Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tại công ty tư vấn công nghệ thiết bị kỹ thuật TEOTEC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.67 KB, 64 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, kinh tế đối ngoại có vai trò ngày
càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy Đảng và nhà nước luôn
coi trọng lĩnh vực này và nhấn mạnh “nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế
cũng như sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công ngiệp hoá của Việt Nam
tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần vào việc mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại”. Đảm bảo không ngừng nâng cao hiệu
quả kinh tế xuất khẩu là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ nền kinh tế nói
chung và cuả mỗi doanh nghiệp nói riêng.
Nhìn chung, những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong hơn hai thập kỷ đổi
mới vừa qua đã mang lại cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng
phấn khởi. Việt Nam đã tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính
cạnh tranh và năng động. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được
khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu quả trong việc huy động các nguồn
lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Các quan hệ kinh tế đối ngoại đã
trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng nhiều các nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu và phát triển
thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn như
du lịch, xuất khẩu lao động, kiều hối
Với chủ trương tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ
kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở
rộng. Việt Nam là thành viên quan trọng trong ASEAN, tích cực thực hiện
các cam kết Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Năm 2007, Việt Nam
chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), có quan hệ với
trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ, đánh dấu sự hội nhập toàn diện và đầy đủ
của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu. với xu hướng tăng cường hợp tác
quốc tế, Nhà nước đã cho phép mở rộng các loại hình doanh nghiệp kể cả
quốc doanh,lien doanh, hợp doanh và tư nhân tham gia kinh doanh xuất nhập
khẩu. Do đóviệc nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và
kinh doanh nhập khẩu hàng hóa nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Công ty tư vấn công nghệ và thiết bị kỹ thuật là một công ty hoạt động


trong lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu hàng hóa. Là một công ty tư nhân hoạt
động trong lĩnh vực nhập các hàng phân tích mạng, đo lường và kinh doanh
phần mềm tin học phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam.
Trong những năm qua, công ty Tư vấn công nghệ và thiết bị kỹ thuật đã
cố gắng rất lớn trong việc đẩy mạnh và mở rộng kinh doanh sang các thị
trường trong khu vực và thế giới. Công ty đã đạt được nhiều thành tựu nhưng
đồng thời cũng gặp phải những khó khăn do Hội nhập kinh tế quốc tế vừa mở
ra những cơ hội mới cho các doanh nghiệp tham gia nhưng nó cũng chứa
dựng những rủi ro lớn. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh trong nhập
khẩu đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ngày càng trở nên
bức thiết hơn.
Sau một thời gian thực tập tại công ty Tư vấn công nghệ và thiết bị kỹ
thuật Tecotec, em lựa chọn đề tài “ Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hiệu
quả kinh doanh nhập khẩu tại công ty tư vấn công nghệ thiết bị kỹ thuật
TEOTEC”.
Nội dung của bài bao gồm 3 chương:
Chương I: Những cơ sở lý luận về kinh doanh nhập khẩu và hiệu quả
kinh doanh nhập khẩu trong các doanh nghiệp.
Chương II: Hoạt động nhập khẩu và hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của
công ty Tư vấn công nghệ và thiết bị kỹ thuật TECOTEC.
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hiệu quả kinh doanh nhập
khẩu tại công ty Tư vấn công nghệ và thiết bị kỹ thuật TECOTEC.
Em xin chân thành cảm ơn tới các anh chị cán bộ của công ty tư vấn
công nghệ và thiết bị kỹ thuật TECOTEC đã giúp đỡ, chỉ bảo em trong thời
gian thực tập và một lần nữa em xin chân thành cô hướng dẫn PGS.TS Đoàn
Thị Thu Hà đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình làm chuyên đề này.
Xin trân trọng cảm ơn.
Chương I
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH NHẬP KHẨU VÀ HIỆU
QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU TRONG DOANH NGHIỆP

I. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TRONG NỀN
KINH TẾ THI TRƯỜNG.
