Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Hoạt động thanh toán quốc tế thông qua hình thức tín dụng chứng từ đối với các Ngân hàng Thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.49 KB, 79 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua hệ thống ngân hàng thương mại đã có những đóng góp
không nhỏ vào quá trình hội nhập nên kinh tế nước ta với các nước trong khu vực
và trên thế giới. Hoạt động ngân hàng thương mại của nước ta đã trưởng thành về
nhiều mặt, được bạn bè quốc tế biết đến và tín nhiệm. Đóng góp không nhỏ tạo nên
vị thế của ngành là nhờ vào các hoạt động thanh toán quốc tế, trong đó thanh toán
tín dụng chứng từ là nhân tố chủ yếu nhờ tính ưu việt của nó so với các phương
thức thanh toán quốc tế khác. Chính vì vậy việc nâng cao chất lượng thanh toán tín
dụng chứng từ là một yêu cầu cấp thiết của hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam.
Để nâng cao chất lượng nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ, các Ngân
hàng Thương mại đã không ngừng cải tiến và đổi mới các hoạt động của mình ngày
càng phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Tuy có vị trí quan trọng nhưng hoạt động
thanh toán quốc tế chưa thực sự được các ngân hàng nước ta quan tâm đúng mức
và ở trình độ còn thấp hơn nhiều so với mức độ phật triển mà đáng ra nó phải đạt
tới. Do vậy, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu và đưa ra
các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ, em đã chọn đề tài: “ Nâng cap chất lượng thanh toán tín dụng chứng
từ đối với các Ngân hàng Thương mại Việt Nam “ để nghiên cứu.
2.Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Chuyên đề hệ thống hóa và làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến hoạt
động thanh toán TDCT và chất lượng thanh toán TDCT của ngân hàng
thương mại.
- Đánh giá thực trạng hoạt động và chất lượng thanh toán TDCT đối với
các ngân hàng thương mại Việt Nam
- Trên cơ sở phân tích thực trạng chất lượng thanh toán TDCT tại Sở
giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam và NH Thương mại Cổ phần Á Châu,
tìm ra các nguyên nhân nhằm đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng
hoạt động thanh toán TDCT tại các Ngân hàng Thương mại Việt Nam.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài


- Đối tượng nghiên cứu: Để thực hiện được các mục tiêu như đã nói ở
trên thì đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là các vấn đề lý luận cơ bản về
thanh toán quốc tế( TTQT), phương thức TDCT, các số liệu thực tế dựa theo
các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng thanh toán TDCT của Sở giao dịch
NHNNo&PTNT Việt Nam và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu.
- Phạm vi nghiên cứu: Chuyên đề đi sâu vào đánh giá thực trạng hoạt
động thanh toán TDCT cũng như những vấn đề nâng cao chất lượng hoạt
động thanh toán TDCT tại NHNo&PTNT Việt Nam và Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Á Châu
4.Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trong quá trình nghiên cứu, chuyên đề chủ yếu sử dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời kết
hợp các phương pháp khoa học khác như: phương pháp phân tích, đánh giá,
thống kê, tổng hợp, so sánh đồng thời sử dụng các bảng biểu thống kê các số
liệu thu thập được để minh họa, cùng với việc tham khảo các tài liệu và sự cố
gắnng tìm hiểu, độc lập suy nghĩ của bản thân.
5.Kết cấu chuyên đề:
Ngoài phần mở đầu và kết luận,danh mục tài liệu tham khảo, danh mục bảng
biểu, chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ
của ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ tại Sở giao
dịch NHNo&PTNT Việt Nam và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thanh toán TDCT đối với các ngân
hàng thương mại Việt Nam.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG THANH TOÁN TÍN
DỤNG CHỨNG TỪ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ
1.1.1. Khái niệm

Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay không một nước nào lại coi nhẹ vấn đề
mở cửa hội nhập kinh tế. Các ngân hàng hiện đại càng nắm rõ vấn đề này hơn ai
hết vì thế hàng loạt các dịch vụ đa năng nhằm tăng thu nhập không những từ các
nghiệp vụ truyền thống đã được các ngân hàng phát triển một cách nhanh chóng
nhất, ví dụ như các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, bảo lãnh…
Trong đó TTQT là một nghiệp vụ vô cùng quan trọng đem lại nguồn lợi nhuận lớn
và có tốc độ tăng trưởng cao, nó được coi là nghiệp vụ ngoại bảng đặc trưng của
ngân hàng thương mại ( NHTM ) ngày nay.
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền hưởng lợi
về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ
chức, cá nhân nước này với các tổ chức, cá nhân nước khác, hay giữa một quốc
gia với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên
quan.
1.1.2. Vai trò của thanh toán quốc tế
• Đối với nền kinh tế:
Hiện nay trên thế giới không quốc gia nào còn tồn tại nền kinh tế tự cung tự
cấp, tất cả đều đã tham gia vào vòng xoáy toàn cầu hoá và không thể tránh khỏi
các mối quan hệ thanh toán kể cả về mậu dịch và phi mậu dịch. Như vậy, TTQT
như một chiếc cầu nối thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu ( XNK) hàng hoá và
dịch vụ, đầu tư nước ngoài, thu hút nguồn kiều hối và các quan hệ tài chính, tín
dụng quốc tế… giúp các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau hơn.
Để các hợp đồng ngoại thương đi đến bước cuối cùng thì không thể thiếu
khâu quan trọng là thanh toán. Nếu khâu này mà diễn ra suôn sẻ với tiến độ nhanh,
chính xác, an toàn, thực hiện đúng theo yêu cầu của các bên thì sẽ càng nhanh
chóng giải quyết được mối quan hệ lưu thông hàng hoá - tiền tệ giữa người mua -
người bán một cách hiệu quả. Không chỉ có vậy, hiệu quả của hoạt động thanh
toán còn giúp tạo sự tin tưởng cao trong kinh doanh, nâng cao vị thế của nền kinh
tế, không làm cho bất kỳ quốc gia nào phải e ngại khi nảy sinh các quan hệ kinh tế
đối ngoại với nhau.
• Đối với các ngân hàng thương mại:

Có thể khẳng định rằng sự thành công hay thất bại của hoạt động TTQT có
phần đóng góp to lớn của các ngân hàng. Ngược lại, hoạt động TTQT cũng đang
ngày càng khẳng định vị thế của mình trong các lĩnh vực dịch vụ ngân hàng cao
cấp. Nó đem lại nguồn lợi vô cùng lớn và gia tăng không ngừng, đặc biệt cho công
tác đối ngoại của tất cả các nước trên thế giới.
Ngoài việc đem lại doanh thu lớn, hoạt động TTQT còn giúp các ngân hàng
học hỏi kinh nghiệm trong nghiệp vụ, trao đổi các thành tựu khoa học kỹ thuật và
công nghệ với nhau. Công tác quản lý, đào tạo đội ngũ nhân viên cũng sẽ được
ngân hàng chú trọng hơn, đưa mục tiêu cung cấp những tiện ích tốt nhất phục vụ
khách hàng lên hàng đầu. Hoạt động TTQT còn giúp nâng cap uy tín đối nội, đối
ngoại của ngân hàng. Cụ thể là, các ngân hàng không chỉ giới thiệu được các
nghiệp vụ khác tới khách hàng trong nước mà còn với cả khách hàng quốc tế, đa
dạng hoá các sản phẩm và mở rộng đối tượng khách hàng. Vì những lợi ích không
hề nhỏ như vậy nên không có ngân hàng nào lại từ chối phát triển mảng nghiệp vụ
hiện đại này.
• Đối với các doanh nghiệp:
Thanh toán là khâu cuối cùng trong chuỗi hoạt động sản xuất – kinh doanh
XNK, nó là mắt xích vô cùng quan trọng để kết nối tất cả các khâu với nhau tạo
thành một dây truyền vận hành hoán hảo. Mà hoạt động xuất nhập khẩu lại là lĩnh
vực đòi hỏi sự đầu tư lớn và các bên phải có thiện chí để đảm bảo cho hợp đồng
được thực hiện. Các áp lực đó đã dần dần giúp cho daonh nghiệp trưởng thành hơn
trong hoạt động kinh doanh với các đối tác nước ngoài. Để không bị thua thiệt hay
mắc sai lầm thì các doanh nghiệp phải tự mình học hỏi kinh nghiệm quốc tế, nâng
cao trình độ của mình trong các lĩnh vực liên quan, nhất là về luật pháp. Khi đã
được đánh giá là một đối tác đáng tin cậy trên trường quốc tế thì không có lý do gì
mà các doanh nghiệp này không thể mở rộng hoạt động kinh doanh ra các bạn
hàng mới, hàng loạt các cơ hội giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển mở ra với
tỷ lệ thành công rất lớn.Có thể nói, hoạt động TTQT giúp mở ra một chân trời mới
cho các doanh nghiệp muốn bứt phá trong thời kỳ mới.
1.1.3. Đặc điểm của thanh toán quốc tế

• Thanh toán quốc tế gồm thanh toán ngoại thương và phi ngoại thương:
Qua khái niệm về thanh toán quốc tế ta thấy, TTQT không chỉ góp mặt trên lĩnh
vực kinh tế mà trên cả lĩnh vực phi kinh tế. Nhưng do hai hoạt động này thường
giao thoa lẫn nhau nên để dễ dàng hơn người ta thường tìm hiểu TTQT trên hai
khía cạnh là thanh toán trong ngoại thương và thanh toán phi ngoại thương.
TTQT trong ngoại thương là việc thực hiện thanh toán trên cơ sở hàng hóa
xuất nhập khẩu và các dịch vụ thương mại cung ứng cho nước ngoài theo giá cả thị
trường quốc tế. Cơ sở để các bên tiến hành mua bán và thanh toán cho nhau là hợp
đồng ngoại thương. TTQT phi ngoại thương là việc thực hiện thanh toán không
liên quan đến hàng hóa XNK cũng như cung ứng lao vụ cho nước ngoài, nghĩa là
thanh toán cho các hoạt động không mang tính chất thương mại. Đó là việc chi trả
các chi phí của các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài, các chi phí đi lại ăn ở của các
đoàn khách nhà nước, tổ chức và cá nhân, các nguồn quà biếu, trợ cấp của cá nhân
người nước ngoài cho cá nhân trong nước…
• Thanh toán liên quan đến đồng tiền, địa điểm, phương tiện, phương
thức và thời gian thanh toán:
Nói đến TTQT là nói đến mối quan hệ của các đối tác không phải cùng trong
một nước, điều đó làm nảy sinh các điều kiện về tiền tệ, về thời gian thanh toán, về
địa điểm thanh toán, về phương tiện, phương thức thanh toán để làm thế nào không
ảnh hưởng đến lợi ích của các bên tham gia. Việc sử dụng loại tiền tệ nào trong
quan hệ TTQT là tùy thuộc các bên. Khác với thanh toán trong nội địa là sử dụng
đồng nội tệ thì ở đây có thể lựa chọn đồng tiền của nước xuất khẩu, nước nhập
khẩu hay của nước thứ ba, mà cũng có thể là đồng tiền chung của một khối liên
minh nào đó. Nhưng chủ yếu các đối tác đều chọn những đồng tiền tự do chuyển
đổi như Đô la Mỹ ( USD), Bảng Anh ( GBP), Yên Nhật (JPY), đồng tiền chung
Châu Âu ( EUR)…Thời gian thanh toán có thể là trả trước, trả ngay hay trả sau,
điều đó không chỉ tùy thuộc vào ý kiến chủ quan của các bên mà còn vào tình hình
thị trường hay các biến động khác. Điều kiện về địa điểm thanh toán sẽ được nói rõ
trong mỗi hợp đồng ngoại thương, nó phụ thuộc vào tương quan lực lượng giữa hai
bên, vào phương thức và đồng tiền thanh toán đã được chọn. Người ta có nhiều

