DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Bảng 1.1: Một số nhân tố của phương thức chuyển tiền
Bảng 1.2: So sánh các phương thức thanh toán quốc tế
Sơ đồ 1.1: Quy trình thanh toán L/C
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổ chức Chi nhánh Thăng Long
Bảng 2.1: Tổng nguồn và cơ cấu nguồn vốn qua các năm 2006 – 2008
Bảng 2.2: Tổng dư nợ và cơ cấu dư nợ qua các năm 2006 – 2008
Bảng 2.3: Kết quả tài chính qua các năm 2006 – 2008
Bảng 2.4: Kết quả kinh doanh ngoại tệ qua các năm 2006 – 2008
Bảng 2.5: Thu – chi phí mua bán USD với Trung ương
Bảng 2.6: Kết quả hoạt động chuyển tiền qua các năm 2006 - 2008
Bảng 2.7: Phân loại hoạt động chuyển tiền theo mục đích
Bảng 2.8: Kết quả hoạt động thanh toán nhờ thu
Bảng 2.9: Kết quả hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu
Bảng 2.10: Kết quả hoạt động thanh toán L/C xuất khẩu
Bảng 2.11: Giá trị trung bình 1 món thuộc hoạt động thanh toán L/C xuất
Bảng 2.12: Tổng hợp hoạt động thanh toán L/C xuất nhập khẩu
Biểu đồ 2.1: Thu phí từ hoạt động thanh toán quốc tế
Bảng 2.13: Biểu phí của một số sản phẩm, dịch vụ ở Agribank
LỜI NÓI ĐẦU
Một trong những xu thế phát triển kinh tế mạnh mẽ nhất hiện nay là xu
thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới. Đây là một quá trình tất yếu của
sự phát triển kinh tế - xã hội trên toàn thế giới, trong đó các hàng rào thuế
quan và mậu dịch dần dần bị xóa bỏ. Với điều kiện hội nhập này thì hoạt động
xuất nhập khẩu diễn ra ngày càng sôi động với nhiều loại hàng hóa, dịch vụ
và dưới nhiều hình thức khác nhau.
Ở Việt Nam hiện nay, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng các biện pháp
để phát triển hoạt động xuất nhập khẩu, hàng năm chiếm 70%GDP của cả
nước. Để thực hiện được chủ trương trên, hệ thống ngân hàng thương mại
trong đó có Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
(NHNo & PTNT) cần nhận thức đúng đắn vai trò và phát triển hơn nữa hoạt
động thanh toán quốc tế; bởi đây là một trong những điều kiện quan trọng
nhằm phát triển hoạt động thương mại quốc tế của một nước.
Ngay từ khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào kinh tế thế giới bằng việc
gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, NHNo & PTNT Việt Nam đã
nhận thấy nhiều cơ hội lớn để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế. Từ đó
Ngân hàng đã có đề án đổi mới hoạt động dịch vụ này trên toàn hệ thống. Chi
nhánh NHNo & PTNT Thăng Long là một trong các chi nhánh lớn nhất thuộc
hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam, do đó nơi đây đã được chọn làm một
trong những nơi thực hiện đề án đổi mới trên để phát triển hoạt động thanh
toán quốc tế.
Trong hoạt động thanh toán quốc tế thì thanh toán xuất nhập khẩu bằng
phương thức tín dụng chứng từ là một hoạt động nổi bật và chiếm tỷ trọng lớn
nhất tại Chi nhánh Thăng Long. Với lý do trên em chọn đề tài nghiên cứu:
“Phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức tín dụng
chứng từ tại Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long”.
Bằng phương pháp tổng hợp, thống kê, việc nghiên cứu đề tài này
nhằm mục đích làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động thanh
toán quốc tế bằng L/C tại nơi em thực tập là Chi nhánh Thăng Long. Từ đó đề
xuất một vài giải pháp để giúp Chi nhánh tham khảo, hoàn thiện và phát triển
hơn nữa hoạt động này trong thời gian tới.
Để đạt được các mục tiêu trên, bài viết gồm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về thanh toán theo phương thức tín dụng
chứng từ.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu bằng
phương thức tín dụng chứng từ tại Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng Long
- Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu
bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Chi nhánh NHNo & PTNT Thăng
Long.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN THEO
PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức có vai trò quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Các ngân hàng thương
mại có mặt khắp nơi trên toàn thế giới, khách hàng của họ là cá nhân, hộ gia
đình, doanh nghiệp và thậm chí là cả Chính phủ.
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính có các nghiệp vụ
chính là nhận tiền gửi, cho vay và là trung gian thanh toán của nền kinh tế.
Định nghĩa trên cho thấy 3 chức năng chính của ngân hàng thương mại
là: trung gian tài chính, tạo phương tiện thanh toán và trung gian thanh toán.
Các ngân hàng thương mại thực hiện vai trò trung gian tài chính thông qua
hút vốn trong xã hội bằng cách phát hành các loại tiền gửi (tiền gửi thanh
toán, tiền gửi có kỳ hạn…), sau đó dùng vốn này để cho vay. Không chỉ như
vậy, tổ chức này còn phát hành giấy nhận nợ, do nó có một số ưu điểm nên
chúng đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp
nhận. Từ đó chức năng tạo phương tiện thanh toán được thực hiện. Ngoài ra,
để việc thanh toán diễn ra một cách nhanh chóng và thuận tiện với chi phí
thấp, ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như
thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, các loại thẻ… Vì vậy, họ không chỉ thanh
toán được trong nước mà còn có thể thanh toán được với đối tác nước ngoài
thông qua các trung tâm thanh toán quốc tế. Như vậy, chức năng cuối cùng là
làm trung gian thanh toán đã được ngân hàng thương mại thực hiện.
1.1.2 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại cung cấp rất nhiều sản phẩm, dịch vụ cho khách
hàng trong đó có một số hoạt động chính sau:
Cho vay: đây là hoạt động mang lại nguồn thu lớn nhất cho các ngân
hàng. Hoạt động này giúp cho những người thiếu vốn trong nền kinh tế có
tiền để tiến hành mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của người dân... Ta có thể kể đến một số hình thức cho vay sau: chiết
khấu thương phiếu, tài trợ dự án, cho vay tiêu dùng...
