Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Sự hình thành và phát triển quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa[

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (956.5 KB, 110 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






KHUẤT THỊ VANG



SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN QUAN ĐIỂM CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA





LUẬN VĂN THẠC SĨ





Hà Nội, 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN








KHUẤT THỊ VANG



SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN QUAN ĐIỂM CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội Khoa học
Mã số: 60.22.03.08



LUẬN VĂN THẠC SĨ


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Đức Bách




Hà Nội, 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự

hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Đức Bách. Các số liệu, tài liệu tham
khảo trong luận văn đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2014
Tác giả luận văn



Khuất Thị Vang















Nhân dịp luận văn được hoàn thành, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất
tới các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức trong suốt thời gian
em học tập và rèn luyện tại trường. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới
PGS. TS Nguyễn Đức Bách, người đã trực tiếp hướng dẫn em thực hiện đề tài
này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình, bạn bè đã

động viên, giúp đỡ em trong suốt thời gian qua.
Do những hạn chế về mặt nhận thức, luận văn không tránh khỏi thiếu
sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các quý thầy cô và các bạn để luận
văn hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2014
Tác giả luận văn

Khuất Thị Vang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 7
6. Đóng góp của luận văn 8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 8
8. Kết cấu của luận văn 8
Chương 1: TÍNH TẤT YẾU HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 9
1.1 Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa 9
1.1.1 Kinh tế thị trường 9
1.1.2 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 15
1.2 Bối cảnh quốc tế, trong nước và nhu cầu phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa 26
1.2.1 Bối cảnh quốc tế 26
1.2.2 Bối cảnh trong nước thời kỳ 1975 – 1985 29
1.2.3 Nhu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam 31
1.3 Bước đầu hình thành quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 33
Chương 2: SỰ PHÁT TRIỂN QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN 49
2.1 Sự phát triển quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa 49
2.1.1 Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam lần đầu tiên khẳng định về “nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” 49
2.1.2 Đại hội X và XI, Đảng ta tiếp tục hoàn thiện “thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” 53
2.2 Khái quát đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam 65
2.3 Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa 72
2.3.1 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, xây dựng,
hoàn thiện hệ thống lý luận về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. 74
2.3.2 Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, các cơ chế,
chính sách và các công cụ quản lý thị trường. 76
2.3.3 Các giải pháp định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các loại thị trường
cụ thể 77
2.3.4 Từng bước xây dựng và hoàn thiện cơ chế vận hành nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ Trung ương đến cơ sở. 84
2.3.5 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý vĩ mô của
nhà nước trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . 86
KẾT LUẬN 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (12 -
1986) đã mở ra một thời kỳ mới – thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, có ý
nghĩa trọng đại và sâu sắc đối với vận mệnh của Dân tộc ta và Đảng ta.
Các quan điểm đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo thời gian,
tiếp tục được phát triển, hoàn thiện tại các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc, các
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương. Một trong những nội dung đổi mới
quan trọng được Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam quan tâm xây dựng,
phát triển, đó là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đất nước chúng ta đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
“Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình
trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt” [38, tr. 20].
Điều đó chứng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng là hoàn toàn đúng đắn. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu, còn không ít khó khăn, thách thức. “Kinh tế
phát triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp; chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm; các
cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc; chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý”
[38, tr. 17] và “Thể chế kinh tế thị trường … vẫn là những điểm yếu cản trở
sự phát triển” [38, tr. 18].
Đóng góp to lớn vào thành công bước đầu công cuộc đổi mới, đưa
đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển chính là đổi mới tư duy lý luận
trong đường lối của Đảng, xét về mặt kinh tế, đó là chuyển đổi từ nền kinh
tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Tuy vậy, từ nhận thức cho đến hoạt động để từng bước hình thành và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vẫn
2


còn nhiều vấn đề hạn chế, thiếu sót, thậm chí còn những nhận thức và cách làm
khác nhau, … (kể cả một số ý kiến chưa an tâm, chưa tán thành việc có thể định
hướng xã hội chủ nghĩa cho kinh tế thị trường).
Do vậy, tiếp tục góp phần làm rõ hơn chủ yếu về nhận thức và một
phần về hoạt động thực tiễn của quá trình hình thành và hoàn thiện dần “kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” ở nước ta là một việc làm có ý
nghĩa cấp thiết. Với mong muốn góp phần nhỏ bé vào công việc có ý nghĩa
cấp thiết đó, tôi chọn đề tài “Sự hình thành và phát triển quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” làm
luận văn thạc sĩ chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học. Hy vọng đây sẽ là
một đóng góp nhỏ vào quá trình nghiên cứu lý luận nói riêng và sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng và dân tộc ta nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, với tinh thần
nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đánh giá đúng sự thật thì vấn đề đổi
mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội, về kinh tế xã hội chủ nghĩa được đặt
ra cấp thiết. Đã có nhiều tác giả và tập thể tác giả, nhiều công trình nghiên
cứu, bài viết về vấn đề này. Có thể điểm qua một số công trình:
“Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của PGS. TS. Nguyễn Đức
Bách, Nxb Lao động, Hà Nội, 1998. Trên cơ sở lý luận và phương pháp luận
của Lênin khi phân tích về tên nước “cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết” -
ngay từ thời kỳ quá độ chỉ có ý nghĩa mục tiêu, định hướng, quyết tâm, … đi
tới, tác giả đã đề cập những nhận thức cơ bản về “định hướng xã hội chủ
nghĩa” – đó là một quá trình định hướng của Đảng, Nhà nước trên tất cả các
lĩnh vực cụ thể ở Việt Nam để cả quá trình xây dựng đất nước không chệch
khỏi mục tiêu cuối cùng là chủ nghĩa xã hội của Việt Nam – với mục tiêu
chung “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, …”.
3


“Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới” của GS. Trần Nhâm, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004. Tác giả trên cơ sở nghiên cứu vấn đề đổi
mới tư duy lý luận của Đảng ta trong bối cảnh thời đại, trong mối quan hệ với
toàn cầu hóa và những thách thức đặt ra, cũng như trong mối tương quan giữa
chủ nghĩa Mác – Lênin với thời đại hiện nay. Để từ đó, nghiên cứu, xem xét
và tổng kết đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và đổi mới tư duy lý
luận về kinh tế của Đảng ta.
“Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta của TS. Nguyễn Đức Tài, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005. Tác giả đã khảo sát quá trình đổi mới tư
duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội. Trên cơ sở đó nghiên cứu sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta trong
các lĩnh vực cụ thể, nhất là tư duy mới về kinh tế. Từ đó, chứng minh việc
đổi mới tư duy lý luận là tất yếu để phát triển đất nước trong bối cảnh mới
của thực tiễn.
“Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986 - 2005” do
tập thể tác giả Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng
(chủ biên), Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2006. Đây là cuốn sách tập hợp sự
đóng góp của rất nhiều nhà nghiên cứu, là một công trình nghiên cứu có uy tín
với sự tổng kết những hạn chế và thành tựu trong công cuộc đổi mới tư duy lý
luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
mà một trọng tâm lớn là tư duy kinh tế từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI. Đồng thời, chỉ ra những hạn chế trong nhận thức, tư duy về chủ nghĩa
xã hội trước đổi mới. Các tác giả đi vào khảo sát vấn đề đổi mới tư duy lý
luận trong từng lĩnh vực cụ thể. Để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và
yêu cầu tiếp tục đổi mới toàn diện theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa đất
nước vào thời kỳ phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tác giả Trịnh Quốc Tuấn chủ nhiệm đề tài: “Kết hợp tăng trưởng kinh
tế với tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta” đã phân tích những thành tựu,
4


tác động và thách thức của tăng trưởng kinh tế và của công bằng xã hội trong
đổi mới, đồng thời đề đạt một số phương hướng, quan điểm, giải pháp kết hợp
tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong những năm tới (2001 –
Học viện Chính trị Quốc gia, Hà Nội).
Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc: “Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường kinh nghiệm của Trung
Quốc, kinh nghiệm của Việt Nam”, 2003, nêu rõ sự tương đồng về bản chất,
mục tiêu, … giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt
Nam đang xây dựng và kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. Cả
hai nước xây dựng nền kinh tế thị trường trên tinh thần nhất quán là thực hiện
công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển kinh tế.
“20 năm đổi mới và sự hình thành thể chế kinh tế thị trường” của
PGS.TS Nguyễn Cúc. Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2005. Tác giả đã phân
tích, đánh giá những thành tựu, hạn chế của sự nghiệp đổi mới đất nước; quá
trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó đã rút ra những bài học kinh
nghiệm, xác định rõ những bước đi tiếp theo là nhiệm vụ và đỏi hỏi vừa mang
tính cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Bên cạnh đó còn có rất nhiều những luận án, luận văn nghiên cứu về
quá trình đổi mới tư duy, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như: Luận án Phó tiến sĩ khoa học
kinh tế của Trần Anh Tài năm 1996 viết về “Vai trò quản lý của Nhà nước
trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”. Luận án đã
đề cập đến vai trò quản lý của Nhà nước trong quá trình chuyển sang nền kinh
tế thị trường và nêu ra một số giải pháp nhằm giữ vững vai trò định hướng
của Nhà nước trong phát triển nền kinh tế thị trường.
Luận văn Thạc sĩ của Quách Thị Hà năm 2006 viết về “Thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”. Luận văn đã nêu lên
5