cách để chọn ra loại phương tiện thanh toán nào trong các loại: tiền mặt, séc, hối
phiếu, lệnh phiếu, thẻ thanh toán…để phù hợp nhất với các phương thức thanh toán
đang được sử dụng phổ biến hiện nay như ứng trước, ghi sổ, chuyển tiền, nhờ thu
hay tín dụng chứng từ.
• Gặp nhiều rủi ro sự biến động tiền tệ, chính trị:
Không phải cứ khi nào ký được hợp đồng ngoại thương là các bên đối tác sẽ
chắc chắn rằng mình sẽ nhận được điều mình mong muốn. Bởi khác với thanh toán
trong nội địa, TTQT chứa đựng nhiều rủi ro hơn rất nhiều, đặc biệt là khi phần lớn
các hợp đồng ngoại thương đều có giá trị cao. Điều đó có thể đến từ các lý do về
biến động tỷ giá, bất ổn chính trị, khoảng cách về địa lý…làm cho các bên không
thể hiểu rõ về nhau. Do vậy, các ngân hàng với vai trò trung gian sẽ giúp giải
quyết phần lớn các khó khăn đó, giúp cho việc thanh toán trở nên khả thi hơn rất
nhiều.
• Phục vụ chủ yếu cho hoạt động kinh tế đối ngoại:
Vì là thanh toán giữa các quốc gia với nhau nên vấn đề khác biệt về luật pháp
và các quy tắc ứng xử của từng nước cũng là những rào cản không nhỏ cho hoạt
động TTQT. Bên cạnh đó, vì phục vụ chủ yếu cho hoạt động kinh tế từng thời kỳ
là yếu tố chính trị đóng vai trò rất quan trọng trong thực hiện các hoạt động thanh
toán quốc tế. Nắm bắt rõ vấn đề này, các doanh nghiệp có thể dự đoán trước những
thuận lợi hay khó khăn khi tham gia vào mối quan hệ kinh doanh quốc tế, từ đó
hạn chế một phần rủi ro.
• Thanh toán sử dụng rất nhiều loại chứng từ:
Ngoài các yếu tố trên, đặc biệt có một điều cơ bản không thể thiếu trong
thanh toán TDCT là các loại chứng từ. Nó là căn cứ để người thụ hưởng có quyền
đòi tiền, để người trả tiền thực hiện hay từ chối nghĩa vụ chi trả của mình. Đối với
mỗi phương thức thanh toán, tùy thuộc vào luật pháp, thông lệ của quốc tế, quốc
gia mà sẽ có những yêu cầu khác nhau về số lượng,số loại, cách tạo lập với các
chứng từ.
Tóm lại, TTQT là hoạt động được sinh ra trên cơ sở hoạt động ngoại thương,
là khâu cuối cùng và vô cùng quan trọng để hoàn thành vòng quay sản xuất và tiêu

thụ hàng hóa, gắn kết người sản xuất và người tiêu dùng thông qua chi trả lẫn nhau,
là một nghiệp vụ mà không ngân hàng nào lại không muốn phát triển vì sự tiến bộ
của chính mình.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN TDCT
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm:
Tín dụng chứng từ được nêu điều 2, UCP 600, như sau:
“ TDCT là một thỏa thuận bất kỳ, cho dù được mô tả hoặc gọi tên như thế
nào, thể hiện một cam kết chắc chắn và không hủy ngang của ngân hàng phát hành
( NHPH ) về việc thanh toán khi xuất trình phù hợp”.
Từ định ngĩa của UCP nêu trên, chúng ta có thể diễn đạt theo một cách khác
như sau:
Tín dụng chứng từ là một văn bản cam kết dùng trong thanh toán, trong đó
một ngân hàng (NHPH) theo yêu cầu của một khách hàng ( người yêu cầu mở thư
tín dụng) sẽ trả tiền cho người thứ ba, hoặc trả cho bất kỳ người nào theo lệnh của
người thứ ba đó ( người thụ hưởng ), hoặc sẽ trả, chấp nhận hối phiếu do người thụ
hưởng phát hành, hoặc ủy quyền ngân hàng khác trả tiền, chấp nhận hay chiết khấu
hối phiếu đó, khi xuất trình đầy đủ các chứng từ đã quy định và mọi điều khoản của
thư tín dụng đã được thực hiện đầy đủ.
1.2.2. Vai trò của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
1.2.2.1. Đối với nền kinh tế
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế trong những năm gần đây, thanh
toán TDCT ngày càng có vai trò quan trọng, nó như một chất xúc tác giúp cho bộ
máy kinh tế đối ngoại và thương mại giữa các nước được diễn ra trôi chảy.
Thanh toán Tín dụng chứng từ trước hết là một hình thức tín dụng quan trọng
gắn liền với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Nó giúp cho quá trình thanh
toán theo yêu cầu của khách hàng được tiến hành an toàn, thuận lợi và giảm bớt chi
phí thay vì thanh toán bằng tiền mặt. Bên cạnh đó, ngân hàng còn bảo vệ quyền lợi
của khách hàng trong giao dịch thanh toán thông qua các hoạt động tư vấn, bảo
lãnh,… nhằm giảm thiểu rủi ro, tạo sự an toàn, tin tưởng cho khách hàng trong

quan hệ giao dịch buôn bán với nước ngoài. Hơn nữa, ngân hàng còn có thể tài trợ
XNK, bảo lãnh thanh toán mở L/C, chiết khấu chứng từ xuất khẩu… đối với khách
hàng thiếu vốn, từ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển.
Mặt khác, xuất nhập khẩu là một khoản mục quan trọng trong cán cân TTQT
của một quốc gia, thể hiện ở giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu, giá trị này chỉ có thể
thực hiện được thông qua hoạt động thanh toán TDCT. Do đó, thanh toán TDCT
trực tiếp tác động đến cán cân thương mại của một quốc gia. Nếu thanh toán TDCT
được thực hiện nhanh chóng, kịp thời, an toàn chính xác thì có thể hạn chế rủi ro có
thể xảy ra, để lại thiện chí, uy tín giữa các bên, góp phần mở rộng quan hệ buôn
bán, từ đó góp phần ổn định tỷ giá, duy trì ngoại hối và thúc đẩy nền kinh tế phát
triển.
Ngoài ra, việc tham gia của ngân hàng trong hoạt động thanh toán TDCT sẽ
giúp Nhà nước trong việc quản lý hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của các
doanh nghiệp trong nước, đồng thời nắm bắt tình hình thị trường thế giới, tự đánh
giá khả năng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, từ đó xây dựng chiến
lược phát triển và thực thi chính sách đối ngoại phù hợp với từng thời kỳ.
1.2.2.2. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Mục tiêu hàng đầu đối với các doanh nghiệp là lợi nhuận, tuy nhiên đối với
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì việc đạt được mục tiêu này khó khăn hơn vì
hoạt động của họ chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các yếu tố bên ngoài như: tình hình
thị trường thế giới, khả năng thanh toán của đối tác nước ngoài…Các doanh nghiệp
này chỉ có thể hoạt động hiệu quả khi các hợp đồng ngoại thương mà họ tham gia
thực hiện trôi chảy. Điều này được thực hiện với sự giúp đỡ của các ngân hàng
thông qua nghiệp vụ TDCT.
Ngân hàng với bề dày kinh nghiệm, có khả năng tài chính để tài trợ cho cả
người bán và người mua, có mạng lưới và quan hệ đại ký rộng khắp, có công nghệ
kỹ thuật tiên tiến, nên có thể thực hiện hoạt động thanh toán TDCT nhanh chóng,
an toàn và chính xác nhất.
Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu, thanh toán TDCT qua ngân hàng sẽ giúp
cho việc thanh toán được diễn ra nhanh chóng, tạo lòng tin cho đối tác, đảm bảo an