1. Khái niệm và vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu với nền
kinh tế thị trường.
1.1 Khái niệm về kinh doanh nhập khẩu.
Nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, là
quá trình trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc trao đổi
ngang giá lấy tiền tệ là môi giới. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ
mà là một hệ thống các quan hệ buôn bán trong một nền kinh tế có cả tổ chức
bên trong và bên ngoài.
Nhập khẩu, trong lý luận thương mại quốc tế, là việc quốc gia này mua
hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia khác. Nói cách khác, đây chính là việc nhà
sản xuất nước ngoài cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người cư trú trong
nước. Tuy nhiên, theo cách thức biên soạn cán cân thanh toán quốc tế của
Quỹ tiền tệ quốc tế, chỉ có việc mua các hàng hóa hữu hình mới được coi là
nhập khẩu và đưa vào mục cán cân thương mại.
Vậy thực chất kinh doanh nhập khẩu ở đây là nhập khẩu từ các tổ chức
kinh tế, các Công ty nước ngoài, tiến hành tiêu thụ hàng hoá, vật tư ở thị
trường nội địa hoặc tái xuất với mục tiêu lợi nhuận và nối liền sản xuất giữa
các quốc gia với nhau.
Mục tiêu hoạt động kinh doanh nhập khẩu là sử dụng có hiệu quả nguồn
ngoại tệ để nhập khẩu vật tư, thiết bị kỹ thuật và dịch vụ phục vụ cho quá
trình tái sản xuất mở rộng, nâng cao năng suất lao động, tăng giá trị ngày
công, và giải quyết sự khan hiếm hàng hoá, vật tư trên thị trường nội địa.
1
Mặt khác, kinh doanh nhập khẩu đảm bảo sự phát triển ổn định của các
ngành kinh tế mũi nhọn của mỗi nước mà khả năng sản xuất trong nước chưa
đảm bảo vật tư, thiết bị kỹ thuật đáp ứng nhu cầu phát triển, khai thác triệt để
lợi thế so sánh của quốc gia, góp phần thực hiện chuyên môn hoá trong phân
công lao động quốc tế, kết hợp hài hoà và có hiệu quả giữa nhập khẩu và cải

thiện cán cân thanh toán quốc tế.
1.2. Vai trò của hoạt động kinh doanh nhập khẩu trong nền kinh tế
thị trường.
Nhập khẩu là một trong hai hoạt động cấu thành hoạt động ngoại thương.
Có thể hiểu đó là việc mua hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho
nhu cầu trong nước hoặc tái sản xuất nhằm mục đích thu lợi. Nhập khẩu thể
hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế của một quốc gia với nền
kinh tế Thế giới. Hiện nay khi các nước đều có xu hướng chuyển từ đối đầu
sang đối thoại, nền kinh tế quốc gia đã hoà nhập với nền kinh tế Thế giới thì
vai trò của nhập khẩu đã trở nên vô cùng quan trọng.
- Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, cho phép tiêu
dùng một lượng hàng hoá lớn hơn khả năng sản xuất trong nước và tăng mức
sống của nhân dân.
- Nhập khẩu làm đa dạng hoá mặt hàng về chủng loại, quy cách, mẫu mã
cho phép thoả mãn nhu cầu trong nước.
- Nhập khẩu tạo ra sự chuyển giao công nghệ, do đó tạo ra sự phát triển
vượt bậc của sản xuất xã hội, tiết kiệm chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều
về trình độ phát triển trong xã hội.
- Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại, tạo ra
động lực bắt buộc các nhà sản xuất trong nước phải không ngừng vươn lên,
tạo ra sự phát triển xã hội và sự thanh lọc các đơn vị sản xuất.
- Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế
đóng, chế độ tự cấp, tự túc.
2
- Nhập khẩu giải quyết những nhu cầu đặc biệt (hàng hoá hiếm hoặc quá
hiện đại mà trong nước không thể sản xuất được).