quá trình hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam và đề xuất một số giải pháp để tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn Thạc sĩ Triết học của Đoàn Thị Thu Hương năm 2012 viết về
“Đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1986 đến nay”.
Luận văn đã nêu lên quá trình đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt
Nam, những thành tựu, hạn chế và đề xuất một số giải pháp để tiếp tục hoàn
thiện tư duy kinh tế của Đảng.
Ngoài ra, còn có rất nhiều bài viết trên các tạp chí khoa học như: “Kinh
tế thị trường qua các bước đổi mới tư duy” của tác giả Hà Đăng được đăng
trên Tạp chí Cộng sản, số 127 (4 - 2007). Tác giả đã khái quát từng bước quá
trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về kinh tế thị trường qua các kỳ Đại
hội Đảng từ Đại hội Đảng VI đến Đại hội lần thứ X của Đảng ta.
Bài viết “Vận dụng tư tưởng của V. I. LêNin trong đổi mới kinh tế ở
Việt Nam” của PGS. TS. Nguyễn Đức Bách đăng trên Tạp chí Tuyên giáo, số
4 năm 2008; GS.TS Chu Văn Cấp với bài viết: “Định hướng xã hội chủ nghĩa
nền kinh tế thị trường ở nước ta” được đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 71
năm 2004; TS. Lê Xuân Bá có bài: “Về xây dựng thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí Cộng sản, số 4
năm 2006; GS.TS. Nguyễn Phú Trọng với bài viết: “Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa: Quan niệm và giải pháp phát triển” đăng trên Tạp
chí Cộng sản, số 1 (122) năm 2007; GS.TS. Nguyễn Đình Kháng có bài:
“Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/ 2007; GS.Viện sĩ Nguyễn Duy Quí
trong Tạp chí Lý luận Chính trị có bài: “Công bằng xã hội trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đăng trên Tạp chí Lý luận
chính trị, số 11/ 2007; PGS.TS. Nguyễn Viết Thảo với bài viết: “Mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị” đăng trên Tạp chí Lý luận
6


chính trị, số 5/2010; PGS.TSKH. Lương Đình Hải viết bài: “Mấy vấn đề về
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay” đăng trên Tạp chí
Triết học, số 7 (230) năm 2010; PGS, TS. Ngô Quang Minh với bài viết:
“Quá trình đổi mới nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường” đăng trên Tạp
chí Cộng sản, số ra ngày 28/ 12/ 2011.
Qua các công trình nghiên cứu, các tác giả đều cho rằng, cách tư duy
máy móc, siêu hình, chủ quan, duy ý chí, đặc biệt trong tư duy kinh tế là
nguyên nhân cản trở quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do vậy,
việc phải đổi mới tư duy lý luận là yêu cầu tất yếu. Đồng thời các bài viết, các
công trình nghiên cứu cũng nhận định quá trình đổi mới phải dựa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Cần bổ sung và phát
triển những thành tựu lý luận đã đạt được để đổi mới phương pháp tư duy,
khắc phục lối tư duy kinh nghiệm. Các tác giả chỉ ra trong quá trình đổi mới,
cần phải bám sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn, từ đó phát triển lý luận.
Như vậy, nghiên cứu quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được nhiều tác giả đề cập đến, thể
hiện trong các công trình nghiên cứu và bài viết. Tuy nhiên, nghiên cứu sự
hình thành và phát triển quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như một công trình khoa học hoàn
chỉnh, có tính hệ thống, đến nay chưa có tác giả nào thực hiện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu làm sáng tỏ sự hình thành và phát triển quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu làm rõ khái niệm “thị trường”, “kinh tế thị trường”, “kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và sự khác nhau giữa hai khái
niệm “kinh tế thị trường”, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
7


+ Nghiên cứu làm rõ tính tất yếu phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
+ Nghiên cứu làm rõ quá trình hình thành quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Nghiên cứu làm rõ quá trình phát triển, hoàn thiện quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Nêu được những vấn đề đang đặt ra đối với tư duy lý luận về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Sự hình thành và phát triển quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phạm vi nghiên cứu:
Chủ yếu là nghiên cứu các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam,
trong đó có quan điểm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thời gian nghiên cứu: từ 1986 đến nay (từ Đại hội VI đến Đại hội XI
của Đảng).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là các nguyên lý của chủ nghĩa duy
vật biện chứng về nhận thức và tư duy.
- Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp phân tích – tổng hợp, lịch sử - logic,
các phương pháp chọn lọc – hệ thống hóa và khái quát, … được sử dụng đan
xen để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
8

6. Đóng góp của luận văn
Luận văn hệ thống hóa và phân tích ở góc độ triết học chính trị - xã hội

đối với quá trình hình thành, phát triển quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời Luận văn
đóng góp vào việc đề xuất những vấn đề đang đặt ra và một số giải pháp tiếp
tục hoàn thiện quan điểm về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa của Việt Nam.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận
Luận văn khẳng định được ý nghĩa, tầm quan trọng trong đổi mới tư
duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ có lý luận đúng đắn, soi đường, Đảng Cộng sản
Việt Nam sẽ lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, học tập cho học viên, sinh viên
các học viện, viện, trường đại học và các nhà nghiên cứu lý luận; làm tài liệu
tham khảo trong quá trình thực hiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn kết cấu thành 2 chương 6 tiết.