toàn. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, thanh toán TDCT qua ngân hàng sẽ thu
được tiền hàng nhanh chóng, kịp thời phục vụ cho các hoạt động tiếp sau.
1.2.3. Ưu và nhược điểm của phương thức thanh toán TDCT đối với ngân
hàng thương mại
So sánh với các phương thức khác, thanh toán bằng L/C có ưu điểm, nhược
điểm sau:
1.2.3.1. Ưu điểm:
a. Đối với NHPH:
-Thu phí từ phát hành L/C và các khoản phí khác liên quan đến L/C, các
khoản thu nhập liên quan đến chuyển đổi tiền tệ.
- Thông qua việc cung cấp dịch vụ thanh toán giúp khách hàng phát triển
kinh doanh, thì các hoạt động khác của ngân hàng cũng phát triển theo. Ví dụ
tăng được tài khoản ký quỹ, tăng được quan hệ tín dụng với nhà NK…
- Tăng cường mối quan hệ với các ngân hàng đại lý, làm tăng tiềm năng
kinh doanh đối ứng giữa các ngân hàng với nhau.
b. Đối với NHTB/NHĐCĐ/NHXN
- Thu phí từ việc thông báo/thanh toán/xác nhận L/C và các khoản thu nhập
khác liên quan đến chuyển đổi tiền tệ.
- Thông qua việc cung cấp dịch vụ thông báo/thanh toán/chấp nhận giúp
khách hàng phát triển kinh doanh, thì các hoạt động khác của ngân hàng cũng
phát triển theo. Ví dụ: mở được các khoản tín dụng xuất khẩu, chiết khấu bộ
chứng từ…
- Tăng cường mối quan hệ với các ngân hàng đại lý, làm tăng năng lực
kinh doanh đối ứng giữa các ngân hàng với nhau.
1.2.3.2. Nhược điểm
Bên cạnh những ưu điểm của phương thức thanh toán TDCT đối với ngân
hàng thương mại thì còn có nhược điểm của nó. Nhược điểm đó là những rủi ro
mà nó đem lại cho ngân hàng. Tùy thuộc vào vai trò của ngân hàng trong quy
trình thanh toán L/C mà nó gặp phải những rủi ro khác nhau.
a. Rủi ro đối với NHPH

NHPH phải thực hiện thanh toán cho người thụ hưởng theo quy định của
L/C ngay cả trong trường hợp nhà XK chủ tâm không hoàn trả hoặc không có
khả năng hoàn trả. Với lý do này, rủi ro tín dụng đối với NHPH là rất hiện hữu,
do đó, trước khi chấp nhận phát hành L/C, ngân hàng cần áp dụng một quy trình
thẩm định chặt chẽ giống như việc cấp tón dụng cho KH.
Trong số các nhân tố NHPH cần phải xem xét là liệu NH có thu lại được
một phần hay toàn bộ số tiền đã thanh toán từ việc bán hàng nếu nhà NK bị phá
sản. Câu hỏi cần trả lời đó là:
•Nhà nhập khẩu có chắc chắn là người sở hữu hàng hóa?
•Hàng hóa đảm bảo chất lượng và có thể bán được?
•Hàng hóa có dễ hỏng và giá cả có biến động?
•Hàng hóa có bị hư hại trong quá trình vận chuyển? nếu bị hư hại thì có
bảo hiểm? ngân hàng có quyền đòi tiền bảo hiểm?
•Có sự thông đồng lừa đảo giữa nhà xuất khẩu và nhập khẩu, hậu quả
có thể là hàng hóa sẽ không bao giờ được chuyển đi?
•Có hạn chế nào liên quan đến loại hàng hóa nhập khẩu, ví dụ hạn chế
về giấy phép kinh doanh, đối tượng mua bán?
- Khi L/C không có xác nhận, NHPH hay được yêu cầu chấp nhận thanh
toán cho người thụ hưởng mà chưa nhìn thấy bộ chứng từ. Trong trường hợp
này, nếu không có sự chấp thuận trước của người NK về việc hoàn trả, thì
NHPH sẽ gặp rủi ro khi bộ chứng từ có sai sót, nên nhà NK không chấp
nhận, do đó NH sẽ không truy hoàn được tiền từ nhà NK.
- Nếu NHPH trả tiền hay chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn, mà
không có sự kiểm tra một cách thích đáng bộ chứng từ, để bộ chứng từ có
lỗi, nhà NK không chấp nhận thì không thể đòi tiền nhà NK.
b. Rủi ro đối với ngân hàng thông báo (NHTB)
NHTB chịu trách nhiệm phải có sự “quan tâm hợp lý” để đảm bảo rằng thư
tín dụng là chân thật, bao gồm cả việc xác minh chữ ký, khóa mã, mẫu điện
trước khi gửi thông báo cho nhà NK.
c. Rủi ro đối với ngân hàng được chỉ định (NHCĐ)

