Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.24 KB, 69 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP – TỰ DO - HẠNH PHÚC
LỜI CAM ĐOAN
Tôi
xin cam đoan chuyên đề “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt nam” là sản phẩm của quá trình
tìm tòi và nghiên cứu của tôi trong suốt thời gian thực tập ở Ngân hàng Thương
mại cổ phần Công thương Việt nam. Nếu có sự vi phạm nào tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm và chịu mọi hình thức kỉ luật của trường Đại học Kinh tế Quốc
dân.
Hà Nội ngày 22 tháng 5 năm 2011
Người cam đoan
Trần Ngọc Mai
Họ và tên : Trần Ngọc Mai
Mã sinh viên : CQ491745
Lớp : Kinh tế phát triển 49B
Khoa : Kế hoạch và phát triển
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
LÝ THUYẾT VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH 2
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 2
II.Tổng quan về ngân hàng thương mại 4
II.1.Khái niệm 4
3.2.Các nhân tố bên ngoài 44
DANH MỤC VIẾT TẮT
NHTM Ngân hàng thương mại
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHCT Ngân hàng Công thương
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
ĐTNN Đầu tư nước ngoài
HĐQT Hội đồng Quản trị


DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
DNCP Doanh nghiệp Cổ phần
CAR Hệ số an toàn vốn tối thiểu
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: QUY MÔ VỐN ĐIỀU LỆ CỦA MỘT SỐ NHTM VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2007 - 2010 Error: Reference source not found
Bảng 2: QUY MÔ VỐN CHỦ SỞ HỮU CỦA MỘT SỐ NHTM LỚN
TRONG KHU VỰC ASEAN NĂM 2009 Error: Reference source
not found
Bảng 3: THỐNG KÊ HỆ SỐ CAR CỦA MỘT SỐ NHTM TỪ NĂM 2005
ĐẾN 2008 Error: Reference source not found
LỜI NÓI ĐẦU 1
LÝ THUYẾT VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH 2
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 2
II.Tổng quan về ngân hàng thương mại 4
II.1.Khái niệm 4
3.2.Các nhân tố bên ngoài 44
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1: CƠ CẤU TỔ CHỨC NHCT Error: Reference source not found
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế toàn cầu hóa ngày nay, việc nâng cao năng lực cạnh tranh để
tồn tại và phát triển bền vững đã trở thành một nhu cầu bức thiết đối với bất kỳ doanh
nghiệp nào, trong đó các ngân hàng thương mại cũng không phải là một ngoại lệ.
Là một ngân hàng với kinh nghiệm hoạt động lâu dài, Ngân hàng Công thương
Việt Nam đã nghiên cứu và phát triển nhằm nắm bắt, tận dụng những cơ hội cũng như
những thách thức từ cơ chế tự do cạnh tranh. Tuy ban lãnh đạo ngân hàng cũng đưa ra
những chiến lược cụ thể cho từng năm, từng thời kỳ, tuy nhiên cho đến nay chưa có
một nghiên cứu nào đánh giá tổng thể một cách hệ thống và chuyên sâu về năng lực
cạnh tranh của ngân hàng.
Chuyên đề thực tập với tên đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của

Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam” được thực hiện để đưa ra
những đánh giá tổng quan về năng lực cạnh tranh của ngân hàng dựa trên khung lý
thuyết, qua đó đưa ra những giải pháp kịp thời nhằm chuyển hóa cơ hội, khắc phục
những hạn chế, tồn tại giúp ngân hàng phát triển bền vững trong môi trường cạnh
tranh khốc liệt của thị trường các nhà cung cấp dịch vụ tài chính hiện nay.
Với mục tiêu đó, kết cấu chuyên đề gồm có 3 chương:
- Chương 1 cung cấp những kiến thức tổng quan về ngân hàng thương mại và các
nghiệp vụ ngân hàng thương mại, khung lý thuyết về cạnh tranh và năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng.
- Chương 2 đi sâu khảo sát và đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam qua việc thu thập số liệu về tình
hình sản xuất kinh doanh tại ngân hàng, sau đó so sánh với các ngân hàng khác trong
nước và khu vực. Tiếp đến, khung lý thuyết ở chương 1 được sử dụng để tìm ra
nguyên nhân cho những thành tựu và hạn chế trong hoạt động của ngân hàng.
- Chương 3 là những giải pháp, kiến nghị của tác giả dựa trên phân tích về những
cơ hội cũng như thách thức đối với ngân hàng trong tương lai. Để có được những giải
pháp và kiến nghị tốt nhất, tác giả đã sử dụng các nguyên nhân được phân tích từ
chương 2 và các định hướng ban đầu của ban lãnh đạo ngân hàng làm nền tảng chính
cho các kiến nghị của mình.
1
CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I.Lý thuyết về cạnh tranh
I.1. Khái niệm về cạnh tranh
Tuy cạnh tranh là vấn đề diễn ra trong khoảng thời gian dài và cũng đã được
nghiên cứu từ rất lâu, nhưng cho đến nay người ta vẫn chưa tìm ra một định nghĩa
hoàn chỉnh và thống nhất về cạnh tranh.
Theo kinh tế chính trị học: Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ
thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản

xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Cạnh tranh có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng (người sản xuất
muốn bán đắt trong khi người tiêu dùng muốn mua rẻ), giữa người tiêu dùng với nhau
để mua được hàng rẻ hơn hay giữa những người sản xuất để có những điều kiện tốt
hơn trong sản xuất và tiêu thụ.
Theo Michael Porter: Cạnh tranh là giành lấy thị phần, bản chất của cạnh tranh là
tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh
nghiệp đang có.
Tuy nhiên các quan niệm về cạnh tranh đều đồng nhất ở một số khía cạnh:
- Cạnh tranh là hiện tượng phổ biến mang tính tất yếu, là quy luật cơ bản trong
nền kinh tế thị trường.
- Cạnh tranh vừa có tác động tích cực, lại vừa có tác động tiêu cực, vừa là động
lực mạnh mẽ thúc đẩy các chủ thể kinh doanh hoạt động hiệu quả hơn nhưng nếu
không có sự kiểm soát, hạn chế thì nguy cơ dẫn đến tranh giành, giành giật, khống chế
hoàn toàn có thể xảy ra.
- Trong điều kiện hiện nay, cạnh tranh đã chuyển từ quan điểm đối kháng sang
cạnh tranh trên cơ sở hợp tác, đôi bên cùng có lợi.
- Các thủ pháp cạnh tranh hiện đại không phải chủ yếu là tiêu diệt, triệt hạ lẫn
nhau mà trên cơ sở cạnh tranh bằng chất lượng, mẫu mã, giá cả và các dịch vụ hỗ trợ.
Bởi vì khi thị trường có quá nhiều đối thủ cạnh tranh thì việc tiêu diệt các đối thủ khác
là không hề dễ dàng.
I.2. Vai trò của cạnh tranh
I.2.1. Đối với doanh nghiệp
Cạnh tranh là điều bất khả kháng đối với mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
2
trường. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản
phẩm, dịch vụ, thay đổi kiểu dáng, mẫu mã đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Cạnh
tranh khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ mới, hiện đại, tạo sức ép
buộc các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình để giảm giá
thành, nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, tạo ra các sản phẩm mới khác biệt có sức