9

Chương 1: TÍNH TẤT YẾU HÌNH THÀNH QUAN ĐIỂM CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1 Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa
1.1.1 Kinh tế thị trường
1.1.1.1 Khái niệm kinh tế thị trường
Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội cho thấy, hình thức kinh
tế đầu tiên của loài người là kinh tế tự nhiên, kế tiếp là nền kinh tế tự cung,
tự cấp - nền kinh tế, trong đó sản phẩm làm ra chủ yếu nhằm thỏa mãn nhu
cầu cá nhân của người sản xuất. Người sản xuất tự quyết định về loại sản
phẩm (do các yếu tố tự nhiên, tập quán quy định), số lượng sản phẩm (theo
nhu cầu của bản thân họ) và sản xuất của mình. Sự trao đổi sản phẩm với
nhau rất hạn chế chủ yếu dưới các hình thức đơn giản nhất, trao đổi trực tiếp
sản phẩm với nhau.
Kinh tế hàng hóa là sự phát triển trực tiếp từ kinh tế tự cung, tự cấp,
trên cơ sở có phân công lao động và năng suất lao động ngày càng cao của
nền kinh tế đã phát triển và qua tiến trình lịch sử. Sản xuất hàng hóa không
phải để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra hàng hóa đó, mà để
trao đổi nhằm thỏa mãn nhu cầu của người mua thông qua “vật trung gian”
mang ý nghĩa tiền tệ. Vì vậy loại sản phẩm, số lượng sản phẩm suy cho cùng
là do người mua quyết định, việc trao đổi sản phẩm được thực hiện thông qua
quan hệ thị trường (quan hệ Hàng – Tiền). Đó chính là kiểu tổ chức kinh tế -
xã hội, trong đó quan hệ giữa người với người thông qua trao đổi hàng hóa
trên “thị trường hàng hóa – tiền tệ”.
Có thể nói, kinh tế hàng hóa ra đời và phát triển thì thị trường cũng xuất
hiện và phát triển, nhưng không phải hễ có thị trường là có “kinh tế thị trường”.
Thị trường là một phạm trù của nền sản xuất hàng hóa, nó ra đời và phát
triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Kinh tế hàng hóa ra đời thì
10

thị trường xuất hiện và cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa, thị trường
được mở rộng phong phú và đồng bộ, các quan hệ thị trường ngày càng hoàn thiện.

“Thị trường” với định nghĩa tổng quát “là sự biểu hiện thu gọn của quá
trình, mà thông qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng các mặt
hàng nào, các quyết định của các công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như thế
nào và các quyết định của cá nhân về việc làm bao lâu, cho ai đều được dung
hòa bằng sự điều chỉnh của giá cả” [11, tr. 41].
Theo nghĩa hẹp “thị trường là tập hợp các sự thỏa thuận, thông qua đó người
mua và người bán tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hóa và dịch vụ” [11, tr. 44].
Tác giả luận văn tán thành và kế thừa sự khái quát gọn về thực chất của
khái niệm “thị trường” trên đây.
“Kinh tế thị trường” là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa,
trong đó sản xuất chủ yếu để trao đổi, gắn với sự phát triển ngày càng cao của
phân công lao động và trình độ chuyên môn hóa. Không gian thị trường đã
được mở rộng cho sự lựa chọn, tư duy giá trị, hiệu quả trở nên phổ biến.
Trong nền kinh tế thị trường, quyền tự do, bình đẳng giữa mọi thành phần
kinh tế được tôn trọng và các chủ thể kinh tế chịu sự điều tiết của các quy luật
thị trường, thái độ ứng xử của họ là hướng vào tìm kiếm lợi ích của chính
mình trên thị trường theo sự dẫn dắt của giá cả.
Vậy “kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế dựa trên cơ sở đa dạng
các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh. [43, tr.70].
Theo tác giả Ngô Đình Giao thì, “Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường. Đến lượt nó, cơ chế thị trường là tổng thể các
nhân tố, quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi phối của các quy luật thị trường
trong môi trường cạnh tranh, nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nhân tố cơ bản của cơ
chế thị trường là cung – cầu và giá cả thị trường” [69, tr. 11].
11

Qua phân tích một số quan điểm của các tác giả đã công bố về “kinh tế
thị trường”, tác giả luận văn mạnh dạn đưa ra quan điểm của mình về “kinh tế
thị trường” như sau:

Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, gắn
với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. Các hoạt động kinh tế gắn
chặt với nhau thông qua thị trường. Lực lượng sản xuất xã hội ngày càng phát
triển, trình độ phân công lao động xã hội ngày càng cao, thì các quan hệ thị
trường cũng ngày càng được mở rộng và trở nên phức tạp. Hệ thống thị
trường quốc gia trở nên thống nhất, thông suốt và gắn kết chặt chẽ hơn với thị
trường thế giới. Các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế quan hệ bình đẳng
cả đầu vào và đầu ra của sản xuất và nhìn chung cả người sản xuất và người
tiêu dùng đều được hưởng lợi từ sự lệ thuộc đó.
1.1.1.2 Đặc điểm cơ bản của kinh tế thị trường
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã thể hiện rất rõ những nét đặc
trưng riêng của nó.
Một là, trong kinh tế thị trường, có ba vấn đề cơ bản do thị trường
quyết định: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? (do giá cả, lợi nhuận mách
bảo), sản xuất cho ai? (do thu nhập quyết định). Nguồn lực của xã hội được
luân chuyển, không gian thị trường được mở rộng cho sự lựa chọn. Sự vận
động của cung – cầu và cạnh tranh đã làm bộc lộ một cách thực chất sản
phẩm gì cần sản xuất, sản xuất bao nhiêu và các nguồn lực của xã hội cần
được lựa chọn, cần sử dụng như thế nào để sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng
yêu cầu của thị trường, hơn nữa nguồn lực của xã hội được lưu chuyển từ nơi
thừa sang nơi thiếu, từ nơi có hiệu quả thấp sang nơi có hiệu quả cao.
Trong nền kinh tế thị trường, các sản phẩm đều là hàng hóa hoặc mang
tính hàng hóa. Điều này bắt nguồn ngay từ đầu quá trình sản xuất, kinh doanh
là sản xuất để bán. Sản phẩm là hàng hóa không chỉ bao gồm sản phẩm hữu
12

hình mà còn là sản phẩm vô hình như: tri thức (bản quyền tác giả - sở hữu trí
tuệ), các dịch vụ, thông tin, bí quyết công nghệ.
Hai là, cung, cầu hàng hóa trên thị trường quyết định giá cả của hàng
hóa. Hai đại lượng cung, cầu vận động theo quy luật ngược chiều nhau và ấn

định mức giá cả người mua và người bán đều chấp nhận được.
Ba là, kinh tế thị trường gắn với tự do, tự chủ trong sản xuất kinh
doanh. Các chủ thể kinh doanh có quyền tự do kinh doanh do cung – cầu thị
trường tác động và chi phối. Khi có cầu ắt có cung, các chủ thể kinh doanh
tiến hành tổ chức sản xuất, cung ứng dịch vụ để đáp ứng nhu cầu thị trường
và tìm kiếm lợi nhuận (đây là điểm rất khác biệt với mô hình kinh tế kế hoạch
hóa, sản xuất cái gì đều có “kế hoạch” đã định trước). Tuy vậy, hiểu tự do
kinh doanh đúng nghĩa là hoạt động kinh doanh những gì mà pháp luật và
Nhà nước không cấm.
Bốn là, kinh tế thị trường luôn gắn với cạnh tranh. Đặc trưng cạnh tranh
của kinh tế thị trường do nhiều nhân tố quy định. Tự do kinh doanh mưu cầu, tìm
lợi nhuận cao dẫn đến cạnh tranh, muốn chiếm giữ và mở rộng thị phần, muốn
giành chiến thắng trên thương trường cũng cần tới cạnh tranh. Cạnh tranh chính
là động lực của sự phát triển và hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Do vậy,
trong quản lý Nhà nước, cần hạn chế độc quyền, mở rộng cạnh tranh thực sự
bình đẳng.
Năm là, một hệ thống các thị trường đồng bộ, thống nhất, ngày càng
hiện đại. Hệ thống thị trường là khách quan, hệ thống thị trường phải đồng bộ,
thông suốt trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới, gồm tất cả
các loại thị trường. Thị trường vận động theo xu hướng ngày càng hiện đại,
mở rộng quy mô.
Sáu là, kinh tế thị trường là kinh tế mở. Nhờ tự do, mở cửa, không gian thị
trường được mở rộng, thị trường là một thể thống nhất thông suốt, hòa nhập thị
trường thế giới. Nguồn lực của xã hội được mở rộng không chỉ ở trong nước mà
13

cả thế giới. Trong điều kiện của xu hướng toàn cầu hóa, mỗi quốc gia có thể tìm
thấy lợi thế của mình trong quan hệ đa phương. Đối với các nước kém và đang
phát triển, mở cửa hội nhập là xu hướng tất yếu để có thêm nguồn lực cho sự
phát triển: vốn, công nghệ, thị trường, quản lý, mặt khác cũng đặt ra những yêu

