngành nghề có điều kiện.
- Nộp lệ phí đăng ký kinh doanh
- Sau khi nhận giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chậm nhất 30
ngày doanh nghiệp phải công bố sự ra đời của mình trên các phương tiện
thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật
Hồ sơ đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân theo quy định của
Luật doanh nghiệp bao gồm:
- Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh theo mẫu thống nhất do cơ quan đăng
ký kinh doanh có thẩm quyền quy định.
- Bản sao Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân

hợp pháp khác.
- Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật
phải có vốn pháp định.
- Chứng chỉ hành nghề của Giám đốc và cá nhân khác đối với doanh
nghiệp kinh doanh ngành, nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng
chỉ hành nghề.
10
Sau khi nhận được hồ sơ đăng kí kinh doanh thì cơ quan đăng kí kinh
doanh thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh có trách nhiệm giải quyết việc đăng kí kinh
doanh trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, nếu từ chối cấp
giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh thì phải thông báo cho người thành lập
công ty biết. Thông báo phải nêu rõ lý do và yêu cầu sửa đổi, bổ sung. Khi
đăng kí kinh doanh doanh nghiệp được ghi tên vào sổ đăng kí kinh doanh và
được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Kể từ thời điểm đó doanh
nghiệp có tư cách chủ thể kinh doanh và được tiến hành các hoạt động nhân
danh công ty
2. Chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư nhân
2.1 Giải thể doanh nghiệp tư nhân
Giải thể doanh nghiệp là việc chấm dứt sự tồn tại hoạt động của doanh
nghiệp. Giải thể doanh nghiệp trước hết là quyền của các thành viên của
doanh nghiệp. mặt khác doanh nghiệp còn bị giải thể trong những trường hợp
do pháp luật quy định.
Doanh nghiệp tư nhân cũng chịu sự điều chỉnh của quy chế giải thể
doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp. Theo quy định tại Điều
157 Luật doanh nghiệp thì doanh nghiệp tư nhân giải thể trong các trường hợp
sau: Thứ nhất, theo quyết định của chủ doanh nghiệp tư nhân; thứ hai, doanh
nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
Tại Điều 158 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định về thủ tục giải thể
doanh nghiệp tư nhân, theo đó thì doanh nghiệp tư nhân giải thể gồm những

bước sau: bước một: chủ doanh nghiệp tư nhân quyết định giải thể doanh
nghiêp; bước hai, chủ doanh nghiệp trực tiếp tổ chức thanh lý tài sản; bước
ba, trong thời hạn 7 ngày làm việc phải tiến hành gửi quyết định giả thể tới cơ
quan đăng ký kinh doanh và thông báo tới tất cả những người có quyền và lợi
ích liên quan; bước bốn,trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ khi doanh
nghiệp thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ thì chủ doanh nghiệp tư nhân phải gửi
hồ sơ về giải thể doanh nghiệp tới cơ quan đăng ký kinh, và cũng trong thời
11
hạn 7 ngày cơ quan đăng ký kinh doanh phải xoá tên doanh nghiệp trong sổ
đăng ký kinh doanh.
2.2. Phá sản doanh nghiệp
Doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó
khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện
pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn ( theo
Điều 2 Luật phá sản năm 2004). Doanh nghiệp tư nhân là một loại hình doanh
nghiệp vì vậy khi lâm vào tình trạng phá sản thì nó sẽ được áp dụng các quy
định của Luật phá sản snăm 2004. Được áp dụng Luật phá sản năm 2004 để
giải quyết việc thanh toán nợ, doanh nghiệp tư nhân có những lợi ích nhất
định, đó là việc chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ thanh toán những khoản nợ theo
quy định của pháp luật phá sản cho đến hết tài sản hiện có của chủ doanh
nghiệp. Sau khi thủ tục phá sản chấm dứt, tuỳ từng trường hợp chủ doanh
nghiệp tư nhân có nghĩa vụ với các khoản nợ còn chưa thanh toán hết với các
chủ nợ.
3. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp tư nhân
3.1 Quyền của doanh nghiệp tư nhân
Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác doanh nghiệp tư nhân cũng
có các quyền theo quy định của pháp luật. Tại Điều 8 của Luật doanh nghiệp
năm 2005 đã quy định doanh nghiệp nói chung có 11 quyền cơ bản, theo đó
có thể khái quát các quyền của doanh nghiệp như sau:
- Doanh nghiệp tư nhân có quyền chủ động lựa chọn ngành nghề, địa bàn