cạnh tranh cao.
Cạnh tranh làm cho doanh nghiệp thể hiện được khả năng “bản lĩnh” của mình
trong quá trình kinh doanh. Qua quá trình cạnh tranh và đào thải gay gắt, doanh nghiệp
sẽ tìm được chỗ đứng và khẳng định được vị thế của mình trong lòng người tiêu dùng.
Cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Trong khi Việt
Nam đang xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng
XHCN có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước thì các doanh nghiệp buộc phải nằm trong
guồng quay của cạnh tranh, nếu nằm ngoài guồng quay đó, doanh nghiệp tất yếu bị
loại bỏ, không thể tồn tại.
Do đó, cạnh tranh không chỉ là yêu cầu mà còn là điều kiện tiên quyết cho sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp.
I.2.2. Đối với ngành
Thông qua cạnh tranh, các doanh nghiệp tìm được cách tận dụng những lợi thế
của mình. Xét trên phạm vi một ngành, nếu ngày càng có nhiều hơn những doanh
nghiệp nâng cao lợi thế cạnh tranh của mình thì ngành càng có cơ hội mở rộng và phát
triển. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, lĩnh vực tài chính càng ngày
càng phải năng động hơn để đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của mỗi người
dân, các tổ chức kinh tế cũng như toàn nền kinh tế quốc dân.
I.2.3. Đối với nền kinh tế quốc dân
Cạnh tranh không chỉ là môi trường và động lực của sự phát triển nói chung, thúc
đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng năng suất lao động mà còn là yếu tố quan
trọng làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, cạnh tranh góp phần giáo
dục tính năng động và khả năng thích nghi của doanh nghiệp. Không chỉ có vậy, cạnh
tranh góp phần gợi mở những nhu cầu mới của xã hội thông qua sự xuất hiện của
những sản phẩm mới.
Xét trên các mặt khác của nền kinh tế, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, sự phân công lao động ngày càng rõ ràng.
Tuy nhiên nếu sự cạnh tranh này là không lành mạnh sẽ dẫn đến các hành vi vi
phạm pháp luật, làm ảnh hưởng đến các công ty làm ăn chính đáng, nếu không được
3

ngăn chặn kịp thời thì sẽ làm giảm sự lành mạnh và phát triển của toàn nền kinh tế.
I.2.4. Đối với thị trường các sản phẩm
Nhờ có cạnh tranh mà sản phẩm sản xuất ra ngày càng được nâng cao về chất
lượng, phong phú về chủng loại, mẫu mã, kích cỡ, giúp cho lợi ích của người tiêu
dùng và của doanh nghiệp tăng lên đáng kể.
Với những ý nghĩa trên, cạnh tranh là không thể thiếu và cạnh tranh lành mạnh
cần được khuyến khích và bảo vệ thích đáng từ Nhà nước để có thể thực sự tao ra
những nhà doanh nghiệp giỏi và đồng thời tạo ra động lực thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, đảm bảo công bằng xã hội.
II. Tổng quan về ngân hàng thương mại
II.1. Khái niệm
Theo Luật các Tổ chức tín dụng được Quốc hội ban hành 47/2010/QH12: “Ngân
hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng
theo quy định của luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân
hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã”.
Ngân hàng thương mại (NHTM) là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật nhằm
mục tiêu lợi nhuận.
II.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM
Theo Luật các Tổ chức tín dụng được Quốc hội ban hành 47/2010/QH12: “Hoạt
động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hay một số các
nghiệp vụ sau đây: Nhận tiền gửi, Cấp tín dụng và Cung ứng dịch vụ thanh toán qua
tài khoản”.
II.2.1. Cấp tín dụng
Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc
cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ
cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu, tạo ra phần lớn doanh thu cho ngân
hàng. Các hoạt động chủ yếu của hoạt động cấp tín dụng là

- Cho vay: là hình thức cấp, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho
khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất
định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Các ngân hàng có thể cho vay ngắn hạn (đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn) hoặc
4
cho vay dài hạn (đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và đời sống)
- Bảo lãnh: NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện
hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và
khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với một
khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một NHTM không được vượt quá một tỷ lệ nhất
định so với vốn tự có của NHTM.
- Chiết khấu: NHTM được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn
hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy
tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác
- Cho thuê tài chính: NHTM được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành
lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty
cho thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động
của công ty cho thuê tài chính.
II.2.2. Nhận tiền gửi:
Để có được nguồn tín dụng cho vay buộc các ngân hàng phải huy động được tiền.
Khi nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt tăng lên, ngân hàng trở thành đầu mối
nghiệp vụ mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng
cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư.
Theo Luật các tổ chức tín dụng thì “Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của
tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi
tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận
tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền
theo thỏa thuận”.
Tiền gửi thanh toán (còn gọi là tiền gửi giao dịch) là tiền của doanh nghiệp hay

cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Ngân hàng mở tài
khoản tiền gửi thanh toán (tài khoản có thể phát séc) cho khách hàng. Yêu cầu của
ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư. Ngày nay,
để cạnh tranh với nhiều loại hình tổ chức tín dụng khác, các ngân hàng đưa ra nhiều
biến tướng của tài khoản thanh toán như kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài
khoản cho vay (thấu chi – chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh toán).
Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: Các khoản thu bằng
tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian nhất
định. Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh
toán để áp dụng đối với loại tiền gửi.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập
5
tạm thời chưa sử dụng. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm các ngân hàng
đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà, bằng
cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất
cạnh tranh hấp dẫn. Sổ tiết kiệm không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song
có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.
II.2.3. Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản
Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện thanh
toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu,
thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua
tài khoản của khách hàng.
Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt như an toàn, nhanh chóng, chính
xác, tiết kiệm chi phí đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập
cho khách hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi thanh toán qua ngân hàng
được mở rộng, càng tạo nhiều tiện ích hơn. Cùng với sự xuất hiện và phát triển của
công nghệ thông tin, bên cạnh các thể thức thanh toán như séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu,
L/C … đã phát triển các hình thức thanh toán mới bằng thẻ, thanh toán qua Internet
hay qua điện thoại.
Ngày nay, dựa trên kinh nghiệm tài chính đã tích lũy được và để gia tăng lợi

nhuận và mở rộng phạm vi phục vụ, tăng thị phần các ngân hàng đã triển khai nhiều
dịch vụ đi kèm với các hoạt động chính. Sau đây là một số những dịch vụ đi kèm nổi
bật đang được tiến hành chủ yếu trên thị trường các ngân hàng Việt Nam:
Mua bán ngoại tệ
Một trong các dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua bán)
ngoại tệ: mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ.
Quản lý ngân quỹ
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều
cá nhân. Nhờ đó ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do
có kinh nghiệp trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân
hàng đã cung cấp cho khách dịch vụ quản lý ngân quỹ trong đó ngân hàng đồng ý
quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh, tiến hành đầu tư phần thặng dư
tiền mặt tạm ứng vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn, cho đến khi
khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Nhằm bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản
xuất và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua. Nhiều
ngân hàng cho khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông
qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với
6
điều kiện khách hàng phải trả tới hơn 70% hay 100% giá trị của tài sản cho thuê. Cho
thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng
trung và dài hạn.
Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn
Do phục vụ trong lĩnh vực tài chính các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về
quản lý tài chính, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và
quả lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác phát triển sang cả vay, ủy thác cho vay
hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư… Nhiều ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư,
về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán và sáp nhập doanh nghiệp……
Cung cấp dịch vụ bảo hiểm