Nhận tiền gửi: để có tiền cho vay ngân hàng đã cho ra đời nhiều hình
thức để huy động được tiền. Phương pháp phổ biến được các tổ chức tín dụng
này áp dụng đó là trả lãi cho các khoản tiền gửi để bù đắp cho khách hàng về
việc họ sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng hiện tại.
Mua bán ngoại tệ: ngân hàng có thể đứng ra mua bán ngoại tệ cho
khách hàng hoặc cho chính bản thân ngân hàng để được hưởng phí dịch vụ và
chênh lệch tỷ giá.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: ngân hàng sẽ
thực hiện thanh toán hộ cho doanh nghiệp và người dân khi họ có yêu cầu với
điều kiện đã mở tài khoản tại đây. Việc này không chỉ làm tăng số tiền mà
ngân hàng huy động được mà còn giúp cho khách hàng được hưởng thêm các
tiện ích khi không dùng tiền mặt (như an toàn, nhanh chóng, chính xác...).
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: nhu cầu chi tiêu của Chính phủ
rất lớn, trong khi đó ngân hàng thương mại lại có khả năng huy động vốn và
cho vay với khối lượng lớn. Do đó, muốn được thành lập thì các ngân hàng
phải chịu sự kiểm soát và cam kết tài trợ một phần cho các hoạt động của
Chính phủ khi có nhu cầu.
Một số hoạt động khác: bảo quản vật có giá, cho thuê, tư vấn, cung cấp
dịch vụ đại lý, bảo hiểm, môi giới đầu tư chứng khoán.
1.2 Thanh toán quốc tế
Mỗi quốc gia có điều kiện địa lý, tự nhiên, trình độ phát triển xã hội và
khoa học khác nhau, do đó sự phát triển kinh tế cũng như các nhu cầu của
người dân về cơ sở vật chất trong các quốc gia cũng khác nhau. Trước sự đòi
hỏi ngày càng phong phú về chất và đa dạng về lượng mà chỉ giới hạn ở mỗi
một quốc gia thì chắc chắn không thể đáp ứng đủ, hoạt động thương mại quốc
tế trong đó có thanh toán quốc tế đã ra đời.
1.2.1 Khái niệm thanh toán quốc tế
Xuất phát từ thực tiễn, các hoạt động trao đổi, buôn bán diễn ra thường
xuyên và ngày càng phát triển hơn. Ban đầu chỉ có nhà buôn tham gia vào
hoạt động này, họ tự thống nhất với nhau địa điểm, loại tiền hoặc vật chất trao
đổi... Sau đó có thêm các chủ thể khác mà có thể kể đến như các trung gian tài
chính, người vận chuyển, nhà bảo hiểm... Đặc biệt việc trao đổi giữa các quốc
gia với nhau làm phát sinh các khoản thu chi trong từng giao dịch, hoạt động
này phụ thuộc vào quy định thống nhất giữa hai nước, đó là: thanh toán quốc
tế.
Vậy “thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và quyền
hưởng lợi về tiền tệ phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế
giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác, hay giữa
một quốc gia với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của
các nước liên quan”.
Sự khác nhau lớn nhất giữa thanh toán quốc tế và thanh toán quốc nội
chính là yếu tố ngoại quốc: chủ thể tham gia thanh toán quốc tế nhất thiết phải
có ít nhất một bên là người không cư trú, tiền tệ được sử dụng là ngoại tệ đối
với một trong hai quốc gia; còn hàng hóa thì thông thường được luân chuyển
ra khỏi biên giới một quốc gia… Hơn nữa, hoạt động thanh toán quốc tế chứa
đựng nhiều rủi ro hơn so với hoạt động thanh toán quốc nội do hoạt động này
diễn ra trong một không gian lớn, thời gian thanh toán dài, liên quan đến
nhiều bên tham gia (ít nhất là hai quốc gia), chịu sự điều chỉnh của nhiều
nguồn luật.
1.2.2 Các yếu tố cơ bản của thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là một hoạt động phức tạp, bao gồm nhiều bên tham
gia, nhiều cách thức, phương tiện thanh toán. Do đó để nghiên cứu kỹ hơn
hoạt động này ta cần tìm hiểu các yếu tố cơ bản có trong thanh toán quốc tế
1.2.2.1 Chủ thể tham gia thanh toán quốc tế
Hoạt động thanh toán quốc tế có các chủ thể sau tham gia vào quá trình
này đó là:
Ngân hàng trung ương đóng vai trò là người thay mặt Chính phủ ký kết
các hiệp định, điều ước quốc tế, luật quốc tế về tiền tệ và tín dụng. Đồng thời
đây cũng là Ngân hàng tổ chức, điều hành, quản lý các ngân hàng thương mại
trong hoạt động tiền tệ và thanh toán quốc tế.
Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính quan trọng tham gia
vào hoạt động thanh toán quốc tế. Với mạng lưới rộng khắp trên toàn quốc, và
có mối quan hệ ngân hàng đại lý với hầu khắp các ngân hàng khác trên thế
giới, ngân hàng thương mại đóng vai trò là trung gian thanh toán, chuyển tiền
cho các bên tham gia. Ngoài ra, tổ chức tài chính này còn hỗ trợ, thúc đẩy
thanh toán quốc tế được diễn ra nhanh chóng hơn do họ có thể cho các hãng
buôn, doanh nghiệp xuất nhập khẩu vay tiền mua hàng hóa, hoặc đứng ra bảo
lãnh cho bên mua hàng để đảm bảo hoạt động thanh toán quốc tế diễn ra
thuận lợi và ít rủi ro hơn.
Ngoài hai chủ thể trên còn có các chủ thể khác như: pháp nhân, thể
nhân kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ... hãng bảo hiểm, vận tải...
Tham gia vào hoạt động thanh toán quốc tế họ sẽ là người ủy thác cho ngân
hàng thu hộ các khoản phải thu và chi hộ những khoản phải thu.
1.2.2.2 Tiền tệ chủ yếu sử dụng trong thanh toán quốc tế
*) Việc lựa chọn đồng tiền nào trong thanh toán quốc tế sẽ phụ thuộc
vào sự thỏa thuận của hai bên tham gia mua bán trao đổi hàng hóa với nhau.