Trừ khi là ngân hàng xác nhận, các ngân hàng được chỉ định không có một
trách nhiệm nào phải thanh toán cho người XK trước khi nhận được tiền từ
NHPH. Tuy nhiên, trong thực tế, trên cơ sở bộ chứng từ xuất trình, các ngân
hàng được chỉ định thường ứng trước cho nhà xuất khẩu với điều kiện truy
đòi( with recourse) để trợ giúp nhà xuất khẩu, do đó ngân hàng này phải tự chịu
rủi ro tín dụng đối với NHPH hoặc nhà XK.
d. Rủi ro đối với ngân hàng xác nhận (NHXN)
Nếu bộ chứng từ này là hoàn hảo, thì ngân hàng xác nhận phải trả tiền cho
người XK bất luận là có truy hoàn được tiền từ NHPH hay không. Như vậy,
NHXN chịu rủi ro tín dụng đối với NHPH, cũng như rủi ro chính trị và rủi ro cơ
chế( hạn chế ngoại hối) của nước NHPH.
Nếu NHXN trả tiền hay chấp nhận thanh toán hối phiếu kỳ hạn, mà không
có sự kiểm tra một cách thích đáng bộ chứng từ, để bộ chứng từ có lỗi, NHPH
không chấp nhận, thì không thể đòi tiền NHPH.
1.2.4 Cơ sở pháp lý:
Bởi hoạt động thanh toán TDCT khá phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro nên
cần có một quy tắc chung để đơn giản hóa hoạt động thanh toán này. Nếu quy tắc
đó mà được các bên vận dụng thì sẽ giúp hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất khi tham
gia vào quá trình thanh toán tín dụng chứng từ. Đó là lý do mà bản “ Quy tắc và
thực hành thống nhất về TDCT” ( Uniform Customs and Practice For Documentary
Credit – UCP) và “Tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế” ( The International
Standard Banking Pratice for the examination of documents under documemtary
credit – ISBP) đã được Phòng thương mại quốc tế (ICC) soạn thảo và ban hành
rộng rãi.
1.2.5. Quy trình nghiệp vụ của phương thức thanh toán L/C
1.2.5.1. Các thành phần tham gia thanh toán TDCT
Trong quá trình thanh toán TDCT, thông thường có các thành phần tham gia
như sau:
a. Người đề nghị phát hành thư tín dụng ( Applicant for Credit): người
nhập khẩu

b. Ngân hàng phát hành (Issuing bank): ngân hàng phục vụ người nhập
khẩu, ngân hàng mở thư tín dụng.
c. Người thụ hưởng (Beneficiary): người xuất khẩu
d. Ngân hàng thông báo(Advising bank): ngân hàng phục vụ người xuất
khẩu. Ngân hàng thông báo có thể là ngân hàng đại lý hoặc là chi nhánh của
ngân hàng phát hành ở nước người xuất khẩu.
Ngoài thành phần tham gia thanh toán nêu trên, trong thực tế tùy thuộc vào
từng loại thư tín dụng có thể xuất hiện thêm một số thành phần khác:
e. Ngân hàng xác nhận (Confirming bank): ngân hàng được chỉ định
trong thư tín dụng, thực hiện xác nhận(đảm bảo) TDCT theo yêu cầu của
NHPH
f. Ngân hàng được chỉ định (Norminated Bank): ngân hàng này được chỉ
định trong thư tín dụng.Tùy theo từng loại thư tín dụng mà ngân hàng này có
thể thực hiện một trong các nghiệp vụ sau đây:
+ Ngân hàng chỉ định thanh toán( Norminated Paying Bank)
+ Ngân hàng chỉ định chấp nhận ( Norminated Accepting Bank)
+ Ngân hàng chỉ định chiết khấu (Norminated Negotiating Bank)
g. Ngân hàng bồi hoàn ( Reimbursing Bank): là ngân hàng được ngân
hàng phát hành ủy nhiệm thực hiện thanh toán giá trị tín dụng thư cho ngân
hàng được chỉ định thanh toán hoặc chiết khấu. Ngân hàng bồi hoàn thường
tham gia trong trường hợp giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng được chỉ
định không có quan hệ tài khoản trực tiếp với nhau.
1.2.5.2. Quy trình nghiệp vụ thanh toán TDCT
a. Trường hợp L/C có giá trị thanh toán tại NHPH
Sơ đồ 1.1: Quy trình nghiệp vụ thanh toán L/C (1)
(3)
(6’)

NHPH
NHTB

(7)
(9) (8) (2) (7’) (6) (4)
(1)
(5)
Chú giải:
(1) Hai bên mua bán ký kết hợp đồng ngoại thương với điều khoản
thanh toán theo phương thức L/C.
(2) Căn cứ vào các điều khoản và điều kiện của hợp đồng ngoại
thương, nhà NK làm đơn gửi đến ngân hàng phục vụ mình, yêu cầu ngân
hàng phát hành một L/C cho nhà XK hưởng.
(3) Căn cứ vào đơn mở L/C, nếu chấp nhận thì NHPH lập L/C và
thông qua ngân hàng đại lý hoặc chi nhánh của mình ở nước nhà xuất khẩu
để thông báo L/C cho nhà XK
(4) Khi nhận được L/C NHTB kiểm tra, nếu L/C là chân thật thì
thông báo L/C cho nhà XK, nếu ngược lại thì gửi lại cho NHPH.
Người nhập khẩu Người xuất khẩu
(5) Nhà xuất khẩu kiểm tra L/C, nếu phù hợp với hợp đồng đã kí thì
tiến hành giao hàng, nếu không phù hợp thì đề nghị sửa đổi, bổ sung L/C cho
phù hợp với hợp đồng ngoại thương.
(6) và (6’) Sau khi giao hàng, nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của
L/C và xuất trình cho NHPH để thanh toán.
(7) NHPH sau khi kiểm tra chứng từ nếu thấy xuất trình phù hợp thì
tiến hành thanh toán, nếu thấy không phù hợp thì từ chối thanh toán và gửi
lại nguyên vẹn bộ chứng từ cho nhà XK
(8) Nhà NK hoàn trả cho NHPH
(9) NHPH trao bộ chứng từ cho ngân hàng NK.
b. L/C có giá trị thanh toán tại NHđCĐ
Sơ đồ 1.2. Quy trình nghiệp vụ thanh toán L/C (2)
(3)
(8)

(9)
(11) (10) (2) (7) (6) (4)
(1)