- Nhập khẩu là cầu nối thông suốt nền kinh tế, thị trường trong và ngoài
nước với nhau, tạo điều kiện phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy
được lợi thế so sánh của đất nước trên cơ sở chuyên môn hoá.
2. Các hình thức nhập khẩu.

Dưới đây là một số loại hình nhập khẩu cơ bản:
2.1. Nhập khẩu trực tiếp.
Đây là loại hình nhập khẩu mà bên mua và bên bán trực tiếp giao dịch
với nhau, việc mua và việc bán không ràng buộc nhau. Bên mua có thể chỉ
mua mà không bán, bên bán có thể chỉ bán mà không mua. Hoạt động chủ yếu
là doanh nghiệp trong nước nhập khẩu hàng hoá, vật tư ở thị trường nước
ngoài đem về tiêu thụ ở thị trường trong nước. Để tiến tới ký kết hợp đồng
kinh doanh nhập khẩu, doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ nhu cầu nhập khẩu
vật tư, thiết bị trên thị trường nội địa, tính toán đầy đủ các chi phí đảm bảo
kinh doanh nhập khẩu có hiệu quả, đàm phán kỹ lưỡng về các điều kiện giao
dịch với bên xuất khẩu, thực hiện theo pháp lý quốc gia cũng như thông lệ
quốc tế.
• Đặc điểm: Được tiến hành một cách đơn giản. Bên nhập khẩu phải
nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng và thực hiện theo
đúng hợp đồng, phải tự bỏ vốn, chịu mọi rủi ro và chi phí giao dịch, nghiên
cứu, giao nhận, kho bãi cùng các chi phí có liên quan đến tiêu thụ hàng háo,
thuế nhập khẩu
22. Nhập khẩu uỷ thác.
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động dịch vụ thương mại dưới hình thức nhận
làm dịch vụ nhập khẩu. Hoạt động này được làm trên cơ sở hợp đồng uỷ thác
giữa các doanh nghiệp phù hợp với những quy định của pháp lệnh hợp đồng
kinh tế.
3
Như vậy, hợp đồng uỷ thác nhập khẩu được hình thành giữa các doanh
nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng, có nhu cầu nhập khẩu một loại vật
tư, thiết bị nào đó nhưng lại không được phép nhập khẩu trực tiếp hoặc gặp
khó khăn trong việc tìm kiếm bạn hang thực hiện thủ tục uỷ thác nhập khẩu
cho doanh nghiệp có chức năng thương mại quốc tế tiến hành nhập khẩu theo
yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải cung cấp cho bên uỷ thác các thông
tin về thị trường, giá cả, khách hàng, những điều kiện có liên quan đến đơn

hàng uỷ thác thương lượng đàm phán và ký kết hợp đồng uỷ thác. Bên nhận
uỷ thác phải tiến hành làm các thủ tục nhập khẩu và được hưởng phần thù lao
gọi là phí uỷ thác.
• Đặc điểm: Doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ nhập khẩu uỷ thác không
phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không phải tìm kiếm thị trường tiêu
thụ hàng nhập, giá trị hàng nhập chỉ được tính vào kim ngạch nhập khẩu
không được tính vào doanh thu. Khi nhận uỷ thác phải làm hai hợp đồng: Một
hợp đồng mua bán hàng hoá, vật tư với nước ngoài và một hợp đồng uỷ thác
nhập khẩu với bên uỷ thác ở trong nước.
2.3. Buôn bán đối lưu.
Buôn bán đối lưu trong Thương mại quốc tế là một phương thức giao
dịch trao đổi hàng hoá trong đó nhập khẩu kết hợp chặt chẽ với xuất khẩu,
người bán đồng thời là người mua và ngược lại.Lượng hàng hoá dịch vụ trao
đổi có giá trị tương đương. Giao dịch đối lưu dựa trên bốn nguyên tắc cân
bằng:
- Cân bằng về mặt hang.
- Cân bằng về giá cả.
- Cân bằng về cùng một điều kiện giao hàng .
- cân bằng về tổng giá trị hàng hoá trao đổi.