Tuy nhiên để thống nhất thì nhất thiết phải phân loại tiền tệ trong thanh toán.
- Căn cứ vào phạm vi sử dụng tiền tệ thì chia thành:
Tiền tệ thế giới (World currency): là tiền tệ được tất cả các quốc gia
trên thế giới thừa nhận làm phương tiện thanh toán quốc tế và dự trữ quốc tế,
mà không cần có sự thừa nhận trong một văn bản, Hiệp định nào. Hiện nay
chưa có một đồng tiền nào có thể thay thế vàng đóng vai trò tiền tệ thế giới.
Tiền tệ quốc tế (International currency): là tiền tệ chung của một khối
kinh tế hay tiền của hiệp định quốc tế. Ví dụ: USD, SDR, EUR...
Tiền tệ quốc gia (National currency): là tiền tệ của một nước riêng biệt.
Ví dụ: VND, JPY, GBP...
- Căn cứ vào sự chuyển đổi tiền tệ thì chia thành:
Tiền tự do chuyển đổi (Free convertible currency): là đồng tiền của một
quốc gia này có thể đổi sang đồng tiền của quốc gia khác qua hệ thống ngân
hàng nước đó mà không cần giấy phép. Căn cứ vào 3 yếu tố: chủ thể chuyển
đổi, mức độ chuyển đổi, nguồn thu nhập tiền tệ mà có thể chia tiếp thành tiền
tệ tự do chuyển đổi toàn bộ và tự do chuyển đổi từng phần. Ví dụ: đồng tiền
tự do chuyển đổi toàn bộ như USD, EUR, CHF..., với Việt Nam đồng tiền tự
do chuyển đổi từng phần như THB, INR, KRW...
Tiền tệ chuyển khoản (Tranferable currency): là tiền tệ ghi trên tài
khoản, thông qua hệ thống tài khoản mở tại ngân hàng, tiền được chuyển từ
tài khoản này sang tài khoản khác khi có yêu cầu mà không cần giấy phép.
Như vậy, tiền tệ chuyển khoản chỉ có thể chuyển nhượng quyền sở hữu từ
người này sang người khác mà không thể tự do chuyển đổi sang đồng tiền
khác.
Tiền tệ song biên (Clearing currency): là tiền tệ ghi trên tài khoản, được
quy định trong hiệp định thanh toán bù trừ được ký kết giữa Chính phủ hai
nước với nhau. Loại tiền này không được chuyển đổi cũng như chuyển khoản
mà chỉ được ghi Nợ và ghi Có, cuối năm sẽ tiến hành bù trừ. Bên nào dư Nợ
sẽ phải trả bên kia một khoản tiền, cách thức chi trả được quy định trong hiệp
định đã ký kết.
- Căn cứ vào hình thức tồn tại của đồng tiền thì chia thành:
Tiền mặt (Cash): là tiền giấy, tiền kim loại do Ngân hàng trung ương
(hoặc Kho bạc nhà nước) của các quốc gia in ấn, phát hành. Tỷ trọng của loại
tiền này trong thanh toán quốc tế không đáng kể.
Tiền tín dụng (Credit currency): là tiền ghi sổ, tiền trên tài khoản. Loại
tiền này chiếm tỷ trọng rất lớn trong thanh toán.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng đồng tiền thì chia thành:
Tiền tính toán (Account currency): là tiền tệ được dùng để thể hiện giá
cả cũng như tổng giá trị của hợp đồng mua bán giữa các bên.
Tiền thanh toán (Payment currency): là tiền tệ được dùng để thanh toán
nợ hoặc thanh toán cho các hợp đồng đã được ký kết.
*) Đồng tiền nào được lựa chọn sử dụng trong thanh toán quốc tế là do
sự thỏa thuận giữa 2 bên mua – bán, tuy vậy còn bị phụ thuộc vào các nhân tố
như: tương quan so sánh trong quan hệ ngoại thương, vị trí của đồng tiền
được lựa chọn tại thời điểm giao dịch, và đặc biệt là tập quán sử dụng đồng
tiền trong việc mua bán một số mặt hàng – ví dụ: dầu thô thường sử dụng
USD, kim loại màu sử dụng GBP...
Nhìn chung trong thanh toán quốc tế bên nào cũng muốn chọn đồng
tiền của nước mình làm tiền tệ thanh toán bởi qua đó vị thế của đồng tiền
nước mình được nâng cao trên thị trường tiền tệ quốc tế. Hơn nữa việc này
còn giúp cho bên đó chủ động hơn trong việc thanh toán và giảm thiểu rủi ro
khi tỷ giá ngoại tệ biến động.
*) Trong bối cảnh hiện nay, giá cả các mặt hàng luôn thay đổi, cơ chế
tỷ giá thả nổi được hầu hết các quốc gia thực hiện do đó các khoản phải thu,
phải trả bằng ngoại tệ bị biến động. Để giảm thiểu rủi ro tỷ giá, để tránh việc
giá trị tiền tệ được nhận khác với giá trị hàng hóa đã trao, các bên tham gia
thanh toán có thể ký kết với nhau một trong các điều kiện đảm bảo hối đoái
sau:
Điều kiện đảm bảo bằng vàng: hình thức thông dụng nhất là loại tiền tệ
đã được chọn để sử dụng trong thanh toán sẽ được đảm bảo bằng vàng, tức là
xác định giá vàng theo đồng tiền này. Như vậy khi giá vàng thay đổi thì giá
hàng hóa và tổng giá trị ghi trong hợp đồng mua bán cũng sẽ được điều chỉnh
tương ứng.
Điều kiện đảm bảo bằng ngoại hối: thay cho vàng ở trên, đồng tiền
được chọn sẽ được xác định tỷ giá theo một đồng tiền khác tương đối ổn định.
Trước một ngày thanh toán lấy lại tỷ giá giữa 2 đồng tiền này để xem xét sự
biến động.
Tuy nhiên hạn chế của điều kiện này là không tránh được tình trạng cả
2 đồng tiền cùng lên giá, hoặc cùng xuống giá thì tỷ giá xác định sẽ không
thay đổi. Do đó để hạn chế nhược điểm trên ta có thể sử dụng biện pháp đảm
bảo hỗn hợp, tức là đầu tiên 2 bên cùng thỏa thuận lựa chọn ra đồng tiền để
thanh toán, sau đó lựa chọn tiếp đồng tiền tương đối ổn định và xác định giá
vàng theo đồng tiền này.