NHPH
NHTB & NHđCĐ
Người nhập khẩu Người xuất khẩu
(5)
Chú giải:
Các bước từ (1-5) giống trường hợp L/C có giá trị tại NHPH
(6) Sau khi giao hàng, nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C
và xuất trình cho NHđCĐ để thanh toán
(7) NHđCĐ sau khi kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì
tiến hành thanh toán, nếu thấy không phù hợp thì từ chối thanh toán và gửi trả
lại nguyên vẹn bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu.
(8) NHđCĐ gửi bộ chứng từ cho NHPH để được hoàn trả.
(9) NHPH kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì tiến hành
thanh toán cho NHđCĐ, nếu thấy không phù hợp, thì từ chối thanh toán và gửi
trả lại nguyên vẹn bộ chứng từ cho NHđCĐ.
(10) NHPH đòi tiền nhà NK và chuyển bộ chứng từ cho ngân hàng nhập
khẩu sau khi đã nhận được tiền hoặc chấp nhận thanh toán.
(11) Nhà nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ nếu thấy phù hợp với L/C thì trả
tiền hoặc chấp nhận hối phiếu, nếu thấy không phù hợp thì có quyền từ chối trả
tiền.
1.3. CHẤT LƯỢNG THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1. Khái niệm chất lượng thanh toán TDCT
Thanh toán TDCT là hoạt động mang lại doanh thu cực lớn cho các ngân
hàng không những về giá trị tuyệt đối mà cả về tỷ trọng. Vậy để chúng ta có thể
phát triển nghiệp vụ quan trọng này thì cần phải nắm bắt rõ những vấn đề ảnh

hưởng đến tính chất, chất lượng thanh toán.Chất lượng của nghiệp vụ thanh toán
TDCT được hiểu là giá trị của việc thanh toán mang lại hiệu quả kinh tế và lợi
ích cho cả ngân hàng và khách hàng. Mà chất lượng của hoạt động dịch vụ được
đo bằng những đặc tính làm thỏa mãn tốt nhất các nhu cầu của khách hàng và
chỉ được đánh giá sau khi đã tiêu dùng nó. Tức là không chỉ bằng các phép tính
hay con số là thể hiện được mà còn phải quan sát các yếu tố định tính nên công
tác đánh giá chất lượng càng khó khăn hơn.
Chất lượng thanh toán TDCT được thể hiện ở cả hai mặt là thanh toán
hàng nhập và thanh toán hàng xuất. Trong đó, chất lượng thanh toán hàng
nhập khẩu được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như thời gian mở L/C hợp lý,
chất lượng kiểm tra chứng từ…Thanh toán hàng xuất khẩu thì biểu hiện ở thời
gian thanh toán chính xác, nhanh chóng, kịp thời và khả năng tư vấn của ngân
hàng đối với các nhà kinh doanh XNK với chi phí thấp nhất.
1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng thanh toán TDCT của
NHTM
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và hiện đại hoá, các NHTM đều
phải tiến tới mô hình ngân hàng hiện đại – ngân hàng phát triển các sản phẩm
dịch vụ và thu nhập từ dịch vụ phải chiếm 50% tổng thu nhập của Ngân hàng
( con số này trên thực tế chỉ chiếm 30%, còn lại 70% là thu từ tín dụng). Trong
các sản phẩm dịch vụ NH thì kinh doanh ngoại hối và Thanh toán quốc tế chiếm
một vị trí quan trọng.
Việc nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán L/C thiết lập nên nhiều mối
quan hệ NH đại lý với NH nước ngoài nhằm sử sụng tối ưu công suất của máy
và người, làm giảm chi phí và tăng lợi nhuận, đồng thời bổ sung và hỗ trợ các
hoạt động khác của Ngân hàng, gián tiếp tạo ra lợi nhuận từ những hoạt động
này, từ đó góp phần tăng doanh thu TTQT cũng như mở rộng thị trường cho các
NHTM.
Nghiệp vụ thanh toán TDCT được mở rộng và nâng cao chất lượng còn
đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở nâng cao uy tín và
tên tuổi cho NHTM không chỉ trên thị trường trong nước mà còn trên cả thị

trường quốc tế.
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ
1.3.3.1. Xác định chính xác tính chân thực bề ngoài của L/C:
Việc xác định tính chân thực bề ngoài của L/C là trách nhiệm của ngân
hàng thông báo (NHTB). Nếu một L/C mà được thông báo tới người thụ hưởng
với cam kết của NHTB rằng đó là L/C chân thực thì ngân hàng đó sẽ phải chịu
mọi rủi ro phát sinh khi kết luận của họ là không chính xác. Thời gian kiểm tra
của NHTB càng ngắn thì càng tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu có thể thực hiện
hợp đồng ngoại thương nhanh chóng hơn.
1.3.3.2. L/C được mở vào thời gian hợp lý và có nội dung phù hợp:
L/C sẽ được NHPH mở khi họ nhận thấy đơn yêu cầu mở L/C của nhà
nhập khẩu hội đủ các tiêu chuẩn: phù hợp với khả năng của ngân hàng, chính
xác so với các hợp đồng ngoại thương, không vi phạm quy định của các điều
luật và công ước quốc tế, quốc gia, đảm bảo lợi ích tương đối cho các bên, trong
đó có cả NHPH. Thời gian mở L/C được NHPH rất chú ý vì phải không vi phạm
các thỏa thuận trong hợp đồng ngoại thương nhưng cũng phải tính toán đến thời
gian luân chuyển L/C tới tay nhà xuất khẩu để họ quyết định xem L/C đã phù
hợp chưa và chuẩn bị giao hàng cho kịp. Nhưng nếu mở quá sớm thì nhà nhập
khẩu sẽ bị đọng vốn, không có lợi ích cho việc sản xuất kinh doanh.
Về nội dung, NHPH phải đảm bảo rằng L/C dễ hiểu, chuyển tải đầy đủ
những nội dung cơ bản, quan trọng của hợp đồng ngoại thương. Các điều khoản
phải chặt chẽ và phù hợp với các văn bản pháp quy điều chỉnh, không nên làm
ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu vì dễ dẫn đến bổ
sung, sửa chữa, vừa tốn thời gian, chi phí lại làm giảm uy tín của NHPH.
1.3.2.3. Chất lượng dịch vụ tư vấn khách hàng:
Phương thức thanh toán L/C là phương thức đã mang lại nhiều lợi ích hơn
cho cả người xuất khẩu và người nhập khẩu so với các phương thức thanh toán
khác, song cùng với đó là sự phức tạp trong quá trình tiến hành thanh toán. Đặc
biệt đối với nhà xuất khẩu, việc họ được thanh toán sớm hay muộn phụ thuộc rất
nhiều vào bộ chứng từ mà họ xuất trình có hoàn hảo hay không. Do trình độ