• Đặc điểm: Hợp đồng này có lợi ở chỗ là cùng một hợp đồng ta có thể
tiến hành đồng thời hoạt động xuất và nhập khẩu. Đối với hình thức này thì
4
lượng hàng giao đi và lượng hàng nhận về có giá trị tương đương nhau.
Doanh nghiệp xuất khẩu được tính vào cả kim ngạch xuất nhập khẩu, doanh
thu trên hàng hoá nhập và hàng xuất.
2.4. Nhập khẩu tái xuất.
Mỗi nước có một định nghĩa riêng về tái xuất, nhưng đều thống nhất một
quan điểm về tái xuất là xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng hoá trước
đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Có nghĩa là tiến hành
nhập khẩu không phải để tiêu thụ trong nước mà để xuất sang một nước thứ

ba nhằm thu lợi nhuận. Giao dịch tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu
với mục đích thu về một lượng ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu. Giao dịch
này luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu
• Đặc điểm:
- Doanh nghiệp tái xuất phải tính toán toàn bộ chi phí nhập hàng và xuất
hàng sao cho thu hút được lượng ngoại tệ lớn hơn chi phí ban đầu bỏ ra.
- Doanh nghiệp tái xuất phải tiến hành hai loại hợp đồng: Một hợp đồng
nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu nhưng không phải nộp thuế XNK.
- Doanh nghiệp tái xuất được tính kim ngạch trên cả hàng tái xuất và
hàng nhập, doanh số tính trên giá trị hàng hoá tái xuất do đó vẫn chịu thuế.
- Hàng hoá không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể
chuyển thẳng từ nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu theo hình thức chuyển
khẩu, nhưng tiền phải do người tái xuất trả cho người nhập khẩu và thu từ
người nhập khẩu.
II. HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU VÀ CÁC CHỈ TIÊU
ĐÁNH GIÁ.
1. Khái niêm hiệu quả kinh doanh, bản chất hiệu quả kinh doanh.
1.1. Khái niệm
Hiện nay, khi đề cập đến vấn đề hiệu quả thì người ta vẫn chưa có một
khái niệm thống nhất. Ở mỗi lĩnh vực khác nhau thì người ta có những khái
niệm khác nhau về mỗi lĩnh vực.
5
Hiệu quả là thuật ngữ dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện
các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí chủ thể bỏ ra để có kết quả đó
trong những điều kiện nhất định. Hiệu quả kinh doanh thể hiện trình độ sử
dụng các yếu tố cần thiết tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo
một mục đích nhất định.
Một số nhà quản trị học quan niệm hiệu quả kinh doanh được xác định
bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí phải bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Manfred Kuhn cho rằng: Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả

tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn yêu cầu của quy luật kinh tế cơ
bản của chủ nghĩa xã hội cho rằng quỹ tiêu dùng với ý nghĩa là chỉ tiêu đại
diện cho mức sống của mọi người trong các doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh
hiệu quả kinh doanh". Quan điểm này có ưu điểm là đã bám sát mục tiêu của
nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho người dân. Nhưng khó khăn ở đây là phương tiện để đo lường
thể hiện tư tưởng định hướng đó.
Quan điểm khác lại cho rằng: Hiệu quả là một phạm trù kinh tế, nó xuất
hiện và tồn tại từ xã hội chiếm hữu nô lệ đến xã hội xã hội chủ nghĩa.
Hiệu quả kinh doanh thể hiện trình độ sử dụng các yếu tố cần thiết tham gia
vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo mục đích nhất định.
Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản nắm quyền sở hữu về tư liệu sản xuất
và do vậy quyền lợi về kinh tế, chính trị đều dành cho nhà tư bản.
Chính vì thế việc phấn đấu tăng hiệu quả kinh doanh thực chất là đem lại
lợi nhuận nhiều hơn nữa cho nhà tư bản nhằm nâng cao thu nhập cho họ,
trong khi thu nhập của người lao động có thể thấp hơn nữa. Do vậy, việc tăng
chất lượng sản phẩm không phải là để phục vụ trực tiếp người tiêu dùng mà
để thu hút khách hàng nhằm bán được ngày càng nhiều hơn và qua đó thu
được lợi nhuận lớn hơn.