Các ngân hàng liên doanh với các công ty bảo hiểm hay tổ chức các công ty bảo
hiểm con, ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an
sinh, tiết kiệm hưu trí… Các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng giúp đảm bảo
việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt
động, mất khả năng thanh toán.
Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Các ngân hàng bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng
cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Trong một vài trường hợp,
các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hay công ty môi giới chứng khoán để
cung cấp dịch vụ môi giới.
Bảo quản tài sản hộ
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các giấy tờ có giá và các tài sản
khác cho khách hàng trong két. Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy
tờ cầm cố hay những giấy tờ quan trọng khác của khách với nguyên tắc an toàn, bí
mật, thuận tiện. Dịch vụ này phát triển cùng với nhiều dịch vụ khác như mua bán hộ
các giấy tờ có giá cho khách, thanh toán lãi hay cổ tức hộ…
Tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng trở thành trọng
tâm chú ý của các Chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi
thu không đủ, chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân
hàng. Các ngân hàng thường mua trái phiếu chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên
tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.
III. Năng lực cạnh tranh của NHTM
III.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh của NHTM
Mặc dù có rất nhiều các công trình nghiên cứu về năng lực hay lợi thế cạnh tranh
song rất khó có thể đưa ra một định nghĩa chuẩn về khái niệm năng lực cạnh tranh
đúng cho mọi trường hợp.
7
Có quan điểm cho rằng: “Những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là những
doanh nghiệp đạt được mức tiến bộ cao hơn mức trung bình về chất lượng hàng hóa và

dịch vụ và/hoặc có khả năng cắt giảm cá chi phí tương đối cho phép họ tăng được lợi
nhuận (doanh thu – chi phí) và/hoặc thị phần”
Định nghĩa trên phần nào đã phản ánh tương đối toàn diện về năng lực cạnh tranh
của một doanh nghiệp, tuy nhiên nó không chỉ ra được nguồn gốc của khả năng cạnh
tranh này do đâu mà có, ví dụ trong trường hợp nhận được ưu đãi, hỗ trợ từ Nhà nước
trong một thời gian dài mà có khả năng cắt giảm chi phí thì có được coi là có khả năng
cạnh tranh không? Thêm vào đó, cạnh tranh là khái niệm mang tính động, trong khi
định nghĩa này đã làm cho nó mang tính tĩnh vì không phải lúc nào doanh nghiệp cũng
có khả năng cắt giảm chi phí so với đối thủ khác, có thể họ có được nguồn lao động rẻ
hay gần nguồn nguyên liệu mà giảm chi phí, tuy nhiên sau một thời gian, khi các đối
thủ cạnh tranh cải thiện kỹ thuật, nâng cao năng suất thì lúc này doanh nghiệp sẽ
không còn khả năng cạnh tranh nữa. Do vậy, một doanh nghiệp có khả năng cạnh
tranh còn là doanh nghiệp có khả năng duy trì và liên tục tăng cường khả năng cạnh
tranh của mình.
Trong cuốn sách “Lợi thế cạnh tranh của quốc gia” xuất bản năm 1990, Michael
Porter có viết “Để có thể cạnh tranh thành công, các doanh nghiệp phải có được lợi thế
cạnh tranh dưới hình thức hoặc là có được chi phí sản xuất thấp hơn hoặc là có khả
năng khác biệt hóa sản phẩm để đạt được những mức giá cao hơn trung bình. Để duy
trì lợi thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần ngày càng đạt được những lợi thế cạnh
tranh tinh vi hơn, qua đó có thể cung cấp những sản phẩm và dịch vụ có chất lượng
cao hơn hay sản xuất có hiệu quả hơn”.
Trong quan niệm này, M.Porter đã đề cập đến việc duy trì được lợi thế cạnh tranh
của doanh nghiệp trong một thời gian dài. Do đó, việc duy trì được mức lợi nhuận bám
sát với nhịp độ phát triển của thị trường phải được tiến hành thường xuyên hoặc bản
thân doanh nghiệp có thể tự thiết lập nên sự phát triển của thị trường. Việc hạ thấp giá
thành được nhắc đến ở đây có được là nhờ các biện pháp nâng cao hiệu suất, áp dụng
các công nghệ kỹ thuật cao chứ không bắt nguồn từ các biện pháp tiêu cực như cắt
giảm chi phí bảo hộ lao động, cắt giảm chi phí phúc lợi… Năng lực cạnh tranh cần
phải gắn với khái niệm phát triển bền vững, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của xã hội.
Theo tôi, năng lực cạnh tranh của NHTM là khả năng ngân hàng đó duy trì

được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình trong ngành trong một thời gian dài,
hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ với các cú sốc từ bên ngoài
và thích nghi nhanh với sự biến động khôn lường của thị trường tài chính tiền tệ
trong nước và thế giới.
8
III.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM
III.2.1. Năng lực tài chính
III.2.1.1. Vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu
Nếu ngân hàng có số vốn điều lệ và quy mô vốn chủ sở hữu lớn sẽ có một tấm
đệm phòng ngừa khi rủi ro đủ an toàn, và có tiềm năng mở rộng mạng lưới chi nhánh,
phòng giao dịch trong tương lai.
III.2.1.2. Khả năng sinh lợi của ngân hàng
Khả năng sinh lợi so với doanh thu: đo lường khả năng sinh lợi so với doanh
thu. Thông thường tỷ lệ này có thể sử dụng lãi gộp hay lãi ròng so với doanh thu nên
còn được gọi là chỉ tiêu lãi gộp hay lợi nhuận trên doanh thu nếu sử dụng lãi gộp hay
chỉ tiêu tỷ suất lãi ròng hay lợi nhuận ròng trên doanh thu nếu sử dụng lãi ròng.
Công thức:
Tỷ lệ lãi gộp =
Doanh thu ròng - Giá vốn hàng bán
Doanh thu ròng
Tỷ lệ lãi ròng =
Lợi nhuận ròng sau thuế
Doanh thu ròng
Khả năng sinh lợi so với tài sản (ROA):
Tỷ lệ này đo lường khả năng sinh lợi so với tài sản, cho biết mỗi đồng giá trị tài
sản của công ty tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận sử dụng trong công thức
tính toán có thể là lợi nhuận trước thuế hay lợi nhuận ròng sau thuế.
Tỷ lệ lãi ròng so với tài sản
(ROA)
=

Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản
Khả năng sinh lợi so với vốn chủ sở hữu (ROE): đo lường khả năng sinh lợi
so với vốn chủ sở hữu bỏ ra.
Tỷ lệ lãi ròng so với vốn
chủ sở hữu (ROE)
=
Lợi nhuận ròng sau thuế
Vốn chủ sở hữu
Nếu doanh nghiệp có tỷ lệ ROE thấp có nghĩa là việc sử dụng vốn chủ sở hữu
còn kém hiệu quả
Khả năng phòng ngừa và chống đỡ rủi ro:
Theo thông tư 13/2010/TT-NHNN về tỷ lệ bảo đảm an toàn của Tổ chức tín dụng:
Tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ =
Vốn tự có
Tổng tài sản có rủi ro
Trong đó tổng tài sản có rủi ro bằng tổng các tài sản có rủi ro nội bảng và ngoại
bảng quy đổi theo tỷ lệ rủi ro tương ứng đối với mỗi loại tài sản có của ngân hàng.
Nếu quy mô vốn tự có càng lớn thì người gửi tiền và người cho vay thấy an tâm
9
về ngân hàng, do đó quy mô vốn chủ sở hữu là cơ sở tạo niềm tin cho người gửi tiền
và thu hút tiền gửi, thể hiện thế và lực của ngân hàng.
Một hệ số khác được nhà đầu tư và người gửi tiền quan tâm đó là hệ số an toàn
vốn tối thiểu (hay còn được gọi là hệ số CAR), được tính bằng tỷ lệ phần trăm của
tổng vốn cấp 1 (vốn tự có) và vốn cấp 2 (vốn bổ sung) so vói tổng tài sản đã điều
chỉnh rủi ro của ngân hàng. Tỷ lệ này là thước đo khả năng của ngân hàng thanh toán
các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận
hành. Hay nói cách khác, khi ngân hàng đảm bảo được tỷ lệ này nghĩa là nó đã tự tạo
ra một tấm đệm chống lại những cú sốc về tài chính, vừa tự bảo vệ mình, vừa bảo vệ
người gửi tiền.