Điều kiện đảm bảo theo “rổ” tiền tệ: trong điều kiện hiện nay thì bản
thân giá vàng cũng luôn biến động, do đó để hạn chế nhược điểm trên các bên
tham gia thanh toán không lựa chọn một loại tiền tệ, hay vàng để đảm bảo mà
thay vào đó là một “rổ” tiền tệ. Một “rổ” này sẽ bao gồm nhiều loại ngoại tệ
mạnh, tương đối ổn định tại thời điểm giao dịch, sau đó sẽ xác định tỷ giá
trung bình của cả “rổ” với đồng tiền ban đầu của hợp đồng ký kết. Tương tự
như cách trên, trước một ngày kết thúc hợp đồng thanh toán lấy lại tỷ giá này.
Điều kiện đảm bảo theo tiền tệ quốc tế: SDR hoặc EUR. Bản thân hai
loại tiền quốc tế cũng là một “rổ” tiền tệ mạnh nhất thế giới (SDR) hay nhóm
tiền tệ của liên minh châu Âu (EUR). Như vậy để giúp cho các bên đối tác
tránh gặp khó khăn trong việc xác định loại tiền nào đưa vào “rổ” đảm bảo,
thì họ có thể chọn ngay hai loại tiền này để đảm bảo mà không cần suy nghĩ
đến tỷ giá, cũng như tỷ trọng của từng loại tiền trong “rổ”.
Điều kiện đảm bảo căn cứ vào mức biến động giá cả quốc tế: trong điều
kiện này hai bên sẽ xác định tổng giá trị hợp đồng theo chỉ số giá quốc tế đối
với mặt hàng hai bên đang mua – bán. Đồng thời cũng cần xác định được chỉ
số giá quốc tế là giá cả hay giá thành, đối với toàn bộ hàng, hay là một phần
của hàng. Do đó hình thức này thường được áp dụng đối với hàng hóa có tính
chất nguyên, nhiên vật liệu.
1.2.2.3 Thời gian thanh toán quốc tế
Trong thanh toán quốc tế, thời gian thanh toán có ảnh hưởng đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh, bên xuất khẩu mà nhận được tiền càng nhanh thì
càng tăng doanh thu, bên nhập khẩu mà trả tiền càng chậm thì càng giảm
được nhiều chi phí. Còn trong lĩnh vực phi thương mại (chuyển tiền...) thì yếu
tố này không có nhiều ý nghĩa quan trọng. Do đó việc xác định thời gian trả
tiền sẽ là một nội dung quan trọng trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng
thương mại quốc tế. Có các cách quy định sau:
*) Trả tiền trước: đây là hình thức mà bên nhập khẩu trả một phần,
hoặc toàn bộ số tiền mua hàng cho bên xuất khẩu ngay sau khi ký hợp đồng
mua hàng, hoặc trước một khoảng thời gian so với thời điểm giao hàng. Hình
thức này có ý nghĩa:
Khi hai bên đã quan hệ làm ăn từ trước, bên nhập khẩu có tiềm lực về
tài chính và có thể cấp tín dụng cho bên xuất khẩu để họ có thêm vốn để tiến
hành sản xuất hàng cho mình. Số tiền trả trước phụ thuộc vào khả năng của
người nhập khẩu và nhu cầu của người xuất khẩu. Trong trường hợp này, giá
hợp đồng thường thấp hơn giá hàng trả tiền ngay khi giao hàng; phần chênh
lệch là số tiền lãi tính trên số ngày kể từ khi ứng trước đến ngày người xuất
khẩu hoàn trả tiền ứng trước.
Khi hai bên chưa có quan hệ làm ăn bao giờ, hai bên chưa tin tưởng
nhau trong giao dịch, có thể do vị thế chênh lệch của hai bên (ví dụ: người
bán bán mặt hàng khan hiếm trên thị trường, người bán là nhà cung cấp
lớn…) mà người xuất khẩu yêu cầu người nhập khẩu đặt cọc tiền để đảm bảo
thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp này, thời gian ứng trước thường ngắn
và không được tính lãi trên số tiền ứng trước.
*) Trả tiền ngay: gồm một trong các hình thức sau
Bên nhập khẩu trả tiền ngay sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng mà
chưa đưa lên phương tiện vận tải tại nơi quy định (theo Incoterms 2000 đó là
các điều kiện EXW, FAS, DAF, FCA).
Bên nhập khẩu trả tiền ngay sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng mà
đã đưa lên phương tiện vận tải tại nơi quy định (theo Incoterms 2000 đó là
điều kiện FOB).
Bên nhập khẩu trả tiền khi nhận được bộ chứng từ được hoàn thành bởi
người xuất khẩu. Họ có thể trả tiền ngay khi nhìn thấy toàn bộ chứng từ, hoặc
sau 5-7 ngày kể từ khi nhìn thấy.
Bên nhập khẩu trả tiền ngay khi nhận được hàng hóa tại nơi quy định
trong hợp đồng hoặc tại cảng đến.
*) Trả tiền sau: trên cơ sở 4 hình thức trả tiền ngay thì trả tiền sau cũng
có 4 hình thức:
Bên nhập khẩu trả tiền sau X ngày kể từ khi hoàn thành nghĩa vụ giao
hàng mà chưa đưa lên phương tiện vận tải tại nơi quy định.
Bên nhập khẩu trả tiền sau X ngày kể từ khi hoàn thành nghĩa vụ giao
hàng mà đã đưa lên phương tiện vận tải tại nơi quy định.
Bên nhập khẩu trả tiền sau X ngày kể từ khi nhận được bộ chứng từ
được hoàn thành bởi người xuất khẩu.
Bên nhập khẩu trả tiền sau X ngày kể từ khi nhận được hàng hóa tại nơi
quy định trong hợp đồng hoặc tại cảng đến.
*) Thời gian trả tiền hỗn hợp: tùy theo tính chất của hàng hóa, và cũng
để hài hòa lợi ích của đôi bên mà có thể vận dụng tổng hợp các cách thanh
toán trên. Ví dụ: trong một hợp đồng ngoại thương có quy định:
- 5% tổng giá trị hợp đồng trả cho người xuất khẩu trong thời gian 30
ngày sau khi ký được hợp đồng.