6
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, phạm trù hiệu quả vốn tồn tại vì sản phẩm
sản xuất xã hội sản xuất ra vẫn là hàng hoá. Do các tài sản đều thuộc quyền sở
hữu của Nhà nước, toàn dân và tập thể, hơn nữa mục đích của nền sản xuất xã
hội chủ nghĩa cũng khác mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mục
đích của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng tăng
của mọi thành viên trong xã hội nên bản chất của phạm trù hiệu quả cũng
khác với tư bản chủ nghĩa.
Hiệu quả kinh doanh biểu hiện mối tương quan giữa chi phí đầu vào và
kết quả nhận được ở đầu ra của một quá trình Nếu gọi H là hiệu quả kinh

doanh:
Ta có công thức :
Hiệu quả kinh doanh = Kết quả thu được - Chi phí bỏ ra (1)
Kết quả thu được
Hiệu quả kinh doanh = (2)
Chi phí bỏ ra
(1) : hiệu quả tuyệt đối
(2) : hiệu quả tương đối
Công thức này thể hiện hiệu quả của việc bỏ ra một số vốn để thu được
kết quả cao hơn tức là đã có một sự xuất hiện của giá trị gia tăng với điều kiện
Hiệu quả >1, Hiệu quả càng lớn càng chứng tỏ quá trình đạt hiệu quả càng
cao. Để tăng hiệu quả (H), chúng ta có thể sử dụng những biện pháp như:
giảm đầu vào, đầu ra không đổi; hoặc giữ đầu vào không đổi, tăng đầu ra;
hoặc giảm đầu vào, tăng đầu ra,
Chúng ta có thể cải tiến quản lý điều hành nhằm sử dụng hợp lý hơn các
nguồn lực, giảm tổn thất, để tăng cường giá trị đầu ra. Nhưng nếu quá trình
sản xuất, kinh doanh đã hợp lý thì việc áp dụng các biện pháp trên sẽ bất hợp
lý. Bởi ta không thể giảm đầu vào mà không làm giảm giá trị đầu ra và ngược
lại. Thậm chí trong thực tế, ngay cả khi quá trình sản xuất, kinh doanh của
7
chúng ta là còn bất hợp lý nhưng khi chúng ta áp dụng những biện pháp trên
có thể làm cho hiệu quả giảm xuống. Chính vì vậy, để có được một hiệu quả
không ngừng tăng lên đòi hỏi chúng ta chẳng những không giảm mà còn phải
tăng chất lượng đầu vào lên. Với nguyên vật liệu tốt hơn, lao động có tay
nghề cao hơn, máy móc công nghệ hiện đại hơn, ta sẽ giảm đi lượng hao phí
nguyên vật liệu, hao phí lao động, hao phí năng lượng, thiết bị trên từng đơn
vị sản phẩm, phế phẩm giảm đó là điều kiện để có những sản phẩm với số
lượng, chất lượng cao, giá thành hạ. Như vậy để tăng hiệu quả kinh doanh chỉ
có con đường duy nhất là không ngừng đầu tư vào công nghệ, nguồn nhân
lực, quản lý,… Qua đó giá trị đầu ra ngày càng tăng, đồng thời càng nâng cao

sức cạnh tranh của sản phẩm, của DN trên thương trường.