III.2.2. Năng lực hoạt động
III.2.2.1. Khả năng huy động vốn
Nội dung của tiêu chí này là đánh giá quy mô, thị phần và tốc độ tăng trưởng
nguồn vốn huy động của ngân hàng (đặc biệt là tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm,
vốn vay). Bên cạnh đó, để xét xem liệu ngân hàng có thể huy động được lượng vốn
nhiều, ổn định và chi phí thấp trong tương lai hay không, người ta cũng phải chi tiết cơ
cấu nguồn vốn huy động và sự thay đổi cơ cấu trong một thời gian nhất định, đối chiếu
với những thay đổi có thể được dự báo sớm trong tương lai để đánh giá.
Tốc độ tăng
trưởng nguồn
vốn huy động
của ngân
hàng năm t
=
Quy mô nguồn vốn huy động năm t - Quy mô nguồn vốn huy động năm (t-1)
Quy mô nguồn vốn huy động năm (t-1)
Cơ cấu nguồn vốn huy động =
Nguồn vốn huy động thành phần thứ i
Tổng nguồn vốn huy động
III.2.2.2. Khả năng cho vay và đầu tư
Do nguồn thu từ hoạt động tín dụng và đầu tư chiếm từ 80 đến 95% nguồn thu
của ngân hàng nên những thống kê về quy mô và cơ cấu tín dụng, đầu tư, thị phần,
chất lượng tín dụng và đầu tư của ngân hàng được thể hiện qua tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ nợ
quá hạn là vô cùng quan trọng để kết luận ngân hàng đó có hoạt động hiệu quả không
trong thị trường các nhà cung cấp dịch vụ tín dụng.
Tỷ lệ nợ xấu =
Tổng nợ nhóm 3 + nhóm 4 + nhóm 5
Tổng dư nợ tín dụng
Trong đó:
10

Phân loại Đặc điểm
Nợ nhóm 3
(nợ dưới tiêu
chuẩn)
• Các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày
• Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu
• Các khoản nợ được miễn do giảm lãi do khách hàng không đủ
khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng
Nợ nhóm 4
(nợ nghi ngờ)
• Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày
• Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90
ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu
• Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2
Nợ nhóm 5
(Nợ có khả
năng mất vốn)
• Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày
• Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90
ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu
• Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2 quá hạn theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ 2
• Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 3 trở lên, kể cả
chưa bị quá hạn hay đã quá hạn
3.2.2.3. Khả năng phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng
Trong những năm gần đây, thu từ các dịch vụ ngân hàng đang có xu hướng tăng
lên trong tổng doanh thu của các NHTM. Khi nền kinh tế càng phát triển, nhu cầu giao
dịch không dùng tiền mặt tăng, và nguồn thu từ các dịch vụ ngân hàng cũng ít rủi ro
hơn thì các dịch vụ này ngày càng được chú trọng phát triển. Do đó nếu một ngân
hàng không khai thác và mở rộng các loại hình dịch vụ thì ngân hàng đó không thể có

lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên không phải sự nâng cao và mở rộng nào cũng là hợp lý,
vì nếu trong thời gian ngắn triển khai quá nhiều dịch vụ không thích hợp sẽ gây dàn
trải và lãng phí nguồn lực, trong khi đó tương quan giữa lợi nhuận và chi phí lại không
đạt được như mục tiêu. Do vậy, việc đa dạng hóa đó còn cần phải gắn với một chiến
lược cụ thể, với lịch trình rõ ràng và phù hợp với điều kiện hiện có của ngân hàng.
III.2.3. Năng lực quản trị điều hành
Trước tiên, trình độ, kinh nghiệm và năng lực quản trị của bộ máy lãnh đạo, ban
giám đốc là những yếu tố đầu tiên được nhắc đến vì có được những nhà lãnh đạo giỏi
thì những quyết định chiến lược mới chính xác và mang lại hiệu quả cho doanh
nghiệp.
Để có thêm căn cứ để kết luận về năng lực quản trị của hội đồng quản trị và năng
lực điều hành của ban giám đốc thì cần xem xét và cân nhắc đến cơ cấu tổ chức của bộ
máy: Số lượng các phòng ban có hợp lý với quy mô phát triển của ngân hàng không?
Sự phân công, phân cấp giữa các phòng ban có hợp lý không? Sự phối hợp giữa các bộ
phận có nhịp nhàng, ăn ý không? Hệ thống kênh phân phối có đáp ứng đủ nhu cầu cho
11
khách hàng không? Hiệu quả hoạt động của từng chi nhánh và phòng giao dịch có ổn
định? Việc triển khai chiến lược kinh doanh có hiệu quả không? Cơ cấu này có khả
năng thích nghi với những biến động của ngành hay thay đổi của môi trường kinh tế vĩ
mô không?
III.2.4. Năng lực công nghệ thông tin
Khả năng trang bị công nghệ mới và hiện đại giúp tăng cường công tác điều
hành, quản lý hoạt động kinh doanh, giúp tăng năng suất lao động và chất lượng dịch
vụ ngân hàng. Ngày nay, với tốc độ phát triển rất nhanh của ngành công nghệ nói
chung và công nghệ lĩnh vực ngân hàng nói riêng thì đánh giá năng lực công nghệ
không chỉ quan tâm đến số lượng chất lượng công nghệ hiện tại mà còn bao gồm cả
khả năng đổi mới của các công nghệ hiện tại về mặt kỹ thuật cũng như kinh tế. Tuy
nhiên để công nghệ có thể phát huy hết hiệu quả thì đội ngũ cán bộ ngân hàng phải có
được trình độ nhất định.
III.2.5. Chất lượng nguồn nhân lực

Chất lượng đội ngũ nhân lực hiện tại: được đo bằng tỷ lệ lao động qua đào tạo, các
bằng cấp trung bình mà đội ngũ lao động nắm giữ (tỷ lệ đại học? trên đại học? tiến sĩ?)
Nguồn nhân lực cho tương lai: Khả năng thu hút và giữ chân nhân tài, được đánh
giá qua các chính sách tuyển dụng, chính sách trả lương và đánh giá nhân viên.
IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của NHTM
4.1. Các nhân tố bên trong
4.1.1. Trình độ và năng lực tổ chức, quản lý
Năng lực quản lý phản ánh năng lực điều hành của hội đồng quản trị cũng như
năng lực triển khai của ban giám đốc ngân hàng. Nó bao gồm khả năng chi phối và
giám sát của hội đồng quản trị đối với ban giám đốc, việc duy trì và nâng cao năng lực
cạnh tranh của ngân hàng, các chính sách đối với ban giám đốc, quy trình quản lí rủi ro
và kiểm toán kiểm soát nội bộ. Nếu các thành viên của hội đồng quản trị không có đủ
năng lực quản lý cần thiết để điều hành hệ thống thì sẽ đưa ra những quyết định sai
lầm trong hoạch định chiến lược kinh doanh, lập kế hoạch gây lãng phí nguồn lực và
từ đó làm yếu đi năng lực cạnh tranh của ngân hàng đó, còn nếu sai sót xảy ra tại ban
giám đốc trong quá trình thực thi, điều hành tác nghiệp sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả
hoạt động trong ngắn và dài hạn của doanh nghiệp.
Cơ cấu tổ chức có ảnh hưởng to lớn đến năng lực quản lý của hội đồng quản trị và
ban giám đốc. Một cơ cấu tổ chức được xem là hợp lý khi nó phù hợp với quy mô, trình
độ quản lý của ngân hàng và đặc trưng cạnh tranh của ngành và yêu cầu của thị trường.
4.1.2. Trình độ thiết bị, công nghệ
Thực tế đã cho thấy tác động to lớn của các thiết bị tự động trong việc rút ngắn thời
gian tác nghiệp của các hoạt động ngân hàng đồng thời tăng độ chính xác, tiện lợi của
12
các dịch vụ ngân hàng thì việc áp dụng hệ thống thiết bị hiện đại và công nghệ thông tin
là thành phần quan trọng nhất trong các yếu tố về cơ sở hạ tầng của ngân hàng.
Công nghệ của ngân hàng không chỉ bao gồm những công nghệ mang tính chất
tác nghiệp như hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền tự
động ATM… mà còn bao gồm hệ thống thông tin quản lý MIS, hệ thống báo cáo rủi
ro….trong nội bộ ngân hàng.