cầu mới cao hơn, có cả cơ hội và thách thức. Điều quan trọng là phải có chiến
lược đúng, biết chuẩn bị về nội lực để tiếp thu một cách có hiệu quả nguồn lực từ
bên ngoài.
Bảy là, kinh tế thị trường gắn liền với sự tồn tại của nhiều thành phần kinh
tế, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh. Kinh tế thị trường bản thân nó là một
nền kinh tế xã hội hóa gắn liền với chế độ sở hữu đa dạng, nhiều loại hình sản
xuất kinh doanh, nhiều loại quy mô. Sự đa dạng về sở hữu, loại hình quy mô tạo
điều kiện để giải phóng sức sản xuất xã hội, nhằm khai thác có hiệu quả mọi
tiềm năng. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò định hướng, điều chỉnh nền kinh tế.
Kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác làm cho nền kinh tế năng động. Kinh tế hợp tác
sẽ là hình thức phổ biến hỗ trợ các hoạt động kinh tế, tăng sức mạnh của các tác
nhân kinh tế.
* Mặt tích cực của nền kinh tế thị trường
Thứ nhất, có tính năng động và thích ứng cao do đòi hỏi của thị trường.
Ưu thế này bắt nguồn từ tự do kinh doanh, từ sự lựa chọn của thị trường. Ở đâu
có cầu, ở đó ắt có cung. Vai trò của người tiêu dùng đặc biệt quan trọng. Các
doanh nghiệp, các nhà cung cấp dịch vụ phải đáp ứng với tính năng động, nhạy
cảm của thị trường, ngược lại, sẽ mất cơ hội kiếm lợi nhuận và phát triển.
Thứ hai, hiệu quả do cạnh tranh chi phối và mục tiêu lợi nhuận là tối
đa, các chủ thể kinh doanh, dịch vụ buộc phải tìm mọi phương sách trong việc
đổi mới công nghệ, lựa chọn các đầu vào sao cho tối thiểu hóa chi phí, nhờ
vậy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nhu cầu sản phẩm hàng hóa, dịch vụ và thị trường luôn mở rộng giúp
nền kinh tế luôn có cơ hội phát triển. Tuy vậy, cơ hội biến thành hiện thực
14

còn tùy thuộc vào năng lực quản lý của Nhà nước, tùy thuộc sự kết hợp giữa
bàn tay hữu hình với bàn tay vô hình.
* Mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường
Với đặc trưng cơ bản là dân chủ hóa, tự do cá nhân, coi trọng động lực

lợi ích, do đó dễ cường điệu lợi ích cá biệt, phá vỡ những cân đối chung,
những cân đối tổng thể của nền kinh tế, coi trọng lợi ích kinh tế dễ bỏ qua
những vấn đề xã hội, môi trường. Thị trường là cạnh tranh, sẽ có kẻ thắng
người thua, nhưng thị trường không bảo vệ những người chiến bại. Cạnh
tranh sớm muộn cũng dẫn đến độc quyền với những tác hại khôn lường; bóp
méo sự vận động của quy luật cung, cầu, giá cả. Kinh tế thị trường gắn liền
với những thử thách về đạo đức, nhân cách, yếu tố văn hóa truyền thống của
con người và trong quan hệ của con người với tự nhiên.
Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường nói chung sẽ bảo đảm các
mục tiêu cơ bản của hệ thống kinh tế là tăng trưởng, hiệu quả và công bằng.
Tuy nhiên, do bản chất của nó, nền kinh tế thị trường luôn kèm theo một loạt
tiêu cực (nhiều người còn gọi là thất bại của kinh tế thị trường hoặc các khả
năng phi hiệu quả của kinh tế thị trường) dưới góc độ kinh tế học, các mặt
tiêu cực của kinh tế thị trường bao gồm:
Thứ nhất, xu hướng độc quyền trên những thị trường có điều kiện. Xu
hướng độc quyền là xu hướng gắn liền với kinh tế thị trường. Độc quyền có
thể có những nguyên nhân khác nhau: độc quyền tự nhiên, độc quyền do Nhà
nước cho phép hoặc chủ trương. Trong mọi trường hợp, nếu các doanh nghiệp
và nhà cung cấp dịch vụ độc quyền sẽ chỉ mang lại lợi ích cho họ, còn người
tiêu dùng và xã hội phải chịu thiệt về lợi ích. Do vậy Nhà nước phải trực tiếp
tham gia điều tiết độc quyền. Ngoài ra, để chống tác hại của độc quyền, Nhà
nước phải ban hành luật khuyến khích cạnh tranh, chống độc quyền.
Thứ hai, các hàng hóa, dịch vụ có ngoại ứng, khi sản xuất, cung ứng
hoặc tiêu dùng sẽ ảnh hưởng gián tiếp đến xã hội (ví dụ gây ô nhiễm môi
15

trường), gây tác hại cho xã hội, ảnh hưởng đến môi trường sản xuất và sinh
hoạt chung của dân cư, xã hội.
Thứ ba, đối với các hàng hóa, dịch vụ công cộng – nhóm hàng hóa, dịch
vụ có đặc thù do tính chất đặc biệt của nó, phải được cung ứng với giá rẻ