Như vậy, từ sự phân tích trên: hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh
tế, nó phán ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của DN để hoạt động
kinh doanh đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Hiệu quả phải gắn liền
với việc thực hiện những mục tiêu của DN và được thể hiện qua công thức
sau:
Mục tiêu hoàn thành
Hiệu quả kinh doanh (H) =
Nguồn lực được sử dụng một cách thông minh
Với quan niệm trên, hiệu quả kinh doanh không chỉ là sự so sánh giữa
chi phí cho đầu vào và kết quả nhận được ở đầu ra; hiệu quả kinh doanh được
hiểu trước tiên là việc hoàn thành mục tiêu, nếu không đạt được mục tiêu thì
không thể có hiệu quả và để hoàn thành mục tiêu ta cần phải sử dụng nguồn
lực như thế nào? Điều này thể hiện một quan điểm mới là không phải lúc nào
để đạt hiệu quả cũng là giảm chi phí mà là sử dụng những chi phí như thế nào,
có những chi phí không cần thiết ta phải giảm đi, nhưng lại có những chi phí
ta cần phải tăng lên vì chính việc tăng chi phí này sẽ giúp cho DN hoàn thành
mục tiêu tốt hơn, giúp cho DN ngày càng giữ được vị trí trên thương trường.
8
1.2. Bản chất của hiệu quả kinh doanh.
Bản chất của hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả của lao động xã hội,
được xác định bằng cách so sánh giữa chất lượng kết quả hữu ích cuối cùng
thu được với lượng hao phí lao động xã hội. Do vậy thước đo hiệu quả là sự
tiết kiệm hao phí lao động xã hội. Và tiêu chuẩn của hiệu quả là tối đa hoá kết
quả và tối thiểu hoá chi phí dựa trên những điều kiện hiện có.
2. Phân loại hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
Với các quan điểm khác nhau về hiệu quả nên hiệu quả được phân thành
các loại như sau:
2.1. Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tổng hợp
Là hiệu quả chung phản ánh kết quả thể hiện mọi mục tiêu mà chủ thể

đưa ra trong một giai đoạn nhất định trong quan hệ với chi phí để có được
những kết quả đó.
Các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh trong những điều kiện
cụ thể về nguồn vốn, tài nguyên, trang bị kỹ thuật, trình độ tổ chức quản lý
doanh nghiệp, quản lý kinh doanh. Họ đưa ra thị trường sản phẩm của mình
với một chi phí cá biệt nhất định, với mục đích là bán được hàng hoá với giá
cao nhất và thu được lợi nhuận cao nhất.
Hiệu quả thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh ở mỗi doanh
nghiệp suy cho cùng là hiệu quả của lao động xã hội. Nhưng ở mỗi doanh
nghiệp khi đánh giá hiệu quả thì hiệu quả lao động xã hội đó lại được thể
hiện dưới dạng các cụ thể: hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu, hiệu quả lao
động sống, hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị, hiệu quả ngoài sản xuất Bản
thân mỗi loại hiệu quả lại có thể được phân chia chi tiết tỷ mỉ hơn. Để đánh
giá hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh nghiệp không thể không
đánh giá hiệu quả tổng hợp của các loại trên và phải kết hợp đánh giá hiệu
quả của từng loại. Đó là việc làm giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp tìm
ra các biện pháp làm giảm chi phí cá biệt của hoạt động kinh doanh nhằm
9
mục đích tối đa hoá lợi nhuận và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
2.2. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối.
Là hai hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa kết quả và chi phí.
Hiệu quả tuyệt đối là hiệu quả được tính toán cho từng phương án nhập
khẩu cụ thể bằng cách xác định lợi nhuận thu được với chi phí bỏ ra hoặc
được đo bằng hiệu số giữa chi phí và kết quả. Hiệu quả kinh tế tuyệt đối được
tính bằng công thức:
H = K - C
Trong đó: H : Là hiệu quả nhập khẩu tuyệt đối
K : Là giá trị kết quả đạt được.
C : Là chi phí bỏ ra.
Có thể nói hiệu quả kinh tế được tính theo quan điểm này là phần

tăng thêm về giá trị từ kết quả thu được so với chi phí bỏ ra.
Hiệu quả so sánh được xác định bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí.
Nói cách khác hiệu quả so sánh chỉ mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của
các phương án để từ đó cho phép lựa chọn một phương án có hiệu quả nhất.