đầu tư, hình thức đầu tư, chủ động mở rộng quy mô và ngành nghề kinh
doanh đồng thời doanh nghiệp tư nhân có quyền tìm kiếm thị trường, khách
hàng và kí kết hợp đồng.
- Doanh nghiệp tư nhân có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy
động vốn
- Doanh nghiệp tư nhân có quyền kinh doanh xuất khẩu và nhập khẩu
12
- Doanh nghiệp tư nhân có quyền tuyển, thuê và sử dụng lao động theo
yêu cầu kinh doanh; tự chủ kinh doanh, chủ động áp dụng phương thức quản
lý khoa học hiện đại để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh
Ngoài những quyền mang tính chất chung cho các loại hình doanh
nghiệp thì doanh nghiệp tư nhân còn có những quyền mang tính chất đặc thù,
riêng có của doanh nghiệp tư nhân đó là
Thư nhất, quyền cho thuê doanh nghiệp tư nhân
Thứ hai, quyền bán doanh nghiệp tư nhân
Thứ ba, quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh
3.2 Nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân
Cũng giống như chế định quyền của doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân
cũng có các nghĩa vụ chung của các loại hình doanh nghiệp hoạt động theo
Luật doanh nghiệp năm 2005. Theo Điều 9 Luật doanh nghiệp 2005 thì doanh
nghiêp nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng có ít nhất 7 nghĩa vụ.
13
III. Một số đề xuất và kiến nghị
Luật doanh nghiệp 2005 đã quy định tương đối hoàn thiện về địa vị pháp
lý của doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay chúng ta cần
có những quy định cụ thể và chi tiết hơn nữa đối với loại hình doanh nghiệp
này. Dưới đây tôi cũng xin đưa ra một vài đề xuất trong việc hoàn thiện các
vấn đề về địa vị pháp lý của doanh nghiệp tư nhân.
Thứ nhất, về thủ tục thành lập doanh nhiệp, tuy đã có nhiều sửa đổi để
giúp các nhà đầu tư kinh doanh tiến hành một cách nhanh chóng và thuận lợi,