4.1.3. Trình độ nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nguồn lực không thể thiếu của bất kỳ doanh nghiệp cũng như
ngân hàng nào. Nguồn nhân lực ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
ở chỗ nó là yếu tố mang tính kết nối các nguồn lực của ngân hàng, và cũng là nguồn
lực thực hiện mọi cải tiến hay đổi mới trong doanh nghiệp ngân hàng. Trình độ và kỹ
năng của người lao động là những chỉ tiêu quan trọng thể hiện chất lượng của nguồn
nhân lực. Nguồn nhân lực mang lại lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp là những lao
động có trình độ cao, thành thạo nghiệp vụ với động cơ phấn đấu rõ ràng.
Với đặc thù riêng của ngành ngân hàng là cần đội ngũ lao động có kinh nghiệm
và trình độ cao được tích lũy theo thời gian nên những cam kết gắn bó lâu dài với
doanh nghiệp trở nên quan trọng hơn những ngành khác. Nếu ngân hàng có tốc độ lưu
chuyển nhân viên cao thì sẽ làm giảm lợi thế về nguồn nhân lực của ngân hàng đó. Do
vậy, để có thể duy trì được đội ngũ nhân sự chất lượng cao của ngân hàng, thì các
chính sách về nhân sự như chính sách tuyển dụng, cơ chế lương thưởng cần phải được
chú trọng.
4.1.4. Năng lực tài chính của ngân hàng
Với các doanh nghiệp nói chung thì năng lực tài chính được thể hiện ở quy mô
vốn, khả năng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, năng lực quản lý tài
chính….trong doanh nghiệp. Do vốn là yếu tố đầu vào quan trọng của doanh nghiệp
nên việc huy động, sử dụng vốn có hiệu quả có tác động lớn đến việc làm giảm chi phí
vốn và giá thành sản phẩm.
Với lĩnh vực ngân hàng, việc huy động và sử dụng nguồn vốn lại càng có ý nghĩa
quan trọng quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng, nhất là trong bối
cảnh sự cạnh tranh đã trở nên gay gắt và quyết liệt hơn trước rất nhiều.
4.1.4.1. Vốn tự có
Năng lực tài chính của các NHTM thể hiện trước hết ở quy mô vốn tự có của mỗi
ngân hàng.
Trong đó: Vốn tự có cơ bản bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ, dự phòng, lợi
nhuận không chia và các khoản khác (các tài sản nợ khác theo quy định của NHNN)
Vốn tự có bổ sung bao gồm vốn cổ phần ưu đãi có thời hạn, tín phiếu vốn, trái

phiếu chuyển đổi.
13
Tại Việt Nam, theo Luật các tổ chức tín dụng thì “Vốn tự có gồm giá trị thực của
vốn điều lệ của tổ chức tín dụng hoặc vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng nước
ngoài và các quỹ dự trữ, một số tài sản nợ khác theo quy định của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam”.
Sở dĩ vốn tự có quan trọng vì nó có chức năng bảo vệ ngân hàng trong hoạt động
kinh doanh nhiều rủi ro và cũng là đối tượng các cơ quan quản lý ngân hàng thường
hướng vào để ban hành quy định điều chỉnh.
Ngoài ra, vốn điều lệ còn là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng mở rộng mạng lưới
các chi nhánh của ngân hàng. Theo quyết định 13/2008/QĐ-NHNN về mạng lưới hoạt
động ngân hàng thì 100 tỷ * N1 + 50 tỷ * N2 < C trong đó C là vốn điều lệ của
NHTM tính bằng tỷ đồng VN, N1 là số chi nhánh đã mở và đề nghị mở tại Hà nội và
TP. Hồ Chí Minh, N2 là số chi nhánh đã mở và đề nghị mở tại đơn vị hành chính
ngoài Hà nội và TP. Hồ Chí Minh. Nếu ngân hàng có quy mô vốn điều lệ lớn thì số chi
nhánh được mở trong tương lai sẽ lớn, đồng nghĩa với sự gia tăng quy mô hoạt động.
4.1.4.2. Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu được ví như tấm đệm để đảm bảo cho khả năng chống đỡ trước
những rủi ro trong hoạt động ngân hàng cũng như rủi ro của môi trường kinh doanh.
Nếu quy mô vốn chủ sở hữu càng lớn thì khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng càng
chắc chắn. Trong bối cảnh môi trường kinh doanh biến động khôn lường, tấm đệm này
ngày càng khẳng định vai trò của mình trong sự tồn tại vững vàng của ngân hàng
thương mại.
Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn hình thành ban đầu (vốn điều lệ), vốn bổ sung trong
quá trình hoạt động, các quỹ, và các nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Trong đó:
- Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động có thể lấy từ việc phát hành thêm cổ
phần, góp thêm hoặc nguồn từ lợi nhuận. Với nguồn thu từ lợi nhuận, chủ ngân hàng
có thể gia tăng vốn chủ sở hữu bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn
đầu tư.

- Các quỹ như quỹ bảo toàn (quỹ nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động
của lạm phát), quỹ thặng dư (quỹ đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa
thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới), quỹ phúc lợi, quỹ khen
thưởng….
- Các nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: Một số các khoản vay
trung và dài hạn của NHTM có thể được chuyển đổi thành vốn cổ phần theo quy định
của NHTM.
4.1.4.3. Khả năng huy động vốn
Đối với ngân hàng, khả năng huy động vốn có ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng tín
14
dụng cả về chất và lượng. Do đó nếu ngân hàng duy trì huy động vốn ổn định, lâu dài,
lãi suất thấp thì tính cạnh tranh của ngân hàng sẽ được nâng cao hơn. Nguồn vốn huy
động của các ngân hàng chủ yếu đến từ tiền gửi của doanh nghiệp và cá nhân bao gồm
tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch hay tiền gửi thanh toán), tiền gửi có kỳ hạn của
doanh nghiệp và các tổ chức tiết kiệm của dân cư và một bộ phận nhỏ nữa là tiền gửi
của các ngân hàng khác.
4.1.4.4. Khả năng cho vay và chất lượng tín dụng
Do khoản mục tín dụng thường chiếm tỷ trọng cao nhất, khoảng 50-70% tổng tài
sản nên tăng trưởng tín dụng cả về chất và lượng có ảnh hưởng rất nhiều đến chiến
lược hoạt động, dự trữ, đầu tư….của ngân hàng, do đó tác động không nhỏ lên khả
năng cạnh tranh của ngân hàng. Ngân hàng có thể tăng quy mô tín dụng thông qua các
biện pháp như mở rộng mạng lưới, đa dạng hóa các loại hình tín dụng, phát triển công
nghệ mới làm gia tăng tiện ích cho khách hàng, giảm lãi suất hay cung cấp các điều
kiện ưu đãi…
Do rủi ro từ hoạt động tín dụng là rất lớn nên vấn đề về an toàn tín dụng là phần
trọng tâm trong quản trị rủi ro của mọi NHTM. Có 2 dạng quan hệ giữa rủi ro và sinh
lợi trong hoạt động tín dụng: trước khi tài trợ, rủi ro càng cao thì sinh lợi kỳ vọng càng
lớn, do đó khuyến khích cho vay trung và dài hạn, cho vay tiêu dùng và lãi suất danh
nghĩa cũng cao hơn so với lãi suất cho vay ngắn hạn. Sau khi tài trợ, quan hệ đó là tổn
thất càng cao thì sinh lợi càng thấp. Và dù là theo đuổi chiến lược tài trợ rủi ro cao hay