- 5% tổng giá trị hợp đồng trả cho người xuất khẩu trong thời gian 10
ngày trước ngay quy định đợt giao hàng thứ nhất.
- 5% tổng giá trị hợp đồng trả cho người xuất khẩu ngay sau khi giao
đợt hàng cuối.
- 10% tổng giá trị hợp đồng trả cho người xuất khẩu trong thời gian 20
ngày kể từ khi lắp xong máy, không chậm quá 10 tháng kể từ khi giao đợt
hàng cuối.
- 75% tổng giá trị hợp đồng còn lại trả cho người xuất khẩu trong thời
gian 4 năm, mỗi năm một phần bằng nhau.
Như vậy trong hợp đồng này, 2 cách trả tiền đầu là trả tiền trước, cách
trả tiền thứ 3 là trả tiền ngay, 2 cách trả tiền cuối cùng là trả tiền sau.
1.2.2.4 Phương tiện thanh toán quốc tế:
Hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng phát triển thì số lượng các
phương tiện xuất hiện ngày càng nhiều. Trong số đó, chúng ta có thể kể đến
những phương tiện được sử dụng nhiều nhất, phổ biến nhất trong thanh toán
quốc tế đó là:
Hối phiếu (bill of exchange): đây là một lệnh đòi tiền vô điều kiện do
một bên ký phát người khác. Theo đó ngay sau khi nhìn thấy hối phiếu hoặc
sau một số ngày nhất định trong tương lai người bị ký phát phải trả một số
tiền nhất định cho người thụ hưởng (có thể chính là người ký phát hoặc bên
thứ 3 hoặc người cầm hối phiếu).
Lệnh phiếu – kỳ phiếu (promissory note): đây là chứng từ cam kết trả
tiền của bên ký phát cho người hưởng lợi một số tiền nhất định vào một thời
điểm nhất định trong tương lai. Như vậy lệnh phiếu hoàn toàn trái ngược với
hối phiếu.
Séc (cheque): là tờ lệnh trả tiền vô điều khiện do người chủ tài khoản
ký phát, yêu cầu ngân hàng phục vụ họ trả tiền ngay khi nhìn thấy tờ séc, cho
người cầm nó hoặc một người thụ hưởng được chỉ định.
Thẻ thanh toán: là hình thức tiền điện tử do ngân hàng phát hành cho
phép khách hàng thanh toán tiền tại những nơi chấp nhận thẻ trong phạm vi
hoặc quá số dư tài khoản của chủ thẻ (phụ thuộc sự thỏa thuận của ngân hàng
với khách hàng).
Ngoài các phương tiện trên, chúng ta có thể kể đến: cổ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ tiền gửi, hợp đồng quyền chọn, biên lai tín thác...
1.2.2.5 Đặc điểm, vai trò của thanh toán quốc tế
Hoạt động thanh toán quốc tế là một loại dịch vụ mang lại nhiều lợi
nhuận. Với việc am hiểu các nghiệp vụ thanh toán, bảo lãnh, cũng như có
mạng lưới rộng khắp trên toàn thế giới thông qua chi nhánh, văn phòng đại
diện và ngân hàng đại lý... ngân hàng thương mại đã cung cấp dịch vụ này
cho khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác; từ đó thu phí và mang về
nguồn thu nhập không nhỏ cho ngân hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng phát triển thì thanh toán quốc
tế điện tử sẽ dần dần thay thế cho các phương pháp thanh toán bằng chứng từ
truyền thống. Có được đặc điểm này là do hoạt động ngoại thương trên thế
giới diễn ra càng ngày càng đa dạng, phức tạp; và cùng với nó là yêu cầu
thanh toán nhanh gọn, chính xác, hạn chế rủi ro cho đôi bên để mang lại lợi
nhuận cao nhất. Nguyên nhân thứ hai là hoạt động thanh toán quốc tế có sự
hỗ trợ rất lớn từ phía ngành công nghệ thông tin, một khi công nghệ còn phát
triển thì việc thanh toán qua biên giới trên mạng điện tử quốc tế vẫn còn tiến
bộ hơn nữa.
Hoạt động thanh toán quốc tế đóng vai trò quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế quốc gia thông qua việc thúc đẩy và mở rộng các hoạt động xuất
nhập khẩu, đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài và các hoạt động dịch
vụ (như du lịch, hợp tác quốc tế). Đặc biệt nó còn giúp cho thị trường tài
chính quốc gia hội nhập quốc tế.
1.2.3 Các phương thức thanh toán quốc tế
Trong các giao dịch kinh tế hiện nay, việc thanh toán tiền hàng hóa,
dịch vụ giữa hai bên thường không diễn ra một cách trực tiếp, mà thông
thường hoạt động này sẽ được ủy thác cho ngân hàng để đảm bảo an toàn,
nhanh chóng, tiện lợi. Vậy theo nghĩa rộng thì “toàn bộ nội dung, điều kiện và
cách thức để ngân hàng tiến hành chuyển tiền và trả tiền giữa người không cư
trú với người cư trú gọi là phương thức thanh toán quốc tế”.
Thanh toán quốc tế gồm hai mảng đó là: thanh toán quốc tế trong ngoại
thương và thanh toán phi ngoại thương. Trong đó tỷ trọng của hoạt động
thanh toán quốc tế trong ngoại thương chiếm tỷ trọng rất lớn và đóng vai trò
chủ yếu trong kinh tế đối ngoại. Do đó có thể định nghĩa phương thức thanh
toán quốc tế theo nghĩa hẹp sau: “phương thức thanh toán quốc tế trong ngoại
thương là toàn bộ quá trình, điều kiện quy định để người mua trả tiền và nhận
hàng, còn người bán thì giao hàng và nhận tiền theo hợp đồng ngoại thương
thông qua hệ thống ngân hàng phục vụ”.
Hiện nay có các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu sau:
- Phương thức ứng trước
- Phương thức ghi sổ
- Phương thức chuyển tiền
- Phương thức tín dụng chứng từ (được trình bày kỹ ở sau).