nghiệp vụ về thanh toán quốc tế của thanh toán quốc tế của các doanh nghiệp
phần lớn còn kém, vì vậy họ luôn nhờ tới sự tư vấn của ngân hàng trong việc lựa
chọn khách hàng, lựa chọn loại L/C, cách lập bộ chứng từ hoàn hảo…để đảm
bảo trong quá trình thanh toán họ hạn chế được mức tối thiểu những sai sót, rủi
ro có thể xảy ra. Nếu ngân hàng làm tốt được việc này thì cũng góp phần hạn
chế rủi ro và đẩy nhanh quá trình kiểm tra chứng từ, một yếu tố cũng góp phần
nâng cao chất lượng thanh toán cho ngân hàng.
1.3.2.4. Chất lượng kiểm tra chứng từ:
Quyền hạn và trách nhiệm của các ngân hàng tham gia thanh toán đã được
quy định rất rõ ràng trong các điều khoản của UCP. Chất lượng kiểm tra bộ
chứng từ của các ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến uy tín, khả
năng cạnh tranh của các ngân hàng mà còn đến quyền lợi của nhà xuất khẩu và
nhập khẩu. Nếu bộ chứng từ có sai sót mà các ngân hàng lại quyết định là phù
hợp và thanh toán cho nhà xuất khẩu thì làm cho nhà nhập khẩu bị rủi ro vô
cùng lớn. Ngược lại, nếu ngân hàng từ chối thanh toán và đưa ra những lý do
không hợp lý thì có thể sẽ bị nhà xuất khẩu kiện ra toàn án quốc tế, vừa mất uy
tín vừa làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quan hệ buôn bán giữa hai bên, và như
thế không chỉ mất khách hàng trong một lĩnh vực mà có thể ở cả nhiều sản
phẩm khác của ngân hàng đó.
Ngoài ra, chất lượng kiểm tra chứng từ của các ngân hàng còn thể hiện ở
thời gian mà ngân hàng đó hoàn thành nhiệm vụ kiểm tra sự phù hợp hay tính
chân thực của bộ chứng từ được xuất trình. Vì nếu càng kiểm tra nhanh và chính
xác thì thời gian thanh toán sẽ càng được rút ngắn, tạo điều kiện thuận lợi cho
mối quan hệ kinh doanh giữa các bên. Do đó, để tăng tính cạnh tranh trên thị
trường đòi hỏi các ngân hàng vừa phải kiểm tra cẩn thận vừa phải hoàn thành
trong thời gian ngắn nhất có thể. Nếu ngoài thời hạn kiểm tra chứng từ đã được
quy định trong UCP thì dù có phát hiện ra sai sót của bộ chứng từ các ngân hàng
cũng đã mất quyền từ chối thanh toán.
1.3.2.5. Khả năng tài trợ của ngân hàng theo phương thức TDCT:
Như chúng ta biết không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng ký quỹ

toàn bộ giá trị L/C khi xin NHPH mở một tín dụng thư, nhất là đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do vậy, để thực hiện mục tiêu phát triển ngành xuất
nhập khẩu, trong khi phần lớn các doanh nghiệp nước ta thuộc loại hình doanh
nghiệp có quy mô vốn còn nhỏ hẹp, thì cần đến sự giúp đỡ rất lớn từ phía các
ngân hàng. Nếu ngân hàng chấp nhận tài trợ cho nhiều doanh nghiệp mà theo
thẩm định của ngân hàng là đủ độ tin cậy thì ngoài việc tạo điều kiện cho hoạt
động của các doanh nghiệp thông suốt còn quảng bá được năng lực của ngân
hàng mình trên thị trường.
1.3.2.6.Sự cân đối giữa L/C xuất khẩu và L/C nhập khẩu:
Sự cân đối giữa L/C xuất khẩu và L/C nhập khẩu thể hiện khả năng của
ngân hàng trong việc thực hiện đồng đều cả chức năng phục vụ nhà xuất khẩu
và nhà nhập khẩu trong phương thức thanh toán TDCT. Nếu số lượng và giá trị
có khả năng tài trợ cho nhà xuất khẩu tốt, các điều kiện để được tài trợ cũng đơn
giản, hoặc có đại lý rộng lớn, thích hợp cho việc thông báo L/C tới nhà xuất
khẩu nhưng lại không đủ năng lực và uy tín để khách hàng xin mở L/C. Trường
hợp ngược lại chứng tỏ ngân hàng rất chặt chẽ trong việc kiểm tra sự phù hợp
của chứng từ trước khi trả tiền cho nhà xuất khẩu, giúp đảm bảo an toàn trong
thanh toán TDCT nhưng lại yêu cầu cao đối với các doanh nghiệp hoạt động
xuất khẩu xin tài trợ trước. Đó là các lý do xuất phát từ các yếu tố nội tại của
ngân hàng chứ chưa tính đến đặc thù của thị trường. Với nước ta thì hiện tượng
nhập siêu luôn chiếm tỷ trọng lơn hơn so với xuất siêu nên khả năng cân đối
L/C xuất khẩu và L/C nhập khẩu cũng cần xem xét một cách tương đối.
Muốn có được sự cân đối trên thì trước hết ngân hàng cần có nguồn vốn
ngoại tệ đủ mạnh để trang trải cho các chi phí phát sinh trong các hoạt động
thanh toán. Nguồn vốn đó có phần không nhỏ là đóng góp của doanh thu từ các
hoạt động tài trợ nhập khẩu. Sau khi đã thanh toán cho nhà xuất khẩu ngân hàng
sẽ quay lại yêu cầu người xin mở L/C hoàn trả lại khoản mà ngân hàng đã thay
mặt thanh toán. Hiệu quả của quá trình thanh toán không chỉ thể hiện giữa ngân
hàng và người thụ hưởng mà còn ở giai đoạn thu hồi vốn của ngân hàng từ nhà
nhập khẩu. Để tránh rủi ro xảy ra cho mình thì ngay từ khi thẩm định đơn yêu