(thường Nhà nước phải trực tiếp cung ứng hoặc trực tiếp đặt hàng cho hàng hóa
công cộng). Những hàng hóa, dịch vụ này gây nên tình trạng hoặc là không có ai
đặt hàng sản xuất, dịch vụ dẫn đến thiếu thốn hoặc được sử dụng bừa bãi, không
hiệu quả.
Thứ tư, đối với các hàng hóa thiếu thông tin thị trường, cả về phía
người cung cấp hoặc phía người tiêu dùng đều dẫn đến tình trạng cung, cầu
quá cao hoặc quá thấp so với thực tế, làm giảm hiệu quả xã hội.
Ngoài ra, xét trên bình diện xã hội, có thể kể thêm một số tiêu cực sau
đây của nền kinh tế thị trường.
Tạo ra sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập với xu hướng ngày
càng tăng trong giai đoạn đầu phát triển.
Do chỉ chạy theo lợi nhuận nên chỉ chú ý đến đầu tư vào các lĩnh
vực có thu nhập cao, bỏ qua nhiều mặt hàng, dịch vụ cần thiết khác do lợi
nhuận thấp.
Cạnh tranh, phá sản dẫn đến mất cân đối vĩ mô ngắn hạn, gây ra những
hậu quả tiêu cực về xã hội như thất nghiệp, lạm phát.
Động cơ lợi nhuận dễ dấn đến các hành vi vi phạm pháp luật như lừa
đảo, làm hàng giả, hủy hoại môi trường, tham nhũng, hối lộ, tệ nạn xã hội.
Nhận thức đúng đắn, đầy đủ về mặt lý luận nền kinh tế thị trường,
những đặc trưng, mặt tích cực và tiêu cực của nó có ý nghĩa rất quan trọng đối
với mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
1.1.2 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Theo học thuyết của C. Mác thì loài người phát triển từ thấp đến cao qua
các hình thái kinh tế - xã hội: Cộng sản nguyên thủy – Chiếm hữu nô lệ - Phong
16

kiến – Tư bản chủ nghĩa – Cộng sản chủ nghĩa. Nhưng xét theo tiến trình phát
triển các kiểu tổ chức sản xuất xã hội, thì mới thấy có hai loại hình là: kinh tế tự
nhiên, tự cấp, tự túc và kinh tế hàng hóa mà giai đoạn phát triển cao của nó là
kinh tế thị trường. Như thế, giữa kiểu tổ chức sản xuất xã hội và hình thái kinh tế

- xã hội không phải là một khái niệm và đồng nhất. Một kiểu tổ chức sản xuất có
thể tồn tại và phát triển trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội.
Với nhận thức của chủ nghĩa Mác thì rõ ràng điều không thể chối cãi là,
kinh tế thị trường không phải là kiểu tổ chức sản xuất riêng của chủ nghĩa tư bản
và nó càng không phải là chủ nghĩa tư bản, mà nó là kiểu tổ chức sản xuất xã
hội, là thành tựu của loài người đạt được ở giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Kế thừa những lý luận của Mác – Ăngghen, Lênin đã nói đến một thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là những
nhân tố của xã hội mới và những tàn tích của xã hội cũ tồn tại đan xen lẫn
nhau, đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, tư tưởng, tập quán trong xã hội, …
Trong giai đoạn này, chưa có một lực lượng nào thắng thế tuyệt đối, có
nghĩa là việc tiếp tục áp dụng phương thức sản xuất và phân phối cộng sản
chủ nghĩa là một sai lầm “đáng tiếc” và “ngay trong giai đoạn thấp của chủ
nghĩa cộng sản chúng ta cũng không thể đạt tới được”. Lênin đã phát triển lý
luận của Mác và nhấn mạnh việc cần thiết phải xác định xem mình đang ở
giai đoạn nào của quá trình phát triển “… danh từ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa … có nghĩa là Chính quyền Xô Viết quyết tâm thực hiện bước chuyển
lên chủ nghĩa xã hội, chứ hoàn toàn không có nghĩa là đã thừa nhận chế độ
kinh tế hiện nay là chế độ xã hội chủ nghĩa” [6, tr. 17 – 18]. Điều này có một
ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cho thấy rằng muốn duy trì được chủ nghĩa xã
hội thì cần phải có những cơ sở kinh tế, xã hội nhất định.
Vận dụng sự lý giải rất khoa học và thực tiễn mà V.I.Lênin đã để lại
cho nhân loại về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội gắn với tên nước cộng
17

hòa xã hội chủ nghĩa … cho đến nay còn nguyên giá trị: đó là việc xác định rõ
“quyết tâm” (tức là chủ trương đúng đắn của Đảng Cộng sản – mang tính định
hướng mục tiêu xa của cả quá trình xây dựng đất nước là chủ nghĩa xã hội –
chủ nghĩa cộng sản …) đi lên chủ nghĩa xã hội, chứ không phải xác định rằng:

đất nước đã trở thành một nước xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh.
Hiện nay, Việt Nam cũng đã có tên nước là “nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” có nghĩa là: chúng ta mới bắt đầu xây dựng và bảo vệ đất
nước ta theo định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam về mục tiêu xa đó là
chủ nghĩa xã hội – chủ nghĩa cộng sản … chứ không có nghĩa là hiện nay Việt
Nam đã là một nước xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh. Đó chính là một quá trình
“định hướng xã hội chủ nghĩa” thông qua sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và
quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng các chủ trương, chính sách; bằng
việc tạo điều kiện, điều chỉnh, uốn nắn, … trên tất cả các lĩnh vực hoạt động để
từng bước phát triển Việt Nam đạt tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh.
Trước đổi mới, thực trạng, hoàn cảnh và mục tiêu của nước ta được
khái quát qua đặc điểm lớn nhất của thời kỳ này là: Từ một xã hội mà nền
kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Vì thế, chúng ta đang nỗ lực tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhanh chóng hình thành một nền sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa với công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa,
khoa học, kỹ thuật tiên tiến. Quá trình đó tất yếu phải có sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, phân công lại
lao động giữa các ngành nghề, các vùng, miền và sự chuyên môn hóa lao
động ngày càng cao.
Mặt khác, từ một nền sản xuất hàng hóa nhỏ đi lên, lẽ dĩ nhiên nền kinh
tế nước ta còn tồn tại nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
Hơn nữa, trong điều kiện mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, để đáp
ứng yêu cầu đặt ra và chủ động hội nhập và cạnh tranh được trên trường quốc
18

tế, chúng ta cần và phải xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
phát triển ở trình độ cao, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó chính là nền
kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường tự do, bên cạnh những ưu điểm, còn có nhiều

nhược điểm, mặt trái không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng
ta đang xây dựng.
Mục tiêu xã hội chủ nghĩa của chúng ta là xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Để xây dựng một chế độ xã hội như thế chúng ta chấp nhận phát
triển nền kinh tế thị trường, nhưng không phải là nền kinh tế thị trường tự
do mà là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là không để cho kinh tế thị
trường phát triển tự do, tự phát mà phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự
quản lý của Nhà nước, của dân, do dân và vì dân.
Những gì là phù hợp với mục tiêu chủ nghĩa xã hội, là mặt tốt của kinh
tế thị trường, thì Nhà nước cần khai thác, phát huy, tạo điều kiện để phát triển.
Ngược lại, những gì là mặt trái của nó không phù hợp với mục tiêu xã hội chủ
nghĩa cần được hạn chế, loại bỏ.
Việc quản lý Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đảm bảo cho
kinh tế thị trường phát triển phù hợp với mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà toàn
Đảng, toàn dân ta đã lựa chọn.
Như vậy, từ một nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường
một cách tự do hay nền kinh tế thị trường tự do đến nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tất yếu phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường có những nội dung, hình thức, tính quy luật toàn cầu,
nhưng lại vừa không tách rời khỏi chế độ xã hội của mỗi quốc gia dân tộc với
những đặc thù của nó. Trong nhiều đặc tính có thể dùng làm tiêu thức để phân
19

biệt nền kinh tế thị trường này với nền kinh tế thị trường khác phải nói đến
mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước đó. Theo đó, có thể
phân chia thành nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là nền kinh tế phát triển ở trình độ
cao, trong đó những quan hệ kinh tế của thị trường và của chủ nghĩa tư bản
thâm nhập vào nhau thành một thể thống nhất.
Trong một thời gian dài chúng ta đồng nhất kinh tế thị trường với chủ
nghĩa tư bản nên không thừa nhận kinh tế thị trường. Ngày nay, quan điểm
trên đã hoàn toàn bị xóa bỏ. Thay vào đó, ta coi phát triển kinh tế thị trường là
yêu cầu tất yếu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính Lênin từng
nhận định: “Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị vật chất đầy
đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội, là nấc
thang lịch sử mà giữa nó với nấc thang được gọi là chủ nghĩa xã hội thì không
có nấc thang nào ở giữa cả” [54, tr. 258].
Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa hiện nay đang được xây dựng ở
Trung Quốc. Tại Đại hội IX (1992), Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chính
thức khẳng định: “Mục tiêu cải cách thể chế kinh tế Trung Quốc là xây dựng
thể chế kinh tế thị trường và chỉ rõ: thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
chính là làm cho thị trường phát huy được vai trò mang tính cơ sở trong việc
bố trí các nguồn lực dưới sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước xã hội chủ nghĩa,
khiến cho các hoạt động kinh tế tuân theo yêu cầu của quy luật giá trị, thông
qua chức năng của đòn bẩy giá cả và cơ chế cạnh tranh, phân phối các nguồn
lực một cách hiệu quả, tạo ra động lực và sức ép cho các doanh nghiệp, thực
hiện chọn lọc tự nhiên, lợi dụng ưu điểm của thị trường, phản ứng mau lẹ với
các tín hiệu kinh tế, thúc đẩy điều tiết kịp thời sản xuất và nhu cầu tiêu dùng”.

×