1.2.3.1 Phương thức chuyển tiền:
Bảng 1.1: Một số nhân tố của phương thức chuyển tiền
Khái niệm Đặc điểm
Trường hợp
áp dụng
Rủi ro với
người bán
Rủi ro với
người mua
Là phương thức
thanh toán mà
người mua yêu
cầu ngân hàng
phục vụ mình,
chuyển một số
tiền nhất định
cho bên bán
hoặc một bên
thứ 3 nào khác
trong một
khoản thời gian
nhất định.
Thủ tục đơn giản
nhanh gọn do đây
là phương thức
thanh toán trực
tiếp giữa người
chuyển tiền và
người thụ hưởng.
Ngân hàng chỉ
đóng vai trò trung
gian, không chịu
trách nhiệm với cả
hai bên, việc
người bán có nhận
tiền được hay
không phụ thuộc
vào thiện chí của
người mua.
Hai bên cực
thân tín với
nhau (thường
áp dụng
trong mối
quan hệ giữa
công ty mẹ -
công ty con).
Rủi ro với
người bán khi
người mua
nhận hàng rồi
nhưng cố tình
chây ì từ chối
thanh toán
hoặc không
chịu thanh
toán.
Rủi ro với
người mua
trong trường
hợp người
mua trả tiền
trước cho
người bán
nhưng người
mua không
nhận được
hàng.
Có quan điểm cho rằng việc chuyển tiền đi liền với các công cụ chuyển
tiền như séc, hối phiếu, SWIFT… nên không được coi là một phương thức
thanh toán mà chỉ là công cụ sử dụng kèm trong các phương thức thanh toán.
Nhưng lại có quan điểm cho rằng đây là phương thức thanh toán, trong đó
người mua thông qua ngân hàng trả tiền cho người bán, thời điểm trả tiền có
thể là trước hoặc sau khi người mua nhận được hàng hóa. Do vậy phương
thức này có nhiều điểm giống với phương thức ứng trước và phương thức mở
tài khoản.
1.2.3.2 Các phương thức thanh toán (PTTT) còn lại:
Ta xem xét các PTTT còn lại bằng cách so sánh chúng để hiểu rõ hơn
ưu, nhược điểm cũng như trường hợp áp dụng tốt nhất cho từng phưong thức:
Bảng 1.2: So sánh các phương thức thanh toán quốc tế
PTTT
Chỉ tiêu
Trả tiền trước
(prepayment)
Mở tài khoản
(open
account)
Nhờ thu (collection):
Nhờ thu trơn Nhờ thu kèm chứng từ
Thời
điểm
người
mua trả
tiền cho
người
bán
Người mua
trả tiền cho
người bán
trước khi
nhận được
hàng hóa.
Người mua
trả tiền cho
người bán
sau khi đã
nhận được
hàng hóa
Bên bán nhờ ngân hàng phục vụ mình thu
hộ khoản tiền hàng hóa dịch vụ đã giao
nhận, cung ứng cho bên mua.
Việc thu hộ của
ngân hàng chỉ
căn cứ vào hối
phiểu, chứng từ
hàng hóa được
bên xuất khấu
gửi trực tiếp cho
bên nhập khẩu
để nhập hàng ->
rủi ro cao hơn
với bên xuất
khẩu so với nhờ
thu kèm chứng
từ.
Bên xuất khẩu gửi cả hối
phiếu và chứng từ hàng
hóa cho ngân hàng
PTTT
Chỉ tiêu
Trả tiền trước
(prepayment)
Mở tài khoản
(open
account)
Nhờ thu (collection):
Nhờ thu trơn Nhờ thu kèm chứng từ
Thời
điểm
người
mua trả
tiền cho
người
bán
D/A: điều
kiện thanh
toán: ngân
hàng trao bộ
chứng từ
hàng hóa cho
người mua
sau khi họ đã
ký chấp nhận
thanh toán kỳ
hạn (chưa
phải thanh
toán ngay luc
nhận bộ
chứng từ) ->
rủi ro với
người bán
hơn và thuận
lợi với người
mua hơn
D/P:
điều
kiện
thanh
toán:
người
mua
phải
thanh
toán
ngay
(trong
vòng 3
ngày)
khi ngân
hàng
xuất
trình bộ
chứng từ
hàng hóa
Trường
hợp áp
dụng
Các giao dịch
giá trị nhỏ.
Hai bên
thường chưa
có mối quan
hệ làm ăn bao
giờ
Sự lựa chọn
người bán
trên thị trường
là hạn chế
Hai bên có
mối quan hệ
tin tưởng mật
thiết lẫn
nhau.
Sự tin tường
này cao hơn
trong phương
thức nhờ thu:
người bán
hầu như tin
tưởng tuyệt
đối rằng
người mua sẽ
trả tiền hàng.
Hai bên đã có
mối quan hệ
thương mại với
nhau rồi
Hai bên đã có mối quan
hệ thương mại với nhau
rồi, đang trong quá trình
chuyển từ chính sách trả
tiền trước sang nhờ
thu.Giao dịch này không
đòi hỏi cần thiết phải mở
L/C
PTTT
Chỉ tiêu
Trả tiền trước
(prepayment)
Mở tài khoản
(open
account)
Nhờ thu (collection):
Nhờ thu trơn Nhờ thu kèm chứng từ
Trường
hợp áp
dụng
Người mua
không có đủ
tài chính để
sản xuất như
đơn đặt hàng
của người bán
Được sử
dụng phổ
biến trong
các giao dịch
quốc tế để
giảm thiểu
khoản phí cao
của ngân
hàng
Dùng chủ
yếu trong
mua bán hàng
đổi hàng hay
cho một loạt
các chuyến
hàng thường
xuyên định kì
trong thời
gian nhất
định
Người bán có tin
tưởng người
mua là họ sẽ trả
tiền sau một
khoảng thời gian
nhất định
Người bán có đủ
khả năng tiếp
cận các nguồn
tài chính khác để
có thể cho phép
người mua kéo
dài thời gian trả
nợ
Người bán có đủ khả
năng tiếp cận các nguồn
tài chính khác để có thể
cho phép người mua kéo
dài thời gian trả nợ
Rủi ro
với
người
bán
(người
xuất
khẩu)
Không có rủi
ro không thu
được tiền
hàng.