H = K / C
Trong đó: H : Là hiệu quả nhập khẩu tương đối
K : Là kết quả đạt được.
C : Là chi phí cần bỏ ra.
2.3. Hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội.
Hiệu quả tài chính còn được gọi là hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của
doanh nghiệp hay hiệu quả kinh tế xét trên phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu
quả tài chính phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận kinh tế mà doanh nghiệp
nhận được từ hoạt ddoonh nhập khẩu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có
được lợi ích kinh tế. Hiệu quả tài chính là hiệu quả hàng đầu mà các doanh
nghiệp quan tâm đến. Hiệu quả tài chính chỉ liên quan trực tiếp đến thu chi.
Hiệu quả kinh tế quốc dân được gọi là hiệu quả kinh tế xã hội là hiệu quả
10
tổng hợp được xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế. chủ thể được hưởng hiệu
quả kinh tế quốc dân là toàn bộ xã hội mà người đại diện là Nhà nước.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu mang lại cho nền kinh tế quốc dân là sự
đóng góp của các hoạt động kinh doanh vào việc phát triển sản xuất, đổi mới
cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động xã hội, tích luỹ ngoại tệ, tăng thu ngân
sách, giải quyết vấn đề việc làm cải thiện đời sống cho nhân dân là hiệu quả
kinh tế xã thu được từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Mối quan hệ giữa hai loại hiệu quả này là quan hệ mật thiết, nhân quả và
tác động trực tiếp lẫn nhau. Hiệu quả kinh tế quốc dân có thể đạt được trên cơ
sở hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp và ngược lại hiệu quả kinh tế
xã hội là điều kiện tiền đề để cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
2.4. Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài.
Căn cứ vào lợi ích nhận được trong các khoảng thời gian dài hay ngắn

mà người ta phân chia thành hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài. Hiệu quả
trước mắt là hiệu quả được xem xét trong một thời gian ngắn. Lợi ích được
xem xét trong loại hiệu quả này mang tính tạm thời như việc nhập những thiết
bị cũ, công nghệ kém phát triển, rẻ tiền có thể mang lại hiệu quả về trước mắt
nhưng về lâu dài thì chưa chắc. Hiệu quả lâu dài là hiệu quả được xem xét
trong một thời gian dài.
Doanh nghiệp cần phải kết hợp hài hoà lợi ích trước mắt và lợi ích lâu
dài, không được chỉ vì lợi ích trước mắt mà làm thiệt hại đến lợi ích lâu dài
của doanh nghiệp.
3. Sự cần thiết phải đẩy mạnh hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
3.1. Sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường.
Các doanh nghiệp luôn phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các đối thủ
cạnh tranh về mọi mặt rong nền kinh tế thị trường hiện nay: giá cả, chấtlượng,
thị trường, khách hàng…nếu doanh nghiệp không nhanh nhậy nắm bắt được
tình hình thực tế cũng như không biết chính xác về tình hình kinh doanh, hiệu
11
quả kinh doanh của chính doanh nghiệp mình thì doanh nghiệp sẽ có những
ảo tưởng về kết quả mà doanh nghiệp đã đạt được điều này dẫn tới doanh
nghiệp kinh doanh thất bại trong cuộc cạnh tranhvới các doanh nghiệp khác,
doanh nghiệp sẽ dần mất đi những gì mình đang có mà điều này cũng đồng
nghĩa với việc doanh nghiệp đang dần suy vong và có nguy cơ dẫn đến phá
sản.
Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, mức độ canh tranh còn gay gắt hơn các
doanh nghiệp kinh doanh trong nước. Các doanh nghiệp tham gia vào hoạt
động nhập khẩu không những phải cạnh tranh với các doanh nghiệp trong
cùng lĩnh vực mà còn phải cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước.