thấp trong ngắn hạn thì đều phải xác lập mối quan hệ rủi ro và sinh lời nhằm đảm bảo
gia tăng thu nhập cho chủ sở hữu trong dài hạn.
Nghiên cứu và tìm các giải pháp hạn chế rủi ro phát sinh, giải quyết và bù đắp tổn
thất là nội dung chính trong quản lý tín dụng. Bằng các biện pháp như xây dựng quy
trình phân tích tín dụng và phổ biến quy trình đó cho mọi khách hàng sẽ góp phần làm
cho khách hàng hiểu yêu cầu và nội dung công việc của ngân hàng khi tài trợ, ngoài ra
thiết lập các quỹ và các hợp đồng tài chính nhằm bù đắp tổn thất xảy ra, thiết lập các
ràng buộc pháp lý giữa ngân hàng với khách hàng (tài sản thế chấp….), giữa ngân hàng
và cán bộ tín dụng (khoản thu nhập gắn với chất lượng tín dụng….), các ngân hàng có
thể kiểm soát tốt hơn chất lượng tín dụng trong bối cảnh rủi ro ngày càng gia tăng.
4.1.5. Năng lực marketing và khả năng xác định lượng cầu
Năng lực marketing của doanh nghiệp là khả năng nắm bắt nhu cầu thị trường,
khả năng thực hiện chiến lược 4P trong hoạt động marketing, trình độ nguồn nhân lực
marketing. Hiệu quả của các chiến lược marketing ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong việc làm cầu nối giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của khách
15
hàng, góp phần làm tăng doanh thu, tăng thị phần tiêu thụ sản phẩm, nâng cao vị thế
của doanh nghiệp.
Do ngân hàng là ngành kinh doanh dịch vụ cung cấp số lượng lớn các loại hình
dịch vụ khác nhau, cầu đối với dịch vụ cũng rất đa dạng và phong phú. Với đối tượng
khách hàng bao gồm hầu như mọi doanh nghiệp, các tổ chức trong nền kinh tế quốc
dân và bộ phận lớn dân cư, việc đánh giá về cầu đối với ngân hàng là một việc làm
quan trọng ảnh hưởng đến hoạch định chiến lược và hiệu quả triển khai của chiến
lược. Việc xác định và đánh giá lượng cầu bao gồm các khía cạnh như cấu trúc của cầu
trong nước đối với các dịch vụ chính của ngân hàng cũng như khả năng chuyển đổi
của cầu trong nước thành cầu quốc tế, điều đó là đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay.
Trong đó xác định cấu trúc cầu trong nước bao gồm các phân đoạn cầu đối với
từng loại hình dịch vụ, quy mô, đặc điểm nhu cầu của người mua trên từng phân đoạn
đó. Việc dự báo được sự xuất hiện của những nhu cầu mới cũng như sự phát triển ở

mức cao hơn các nhu cầu đã tồn tại trước đó là một yếu tố quan trọng giúp các ngân
hàng có được lợi thế cạnh tranh so với đối thủ. Bên cạnh đó, nếu ngân hàng có thể dự
báo mức tăng trưởng cũng như mức độ bão hòa của cầu thì bản thân sẽ chủ động đẩy
mạnh đầu tư, đưa ra những cải tiến kịp thời đối với hệ thống, nhờ đó tăng khả năng
cạnh tranh của ngân hàng.
Dự báo về khả năng chuyển đổi của cầu trong nước thành cầu quốc tế, đi kèm với
những ảnh hưởng từ cầu quốc tế lên cầu nội địa là tác nhân quan trọng để đưa ra các
chiến lược mở rộng thị trường cũng như đề phòng sự xâm nhập của các đối thủ cạnh
tranh nước ngoài.
4.1.6. Năng lực nghiên cứu và phát triển
Là yếu tố tổng hợp gồm nhiều yếu tố như nhân lực nghiên cứu, thiết bị, tài chính
cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), khả năng đổi mới sản phẩm của doanh
nghiệp. Trong thời đại khoa học công nghệ diễn ra như vũ bão ngày nay, nếu ngân
hàng không duy trì được việc cải tiến công nghệ thường xuyên, nâng cao chất lượng
sản phẩm, thay đổi mẫu mã, nâng cao năng suất thì khó lòng trụ vững và nâng cao vị
thế cạnh tranh của mình được.
4.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
4.2.1. Môi trường vĩ mô
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp, tuy nhiên một số
ảnh hưởng chủ yếu bao gồm:
16
4.2.1.1. Tỷ lệ lạm phát
Lạm phát làm cho tỷ lệ lãi suất cao, chi phí vốn lớn. Do đó cản trở các doanh
nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay. Hơn nữa, trong bối cảnh xảy ra lạm phát cao, tâm lý
của nhà đầu tư là khá dè chừng trong việc bỏ vốn vào các dự án đầu tư, vì họ khó có
thể tính toán được chính xác lợi nhuận thực của dự án. Và khi nhà đầu tư không còn
hào hứng với những dự án, tăng trưởng kinh tế chậm lại là điều dễ hiểu.
4.2.1.2. Quan hệ giao lưu quốc tế
Những thay đổi về môi trường quốc tế có thể xuất hiện cả những cơ hội cũng như
nguy cơ về việc mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước của một công ty. Khi

hội nhập các rào cản về thương mại dần dần được gỡ bỏ, các doanh nghiệp có cơ hội
giao dịch và cộng tác với các đối tác ở cách xa khu vực địa lý, thị trường của doanh
nghiệp được mở rộng. Tuy nhiên toàn cầu hóa cũng tạo ra các sức ép cạnh tranh, các
đối thủ ngày nay đến từ mọi khu vực, mọi nơi trên thế giới. Quá trình hội nhập khiến
cho các doanh nghiệp phải điều chỉnh phù hợp với các lợi thế so sánh, phân công lao
động của khu vực và của thế giới.
4.2.1.3. Yếu tố công nghệ của môi trường vĩ mô
Khi công nghệ được coi là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh, việc phát triển
khoa học công nghệ nói chung sẽ có lợi thế lớn trong việc tăng năng suất lao động,
giảm chi phí và giá thành sản phẩm cho doanh nghiệp. Nhờ việc nhanh chóng tìm tòi
và ứng dụng khoa học kỹ thuật mới, các doanh nghiệp có thể tăng cường khả năng
cạnh tranh của mình.
Tuy nhiên, công nghệ được đổi mới liên tục cũng có thể trở thành nguy cơ đối
với doanh nghiệp, khi mà những thay đổi này làm cho sản phẩm hiện đang sản xuất trở
nên lỗi thời trong khoảng thời gian ngắn. Chu kỳ sống của sản phẩm bị thu ngắn lại,
đòi hỏi các công ty phải lường trước những thay đổi do công nghệ mới mang lại,
thường xuyên cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm mới mong trụ vững trong công
cuộc cạnh tranh gay gắt như ngày nay.
4.2.1.4. Yếu tố chính trị và luật pháp
Khi các công ty hoạt động trong phạm vi một lãnh thổ hay một quốc gia, họ phải
tuân thủ theo các luật về thuê mướn nhân công, thuế, các quy định về bảo vệ môi
trường, những ràng buộc, cho phép hay không cho phép đòi hỏi các doanh nghiệp phải
tuân thủ.
Chính phủ có vai trò lớn trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các chính sách
kinh tế, tài chính, tiền tệ, các chương trình chi tiêu của mình. Trong mối quan hệ với các
17
doanh nghiệp, Chính phủ vừa đóng vai trò là người kiểm soát, khuyến khích, vừa đóng
vai trò là khách hàng quan trọng đối với các doanh nghiệp (trong các chương trình chi
tiêu của chính phủ) và là nhà cung cấp thông tin vĩ mô, các dịch vụ công cộng cho
doanh nghiệp. Do đó hoạt động của Chính phủ cũng có thể tạo ra cơ hội hay nguy cơ.