Rủi ro cao:
rủi ro không
thu được tiền
hàng do
thường phải
đưa hàng hóa
trước rồi mới
nhận được
tiền hàng
Rủi ro: không
thu được tiền
hàng do người
mua vỡ nợ,
thanh toán chậm
do năng lực tài
chính của người
mua yếu kém,
người mua cố
tình lừa đảo
Nếu các rủi ro
trên xảy ra
người bán có thể
kiện ra tòa
nhưng thủ tục
phức tạp, tốn
kém
Rủi ro khi nguời mua có
thể kéo dài việc trả tiền
bằng cách chưa nhận
chứng từ hàng hóa,
không thanh toán khi thị
trường biến động bất lợi.
Nếu người mua không
nhận chứng từ hàng hóa,
không thanh toán, việc
chuyển hàng lại cho
người bán là rất phức
tạp.
PTTT
Chỉ tiêu
Trả tiền trước
(prepayment)
Mở tài khoản
(open
account)
Nhờ thu (collection):
Nhờ thu trơn Nhờ thu kèm chứng từ
Rủi ro
với
người
mua
(người
nhập
khẩu)
Rủi ro cao do
người mua
phải bỏ tiền ra
trước khi
nhận được
hàng hóa,
người bán có
thể không đưa
hàng hóa,
hoặc hàng hóa
không đạt yêu
cầu về chất
lượng số
lượng. Vốn
của người
mua bị ghim
trong thời
gian dài.
Rủi ro thấp
do người mua
chỉ trả tiền
sau khi đã
nhận được
hàng hóa,
kiểm tra được
hàng hóa
mình mua.
Rủi ro khi lệnh
nhờ thu đến
trước hàng hóa,
người mua phải
chấp nhận thanh
toán hoặc thanh
toán luôn trước
khi hàng hóa
đến, không biêt
được tình hình
hàng hóa của
mình như thế
nào đã phải chấp
nhận thanh toán.
Rủi ro khi nhà xuất khẩu
lập chứng từ giả hay cố
tình gian lận. Các ngân
hàng không chịu trách
nhiệm khi chứng từ là
giả mạo hay sai sót,
hàng hóa vận chuyển
không khớp với chứng
từ.
1.3 Phương thức tín dụng chứng từ
Hiện nay, phương thức tín dụng chứng từ là phương thức được sử dụng
rộng rãi nhất và ưu việt hơn cả trong thanh toán quốc tế, chiếm khoảng 70%
giá trị thanh toán. Nguyên nhân là nó đảm bảo quyền lợi một cách tương đối
cho cả người mua và người bán.
1.3.1 Khái niệm phương thức tín dụng chứng từ
Theo điều 2 – UCP 600 “Tín dụng chứng từ là một sự thỏa thuận bất
kỳ, cho dù được gọi tên hoặc mô tả như thế nào, thể hiện một cam kết chắc
chắn và không hủy ngang của ngân hàng phát hành về việc thanh toán khi xuất
trình phù hợp”.
Cũng như các phương thức thanh toán quốc tế khác, phương thức tín
dụng chứng từ cũng có các ưu điểm và nhược điểm riêng. Có thể kể đến là:
*) Đối với nhà nhập khẩu
Ưu điểm: nhà nhập khẩu nhận được cam kết của ngân hàng trong việc
đảm bảo chứng từ đều đúng như quy định, điều khoản đã có trong L/C. Đồng
thời bên nhập khẩu cũng sẽ được ngân hàng tài trợ về vốn (khi có đủ điều
kiện cần thiết) vì họ sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế của ngân hàng.
Nhược điểm: ngân hàng chỉ quan tâm đến “tính chật thật bề ngoài” của
chứng từ mà không quan tâm đến chất lượng hàng hóa thật sự như thế nào.
Do đó nhà nhập khẩu sẽ phải gánh chịu rủi ro khi người bán cố tình lập các
chứng từ giả.
*) Đối với nhà xuất khẩu
Ưu điểm: khi tuân thủ và giao bộ chứng từ theo đúng các điều kiện của
L/C, nhà nhập khẩu sẽ được đảm bảo thanh toán theo đúng thời gian quy
định. Hơn thế nữa họ có thể sử dụng L/C như một phương thức tài trợ cho
xuất khẩu ví dụ: chiết khấu chứng từ, bán bộ chứng từ cho ngân hàng hay vay
vốn ngân hàng bằng cách thế chấp bộ chứng từ…
Nhược điểm: chi phí giao dịch cao.
*) Đối với ngân hàng
Ưu điểm: ngân hàng sẽ có khoản thu phí dịch vụ khi thực hiện nghiệp
vụ này, ngoài ra còn có cơ hội để mở rộng hoạt động tín dụng, bảo lãnh quốc
tế, kinh doanh ngoại tệ…
Nhược điểm: ngân hàng với tư cách là một thành viên tham gia vào
phương thức tín dụng chứng từ nên bị ràng buộc bởi trách nhiệm đối với
người mua và người bán.
Có thể thấy, phương thức tín dụng chứng từ không phải là phương thức
hoàn hảo, có khả năng xóa bỏ đi mọi rủi ro. Tuy nhiên so với các phương
thức thanh toán khác, nó có tính vượt trội bởi đã dung hòa, cân bằng được
quyền lợi và nghĩa vụ với các bên tham gia trong hợp đồng mua bán ngoại
thương. Quyền lợi nghĩa vụ đan xen, ràng buộc tạo nên một sự đảm bảo và
chắc chắn hơn cho sự thanh toán hàng hóa, dịch vụ; từ đó nâng cao quyền
bình đẳng trong quan hệ thanh toán giữa người mua và người bán. Không chỉ
như vậy, trong phương thức này các ngân hàng tham gia không chỉ đơn thuần
là những nhà trung gian mà đã trở thành thành viên thực sự của quy trình
thanh toán, và là “người” cam kết trả tiền cho người bán thay cho người mua.
Vì vậy, tất cả các đặc điểm, lý do trên đã giải thích được tại sao phương thức
tín dụng chứng từ được sử dụng rộng rãi nhất trên toàn cầu.
1.3.2 Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ
Người yêu cầu mở L/C (applicant): là người mua, người nhập khẩu
hàng hóa hoặc là người do người mua ủy thác.