thủ tục thành lập đã ngắn gọn hơn rất nhiều so với trước kia nhưng với với
nhu cầu thành lập doanh nghiệp hiện nay thì cần có một trình tự, thủ tục ngắn
gọn hơn nữa (ví dụ như có thể giảm thời gian xét duyệt hồ sơ đăng ký kinh
doanh), cần mở rộng thẩm quyền của cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện
để tạo thuận lợi hơn cho các chủ thể muốn đăng ký kinh doanh.
Thứ hai, về đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp
tư nhân không có đủ điều kiện để có tư cách pháp nhân do chế độ chịu trách
nhiệm vô hạn đối với mọi khoản nợ của doanh nghiệp. Việc không có tư cách
pháp nhân đã làm cho doanh nghiệp tư nhân gặp phải một số khó khăn nhất
định và bị hạn chế ít nhiều trong hoạt động thương mại dưới sự điều chỉnh
của pháp luật hiện hành. Nhưng với giai đoạn hiện nay, giai đoạn mà các hoạt
động thương mại diễn ra mạnh mẽ và sôi động nhất thì vấn đề không có tư
cách pháp nhân đã làm hạn chế đi nhiều quyền lợi của loại hình doanh nhiệp
này. Vì vậy, cần bổ sung thêm một số điểm quy định về vấn đề này để khắc
phục những khó khăn cho doanh nghiệp tư nhân trong quá trình tham gia vào
hoạt động thương mại. Đồng thời có thể quy định thêm một vài quyền lợi đảm
bảo cho quá trình hoạt động của loại hình doanh nghiệp này.
Thứ ba, trong quyền của doanh nghiệp tư nhân có quyền được góp vốn
vào các doanh nghiệp khác nhưng đối với doanh nghiệp tư nhân, loại hình
doanh nghiệp không có khối tài sản độc lập thì việc góp vốn vào doanh
nghiệp khác cũng là một vấn đề không phải đơn giản trong việc xử lý trách
14
nhiệm. Vấn đề này sẽ gây không ít khó khăn cho cơ quan chức năng trong
việc xác định giới hạn chịu trách nhiệm của doanh nghiệp tư nhân trong
doanh nghiệp mà nó góp vốn vào. Vậy nên việc quy định một cách cụ thể, chi
tiết hơn chế độ chịu trách nhiệm của doanh nghiệp tư nhân đối với doanh
nghiệp mà nó góp vốn vào sẽ giúp các cơ quan có thẩm quyền dễ dàng xác
định được chế độ chịu trách nhiệm khi doanh nghiệp xảy ra rủi ro, đồng thời
cũng đảm bảo được quyền lợi của doanh nghiệp nhận vốn góp và doanh
nghiệp tư nhân góp vốn.

15
KẾT LUẬN
Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp có những ưu thế riêng
được các nhà đầu tư lựa chọn làm loại hình kinh doanh cho mình. Luật doanh
nghiệp năm 1999 quy định về các vấn đề về doanh nghiệp tư nhân nhưng còn
ở một giới hạn nhất định. Từ khi Luật doanh nghiệp 2005 ra đời đã tạo rất
nhiều thuận lợi cho loại hình doanh nghiệp này phát triển. Các quy định về
doanh nghiệp tư nhân mang tính đầy đủ, hoàn thiện hơn rất nhiều.
Trong nội dung bài viết đã trình bày các vấn đề cơ bản trong quy định
của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân như khái niệm và đặc điểm doanh
nghiệp tư nhân, trình tự thành lập và đăng ký kinh doanh, quyền và nghĩa vụ,
tổ chức, giải thể, phá sản doanh nghiệp tư nhân…Từ đó có cái nhìn tổng quát
hơn trong lĩnh vực này. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà nền kinh tế
ngày càng phát triển thì yêu cầu đặt ra trong tất cả mọi lĩnh vực là cần có một
hệ thống pháp luật điều chỉnh các vấn đề phát sinh. Quá trình hội nhập nền
kinh tế tuy đặt ra nhiều thách thức nhưng cũng là mảnh đất màu mỡ cho loại
hình doanh nghiệp tư nhân phát triển. Vì vậy, việc quy định địa vị pháp lý
một cách rõ ràng, chặt chẽ đối với doanh nghiệp tư nhân không những mang
lại ý nghĩa cho các nhà đầu tư mà còn mang ý nghĩa rất lớn trong quá trình
phát triển nề kinh tế.
16
Danh mc ti liu tham kho
1. Lut doanh nghip nm 1999
2. Lut doanh nghip nm 2005
3. Cỏc bi vit úng gúp ý kin hon thin Lut doanh nghip nm 2005
4. Luật doanh nghiệp nhà nớc 2003 (hết hiệu lực làm tài liệu tham kho).
5. Luật đầu t nớc ngoài 1996 sửa đổi bổ sung năm 2000.( hết hiệu lực làm
tài liệu tham kho).
6. Giỏo trỡnh lut thng mi Trng i hc Lut H n i _ Nxb Cụng an
Nhõn dõn 2007

17
18

×