cầu mở L/C của khách hàng, ngân hàng phải đánh giá được đối tượng và có tin
tưởng vào nhà NK thì ngân hàng mới chấp nhận phát hành L/C.
1.3.2.7. Tỷ lệ rủi ro trong thanh toán thấp:
Tỷ lệ này càng thấp càng chứng tỏ chất lượng thanh toán của các ngân
hàng càng cao. Mỗi ngân hàng với khả năng riêng, hoàn cảnh và chức năng
riêng sẽ gặp phải những rủi ro khác nhau.
-NHPH: Do NHPH sẽ gặp rủi ro khi họ thẩm định sai khách hàng, dẫn đến
sau khi đã làm xong trách nhiệm thanh toán cho người thụ hưởng thì họ không
thể thực hiện quyền đòi tiền của mình. Hoặc nhà xuất khẩu có chủ tâm lừa đảo
ngân hàng, lập các chứng từ giả làm ngân hàng không phát hiện được và phải
thanh toán. Rủi ro cũng đến từ các nhà nhập khẩu khi họ không có khả năng tài
chính để trả cho ngân hàng do các tình huống bất khả kháng. Cũng có khi do
nhà nhập khẩu không có thiện chí trả tiền, việc kiện ra tòa để giải quyết có thể
sẽ lấy lại được lợi ích mà ngân hàng đáng được hưởng nhưng sẽ mất thời gian
và gây ảnh hưởng lớn đến các hoạt động của ngân hàng. Mặt khác, NHPH có
thể không thu hồi được tiền trong khi vẫn phải thanh toán cho bên xuất khẩu khi
ngân hàng đó không làm đúng theo UCP hay các điều kiện, điều khoản mà L/C
đã dẫn chiếu.
-NHTB:Vì trách nhiệm của NHTB là kiểm tra tính chân thực bề ngoài của
L/C hay sửa đổi L/C nên rủi ro đến với ngân hàng này cũng xuất phát từ khả
năng thẩm định của họ. NHTB có thể chỉ thông báo mà không xác nhận là L/C
đó có tính chân thực bề ngoài, nhưng nếu thông báo nhầm một L/C giả không
ghi chú gì thì sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với các bên liên quan.
-Ngân hàng xác nhận (NHXN): L/C cần phải xác nhận khi nó có giá trị lớn,
nhà xuất khẩu chưa tin tưởng vào NHPH do đó là ngân hàng lạ, chưa có uy tín
cao, hoặc do hai bên mới kết giao buôn bán với nhau mà nhà xuất khẩu không
hiểu rõ luật lệ, tập quán của nước nhập khẩu. Rủi ro xảy đến xác nhận L/C mà
không yêu cầu ký quỹ. Đến khi NHPH thiếu thiện chí hay mất khả năng thanh
toán, thậm chí bị phá sản thì NHXN sẽ phải trả tiền cho người thụ hưởng khi
người này có một xuất trình phù hợp.

- Ngân hàng chiết khấu: Có hai hình thức chiết khấu là miễn truy đòi và có
truy đòi.Nếu ngân hàng sử dụng chiết khấu miễn truy đòi thì sẽ hứng chịu rủi ro
lớn khi NHPH từ chối thanh toán cho bộ chứng từ, khi đó họ sẽ không thể yêu
cầu người thụ hưởng hoàn trả số tiền đã chiết khấu.Ngân hàng chiết khấu cũng
sẽ không đòi được tiền khi NHPH bị mất khả năng thanh toán hoặc thực hiện sai
các chỉ thị trong L/C.
1.3.2.8. Chất lượng hoạt động của các ngân hàng đại lý:
Nếu một ngân hàng mà có mạng lưới đại lý hoạt động hiệu quả và phân bổ
rộng khắp trên thế giới thì họ sẽ không bị giới hạn trong khu vực địa lý nào. Khi
đó quy trình thanh toán sẽ diễn ra một cách nhanh chóng và suôn sẻ, ít gặp phải
rủi ro vì đã có mối quan hệ với các ngân hàng đại lý từ trước, hiểu rõ về nhau và
về luật pháp của nhau. Hơn nữa, khi các ngân hàng đại lý hoạt động hiệu quả
còn giúp xác minh tính chân thực của các bên trong hợp đồng ngoại thương,
không phải thông qua các bên trung gian vừa mất phí vừa tốn kém thời gian.
1.3.2.9.Thu phí dịch vụ hợp lý:
Phí dịch vụ cao hay thấp là phụ thuộc vào chất lượng thanh toán ở từng
ngân hàng, vào đặc điểm của khoản thanh toán( giá trị cao hay thấp, khoảng
cách địa lý xa hay gần, ở nước đó có ngân hàng đại lý của mình hay không) và
vào tình hình cạnh tranh trên thị trường.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thanh toán TDCT
1.3.4.1 Nhân tố khách quan:
a.Sự đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật:
Hệ thống pháp lý trong hoạt động TTQT nói chung và hoạt động thanh
toán TDCT nói riêng đầy đủ, rõ ràng cũng tạo điều kiện cho hoạt động này phát
triển. Vì hoạt động thanh toán TDCT chịu sự điều chỉnh của các nguồn luật: luật
quốc gia, các quyết định của ngân hàng, các thông lệ và luật pháp quốc tế. Nếu
hệ thống pháp luật đồng bộ, có hiệu quả và thống nhất sẽ tạo điều kiện thuận lợi,
làm giảm rủi ro cho hoạt động TTQT của ngân hàng, giúp tránh được những
xung đột pháp lý trong quá trình giao lưu thương mại giữa các quốc gia.
b.Môi trường kinh tế- chính trị xã hội:

Môi trường kinh tế - chính trị xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động
của các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp XNK từ đó ảnh hưởng mạnh
mẽ đến doanh số L/C.Khi nền kinh tế phát triển mạnh về nền chính trị ổn định
thì kim ngạch XNK tăng và doanh số L/C tăng theo nếu khách hàng chọn
phương thức tín dụng chứng từ để thanh toán, giá trị của mỗi món cũng tăng
theo và ngược lại.

×