Ngân hàng phát hành L/C (opening/issuing bank): là ngân hàng đại
diện và cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu. Ngân hàng nhận đơn yêu cầu
mở LC, sau đó thông báo cho nhà xuất khẩu biết. Ngoài ra, ngân hàng này
cũng tiến hành kiểm tra bộ chứng từ được gửi đến, nếu thấy phù hợp thì thanh
toán hoặc chấp nhận thanh toán. Ngân hàng mở L/C thường là ngân hàng ở
nước của người nhập khẩu, cũng có trường hợp ở nước thứ 3 nào đó.
Ngân hàng thông báo (advising bank): là ngân hàng báo tín dụng chứng
từ cho người hưởng lợi một cách trực tiếp, hoặc qua một ngân hàng khác.
Ngân hàng này thường là ngân hàng đại lý của ngân hàng mở L/C tại nước
người xuất khẩu.
Người hưởng lợi (beneficiary): là người được hưởng số tiền thanh toán
hay sở hữu hối phiếu đã chấp nhận thanh toán của L/C. Thông thường người
hưởng lợi là người bán hàng, nhà xuất khẩu.
Ngoài 4 thành viên trên, trong 1 số trường hợp đặc biệt (theo yêu cầu,
thỏa thuận của đôi bên) còn có thành viên sau:
Ngân hàng xác nhận: là ngân hàng bổ sung sự xác nhận của mình đối
với L/C theo yêu cầu hoặc theo sự ủy quyền của ngân hàng phát hành. Thông
thường ngân hàng phát hành không phải là ngân hàng lớn, chưa gây được sự
tin tưởng cho người xuất khẩu, vì vậy mới cần thêm ngân hàng xác nhận để
đảm bảo chắc chắn thêm bên bán sẽ được thanh toán đủ tiền khi họ xuất trình
chứng từ phù hợp.
Ngân hàng được chỉ định (Nominated Bank): là ngân hàng mà tại đó L/
C có giá trị thanh toán hoặc chiết khấu, hoặc là bất kỳ ngân hàng nào nếu L/C
có giá trị tự do. Ngân hàng được chỉ định bao gồm: ngân hàng xác nhận, ngân
hàng chiết khấu, ngân hàng trả tiền, ngân hàng chấp nhận, ngân hàng trả
chậm.
Thực tế trong quá trình thanh toán L/C không nhất thiết phải có đầy đủ
tất cả các ngân hàng trên cùng tham gia, mà tùy trường hợp cụ thể sẽ xác định
các thành viên tham gia. Thông thường chỉ có 2 và đôi khi chỉ có 1 ngân hàng
đứng ra làm tất cả các chức năng nói trên về nghiệp vụ thanh toán L/C.
1.3.3 Nội dung chủ yếu của thư tín dụng chứng từ
Thư tín dụng bao gồm những nội dung sau:
Số hiệu: mỗi một thư tín dụng đều có số hiệu riêng, số hiệu này không
chỉ để phân biệt các thư tín dụng với nhau (vì có thể cùng một hợp đồng ngoại
thương mà có 2 thư tín dụng được mở căn cứ theo đó) mà còn được dùng để
ghi vào các chứng từ có liên quan như hối phiếu và một số chứng từ cần thiết
khác.
Địa điểm ở L/C: là nơi ngân hàng mở L/C viết cam kết trả tiền cho
người xuất khẩu.
Ngày mở L/C là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mở L/C
với người xuất khẩu, được tính từ khi L/C bắt đầu có hiệu lực. Đây là căn cứ
để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực hiện việc mở L/C có
đúng hạn như đã quy định trong hợp đồng không, đồng thời cũng là ngày để
dẫn chiếu các mốc thời gian quan trọng khác (Ví dụ: ngày giao hàng là 21
ngày kể từ ngày mở L/C).
Tên, địa chỉ những người có liên quan: tất cả các tên địa chỉ này đều
phải ghi chính xác và thống nhất bằng một ngôn ngữ (thường là tiếng anh)
giống như trong hợp đồng ngoại thương.
Số tiền của thư tín dụng: vừa được ghi bằng số vừa được ghi bằng chữ
và phải thống nhất với nhau. Tên của đơn vị tiền tệ phải được ghi rõ ràng.
Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng: là khoảng thời gian mà ngân hàng
mở L/C cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu người này xuất trình bộ chứng
từ phù hợp với những điều quy định trong L/C trong thời hạn đó. Thời hạn
này được tính từ ngày mở L/C đến hết ngày hiệu lực của L/C.
Thời hạn trả tiền của L/C: là thời hạn trả tiền ngay hay trả tiền về sau,
tùy thuộc vào quy định trong hợp đồng. Nếu thực hiện đòi tiền bằng hối phiếu
thì thời hạn trả tiền được quy định ở yêu cầu ký phát hối phiếu.
Thời hạn giao hàng: do hợp đồng mua bán quy định và được ghi rõ
trong L/C. Thời hạn giao hàng có quan hệ chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của
L/C.
Những nội dung về hàng hóa bao gồm: tên hàng, số lượng, trọng
lượng, giá cả, quy cách phẩm chất, bao bì, mã ký hiệu…
Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hóa bao gồm điều kiện cơ
sở giao hàng( FOB, CIF, CFR), nơi gửi, nơi giao hàng, cách vận chuyển, cách
giao hàng.
Những chứng từ người xuất khẩu phải xuất trình: thông thường bao
gồm: Bản gốc thư tín dụng, hóa đơn thương mại, giấy tờ bảo hiểm, vận đơn,
giấy chứng nhận kiểm định, giấy chứng nhận xuất xứ, bản kê khai hàng hóa.
Những điều khoản đặc biệt khác
Chữ ký của ngân hàng mở L/C
1.3.4 Quy trình chung của thanh toán tín dụng chứng từ
Sơ đồ 1.3: Quy trình thanh toán L/C
(Nguồn:Nghiệp vụ thanh toán quốc tế)
Nhà xuất khẩu
Nhà nhập khẩu
( 5 )
(1)
Ngân hàng
thông báo/ Ngân
hàng xác nhận
(2)
Ngân hàng phát
hành
(3)
(4)
(6)
(10)
(11)
(8)
(7)
(9)