Trong một xã hội ổn định về chính trị, các nhà kinh doanh được đảm bảo an toàn
về đầu tư, quyền sở hữu các tài sản khác của họ, như vậy họ sẽ sẵn sàng đầu tư với số
vốn nhiều hơn vào các dự án dài hạn. Chính sự can thiệp nhiều hay ít của Chính phủ
vào nền kinh tế đã tạo ra những thuận lợi hay khó khăn và cơ hội kinh doanh khác
nhau cho từng doanh nghiệp, trong đó các NHTM không nằm ngoài số đó. Điều đó đòi
hỏi các ngân hàng cần sớm phát hiện ra những thách thức mới trong kinh doanh, từ đó
điều chỉnh thích hợp các hoạt động nhằm tránh những đảo lộn lớn trong quá trình vận
hành, duy trì và đạt được các mục tiêu trong quá trình kinh doanh.
4.2.1.5. Yếu tố văn hóa xã hội
Môi trường văn hóa xã hội bao gồm những chuẩn mực và giá trị được chấp nhận
và tôn trọng bởi một xã hội hay một nền văn hóa cụ thể. Sự thay đổi của các yếu tố
văn hóa – xã hội thường có tính dài hạn và tinh tế hơn các yếu tố khác, chúng cũng có
phạm vi ảnh hưởng rộng. Những giá trị văn hóa là những giá trị được bảo vệ hết sức
quy mô và chặt chẽ, đặc biệt là các văn hóa tinh thần. Ngày nay trong bối cảnh toàn
cầu hóa, sự giao thoa về văn hóa giữa các vùng miền, các nước là điều không thể tránh
khỏi, chính nó góp phần tạo nên sự thay đổi tâm lý người tiêu dùng, lối sống và tạo ra
những triển vọng phát triển với các ngành.
Bên cạnh văn hóa, các đặc điểm về xã hội cũng khiến các doanh nghiệp quan tâm
khi nghiên cứu thị trường, những yếu tố xã hội chia cộng đồng thành các nhóm khách
hàng, mỗi nhóm có đặc điểm tâm lý, thu nhập khác nhau như: tuổi thọ trung bình, tình
trạng sức khỏe, thu nhập trung bình, lối sống, học thức, các quan điểm về thẩm mỹ….
4.2.2. Môi trường ngành
Theo Michael E.Porter, 5 lực tác động vào ngành bao gồm: mức độ cạnh tranh
giữa các công ty đang hoạt động trong ngành, khả năng cạnh tranh của các đối thủ
tiềm ẩn, mức độ cạnh tranh của các sản phẩm thay thế, sức ép về giá của người mua và
sức ép về giá của người cung ứng.
4.2.2.1. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng trong ngành
Mức độ cạnh tranh dữ dội phụ thuộc vào mối tương tác giữa các yếu tố như số
lượng doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, mức độ tăng trưởng của ngành, cơ cấu chi
phí cố định và mức độ đa dạng hóa sản phẩm… trong đó 3 yếu tố chính chi phối là cơ

cấu ngành, mức độ của cầu và những trở ngại ra khỏi ngành.
Cơ cấu cạnh tranh ngành: là sự phân bố về số lượng và quy mô của các công
ty trong ngành.
18
Có 2 loại cơ cấu chính: cơ cấu ngành phân tán và cơ cấu ngành hợp nhất. Ngành
phân tán bao gồm số lượng lớn các công ty có quy mô vừa và nhỏ, không có công ty
nào có vai trò chi phối toàn ngành, do đó phải chấp nhận mức giá của thị trường. Khi
đó lợi nhuận của công ty phụ thuộc vào khả năng giảm chi phí hoạt động.
Ngành hợp nhất bao gồm số lượng ít các công ty có quy mô lớn hay trường hợp
đặc biệt chỉ có một công ty độc quyền. Đặc điểm trong cơ cấu ngành này là các công ty
hoạt động phụ thuộc vào nhau, hoạt động cạnh tranh của công ty này ảnh hưởng đến lợi
nhuận của công ty khác trong ngành. Tính chất cạnh tranh quyết liệt đòi hỏi các công ty
phải cạnh tranh về chất lượng hay mẫu mã của sản phẩm, trong khi về giá cả, các công
ty cố gắng theo sau các mức giá định sẵn bởi các công ty đầu đàn trong ngành.
Tốc độ tăng trưởng của mức cầu cũng là một yếu tố tác động mạnh đến sự
cạnh tranh.
Khi thị trường có thêm người tiêu dùng mới, hay sức mua của người tiêu dùng
hiện tại tăng làm nhu cầu tăng sẽ kích thích mở rộng sản xuất, làm dịu bớt cạnh tranh.
Ngược lại khi cầu giảm, người tiêu dùng rời bỏ thị trường hoặc sức mua của người tiêu
dùng hiện tại giảm, sự cạnh tranh giữa các công ty trở nên mạnh mẽ hơn, một công ty
chỉ có thể đạt được tăng trưởng bằng cách lấy đi thị phần của những công ty khác. Do
đó yêu cầu phải nâng cao khả năng cạnh tranh được đề cập một cách cấp bách và
quyết liệt hơn.
Những trở ngại ra khỏi ngành
Khi cầu giảm, các công ty sẽ đặt câu hỏi về khả năng rút lui khỏi ngành, nếu việc
ra khỏi ngành gặp trở ngại lớn, các công ty có thể bị buộc chặt vào nhau và làm cho
cạnh tranh trở nên gay gắt hơn.
Các trở ngại chính ra khỏi ngành thường là: các máy móc thiết bị khó có thể sử
dụng vào ngành khác, do vậy công ty không thanh lý tài sản được, nếu công ty muốn
ra khỏi ngành buộc phải bỏ đi toàn bộ tài sản này. Bên cạnh đó, những chi phí cố định

rất lớn khi ra khỏi ngành và sự gắn bó về tình cảm đối với ngành như những công ty
thuộc gia đình, dòng họ, những ràng buộc về người lao động, ràng buộc với Chính
phủ, các tổ chức liên quan, các ràng buộc về chiến lược, kế hoạch cũng được kể đến
khi rút lui khỏi ngành.
4.2.2.2. Sự cạnh tranh của các đối thủ tiềm ẩn
Đối thủ tiềm ẩn là các công ty hiện không ở trong ngành nhưng có khả năng nhảy
vào hoạt động kinh doanh trong ngành đó. Đối thủ mới tham gia trong ngành là yếu tố
làm giảm lợi nhuận của công ty. Tuy nhiên một công ty khi muốn gia nhập vào một
ngành kinh doanh bao giờ cũng vấp phải những khó khăn nhất định. Những rào cản
gia nhập ngành là những yếu tố làm cho việc gia nhập vào một ngành tốn kém và khó
19
khăn. Đó có thể là rào cản về kỹ thuật, vốn, các yếu tố thương mại như hệ thống phân
phối, thương hiệu, hệ thống khách hàng, các nguồn lực đặc thù như nguyên vật liệu
đầu vào bị kiểm soát, bằng phát minh sáng chế, nguồn nhân lực, sự bảo hộ của Chính
phủ…… Theo Joe Bain, những rào cản này xuất phát từ các yếu tố chính là: sự ưa
chuộng sản phẩm, các ưu thế về chi phí thấp, tính hiệu quả của sản xuất lớn.
Sự ưa chuộng sản phẩm
Khi khách hàng đã quen và ưa thích các sản phẩm hiện tại, các sản phẩm mới sẽ
gặp khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trường do họ phải tìm cách phá vỡ sự yêu thích
đó trước khi giới thiệu sản phẩm của mình đến với người tiêu dùng. Với những sản
phẩm đã có thương hiệu lâu năm, việc phá vỡ thói quen và sự ưa thích tiêu dùng là vô
cùng tốn kém và khó khăn.
Các ưu thế về chi phí thấp
Trong quá trình hoạt động lâu dài, các công ty đi trước đã tích lũy cho mình một
vốn liếng quý giá về kinh nghiệm quản lý, tổ chức hoạt động cũng như những mối
quan hệ lâu năm với các đơn vị, nhà cung cấp vốn, nguyên vật liệu, vật tư…Họ dễ
dàng vay được vốn với lãi suất thấp tạo nguồn vốn kinh doanh ổn định, hoặc có thể
mua được máy móc thiết bị, vật tư với ưu đãi về giá thành, đó chính là những ưu thế
mà các công ty mới gia nhập không thể có được.
Tính hiệu quả của sản xuất lớn

Khi quy mô sản xuất tăng, các chi phí như chi phí cố định và chi phí quảng cáo
được chia đều cho các sản phẩm đầu ra đã được tiêu chuẩn hóa, hơn thế nữa các thiết
bị và nguyên vật liệu đầu vào cũng được giảm giá, giúp tăng tính hiệu quả nhờ quy mô
của doanh nghiệp.
4.2.2.3. Mức độ cạnh tranh của sản phẩm thay thế
Sản phẩm thay thế là những sản phẩm của các công ty trong những ngành khác
nhưng thỏa mãn những nhu cầu của người tiêu dùng giống như những công ty trong
ngành. Áp lực cạnh tranh chủ yếu của sản phẩm thay thế là khả năng đáp ứng nhu cầu
so với các sản phẩm trong ngành, thêm vào đó các yếu tố về giá, chất lượng, các yếu tố
khác của môi trường như văn hóa – xã hội, chính trị, công nghệ cũng ảnh hưởng tới sự
đe dọa của sản phẩm thay thế.
Các sản phẩm thay thế có tác động gián tiếp đến các công ty trong ngành. Nếu
những sản phẩm thay thế hình thành một sức ép cạnh tranh rất lớn, nó có thể giới hạn
mức giá một công ty có thể định ra và do đó giới hạn mức lợi nhuận của công ty.
Ngược lại, nếu sản phẩm của một công ty có rất ít các sản phẩm thay thế, các công ty
có cơ hội để tăng giá và kiếm được lợi nhuận tăng thêm.
Trong lĩnh vực tài chính, bên cạnh các dịch vụ của ngân hàng, doanh nghiệp và
các khách hàng cá nhân có thể sử dụng các dịch vụ của thị trường chứng khoán, thị
20
trường bảo hiểm, gửi tiền và đầu tư vào các định chế tài chính phi ngân hàng khác.
4.2.2.4. Sức ép về giá của người mua
Người mua cũng có thể gây sức ép nhất định đến nhà sản xuất, bởi họ có thể yêu
cầu giảm giá hay nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Tất cả những đòi hỏi đó
đều làm gia tăng chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Mức độ ảnh hưởng của người
mua đến doanh nghiệp phụ thuộc vào thế mạnh của họ trong mối quan hệ với doanh
nghiệp.
Những trường hợp mà người mua có thể tạo áp lực là:
- Khi ngành cung cấp gồm nhiều doanh nghiệp nhỏ còn người mua chỉ là số ít
doanh nghiệp nhưng có quy mô lớn.
- Khi người mua mua với số lượng lớn, họ có thể sử dụng sức mua của mình như

một đòn bấy để được giảm giá.
- Khi người mua có thể lựa chọn đơn đặt hàng giữa các công ty cung ứng cùng
loại sản phẩm.
4.2.2.5. Sức ép về giá của người cung ứng
Nếu sản phẩm doanh nghiệp cần mua có rất ít sản phẩm thay thế hoặc được cung
cấp bởi rất ít nhà cung cấp thì họ sẽ phải chịu sức ép lớn từ nhà cung ứng, điều đó có
thể ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty, nhất là khi xảy ra tình trạng khan hiếm hay
biến động tỷ giá hối đoái lớn (với những doanh nghiệp nhập khẩu).
Trong lĩnh vực ngân hàng, người cung ứng có thể là ngành bưu chính viễn thông
cung cấp những đổi mới, cải cách trong công nghệ ngân hàng hoặc dịch vụ kiểm toán
cung cấp các thông tin thẩm định về báo cáo tài chính cho hoạt động cấp tín dụng của
ngân hàng.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NHTM CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
I. Đặc điểm tình hình sản xuất kinh doanh tại Ngân hàng Thương
mại cổ phần Công thương Việt Nam
I.1. Quá trình hình thành và phát triển
Ngày 26 tháng 03 năm 1988, Ngân hàng chuyên doanh công thương trực thuộc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thành lập theo nghị định 53/HĐBT của Hội
đồng bộ trưởng, khi đó chức vụ Tổng giám đốc Ngân hàng chuyên doanh do Tổng
giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đề nghị Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng bổ
nhiệm và Phó Tổng giám đốc NHNNVN có thể kiêm nhiệm Tổng giám đốc Ngân
21
hàng chuyên doanh.
Ngày 14 tháng 11 năm 1990, theo quyết định 402/CT-HĐBT của Hội đồng bộ
trưởng, Ngân hàng chuyên doanh Công thương được chuyển thành Ngân hàng Công
thương Việt Nam đảm nhiệm các chứng năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ
ngân hàng đối với các thành phần kinh tế, chủ yếu trong lĩnh vực công nghệ, giao
thông vận tải, bưu điện, thương nghiệp và dịch vụ. Cũng theo quyết định này thì Ngân

hàng Công thương là một pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, được Nhà nước cấp
vốn điều lệ, được tự chủ về tài chính và có con dấu riêng với vốn điều lệ được cấp là
200 tỷ đồng.
Quyền quản trị của Ngân hàng Công thương thuộc về Hội đồng Quản trị do Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước bổ nhiệm, quyền điều hành thuộc về Tổng giám đốc do Chủ
tịch Hội đồng bộ trưởng bổ nhiệm theo đề nghị của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Ngày 27 tháng 03 năm 1993, thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ký quyết
định số 67/QĐ-NH5 về việc thành lập Ngân hàng Công thương Việt Nam thuộc
NHNN Việt Nam. Đến ngày 21 tháng 09 năm 1996, được sự uỷ quyền của Thủ tướng
Chính phủ, Thống đốc NHNN ký quyết định số 285/QĐ-NH5 về việc thành lập lại
NHCT theo mô hình Tổng Công ty Nhà nước được quy định tại Quyết định số 90/QĐ-
TTg ngày 07 tháng 03 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ.
Tháng 9 năm 2008, phương án cổ phần hóa Ngân hàng Công thương Việt Nam
chính thức được phê duyệt và đến tháng 11 năm 2008, NHNN ký quyết định số
2604/QĐ-NHNN về việc công bố giá trị doanh nghiệp Ngân hàng Công thương Việt
Nam. Cuối năm 2008, Ngân hàng Công thương Việt Nam tổ chức bán đấu giá cổ phần
ra công chúng thành công và thực hiện chuyển đổi thành doanh nghiệp cổ phần và đến
giữa năm 2009 đã diễn ra cuộc họp đại hội đồng cổ đông lần đầu tiên. Ngày 08 tháng
07 năm 2009, NHCT đổi tên thành Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt
nam, sau đây được gọi tắt là Ngân hàng Công thương (NHCT).
Với sứ mệnh là “Tập đoàn tài chính ngân hàng hàng đầu của Việt Nam, hoạt
động đa năng, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ theo chuẩn mực quốc tế, nhằm nâng
giá trị cuộc sống”, NHCT với thương hiệu NHCT là đơn vị tiên phong trong việc ứng
dụng công nghệ hiện đại và thương mại điện tử tại Việt nam, bên cạnh đó không
ngừng nghiên cứu, cải tiến các sản phẩm, dịch vụ hiện có và phát triển các sản phẩm
mới nhằm đáp ứng cao nhất nhu cầu của khách hàng.
Trải qua hơn 20 năm xây dựng và phát triển, NHCT đã phát triển theo mô hình đa
năng với mạng lưới hoạt động được phân bố rộng khắp trên 56 tỉnh thành phố trong cả
nước, bao gồm 01 Hội sở chính, 03 Sở giao dịch, 145 chi nhánh, 527 phòng giao dịch,
116 quỹ tiết kiệm, 1042 máy rút tiền tự động, 05 Văn phòng đại diện, 06 Công ty hạch

22

×