Để giúp cho các chủ doanh nghiệp xuất nhập khẩu luôn nắm bắt được
tình hình kinh doanh thực tế cũng như biết được doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả không thì công tác phân tích tình hình nhập khẩu và hiệu quả nhập khẩu
là một việc làm hết sức cần thiết không chỉ đối với các doanh nghiệp tham gia

vàolĩnh vực xuất nhập khẩu mà tất cả các doanh nghiệp đều phải chú trọng tới
công tác phân tích.
3.2. Sự kham hiếm của nguồn lực.
Những thứ được coi là nguồn lực phải là những thứ được sử dụng hoặc
có khả năng sử dụng trong thời kỳ dự kiến phát triển. Tiềm năng chưa đưa
được vào sử dụng hoặc chưa có khả năng đưa vào sử dụng thì chưa được xem
là nguồn lực.
Các nguồn lực được xem xét dưới nhiều góc độ. Có nghĩa là dưới nhiều
góc độ, người ta chia các nguồn lực thành các loại khác nhau để có thái độ
đúng đắn và có cách ứng xử với chúng thích hợp. Với cách nhận thức như thế
và trên quan điểm thiết thực, việc phân chia các nguồn lực được tiến hành
theo hai cách chủ yếu:
Người ta chia ra thành nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần.
Nhóm nguồn lực con người (gắn với tài nguyên trí thức) và tài nguyên
12
thông tin. Trí tuệ của con người có giá trị đặc biệt và không thể tự có được mà
con người phải mất công, mất sức mới có. Muốn có trí tuệ, con người phải có
thể lực và trí lực cùng hoàn cảnh thuận lợi. Trong lĩnh vực xây dựng nguồn
lực con người, không thể xem nhẹ việc bồi dưỡng sức dân và thực hiện nhân
đạo hiện đại đối với vấn đề sinh sản. Để có được nguồn thông tin chất lượng
cao nhằm cung cấp kịp thời, đầy đủ cho người lao động, chủ doanh nghiệp
phải tiến hành xây dựng hệ thống thông tin thống nhất. Có như thế mới khắc
phục được tình trạng thiếu thông tin trầm trọng.
Căn cứ vào nguồn gốc của nguồn lực, người ta chia chúng ra thành hai
nhóm lớn: nguồn lực bên trong doanh nghiệpvà nguồn lực bên ngoài doanh
nghiệp. Nguồn lực bên trong doanh nghiệp bao giờ cũng giữ vai trò quyết
định. Bằng cơ chế, chính sách, người ta tạo ra môi trường hấp dẫn để thu hút
các nguồn lực bên ngoài, nhất là thu hút nhân tài. Thông qua cơ chế, chính
sách, các doanh nghiệp có thể biến ngoại lực thành nội lực. Phần lớn các
nguồn lực đều hữu hạn. Vì thế, việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực

và dự trữ các nguồn lực trong điều kiện có thể là một trong những chính sách
quan trọng.
Đối với doanh nghiệp tham gia vào hoạt động nhập khẩu thì nguồn lực
sử dụng là lượng ngoại tệ bỏ ra, thời gian và lao động. Nếu không biết sử
dụng một cách tiết kiệm thì chi phí đầu vào cho nhập khẩu tăng lên dẫn đến
giá tăng làm cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ. Vì vậy,
để đạt được hiệu quả đồng thời vẫn mang lại lợi ích xã hội, các doanh nghiệp
nhập khẩu phải tìm các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nhập
khẩu sao cho đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất.
3.3 Đẩy mạnh hiệu quả kinh doanh là nâng cao đời sồng tinh thần
vật chất cho người lao động.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động nhập
khẩu nói riêng là điều kiện sống còn để doanh nghiệp tồn tại và phát triển, nếu
13
hiệu quả hoạt động nhập khẩu không ngừng được nâng cao thì kết quả thu
được ngày càng tăng. Khi doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa sẽ có sản xuất và
tiêu thụ trong nước hoặc còn xuất khẩu sang nước thứ ba tạo người lao động
có công ăn viecj lam thêm và có thu nhập cao, họ sẽ có điều kiện để chăm
lođến đời sống vật chất, tinh thần cho bản thân và gia đình, mặt khác nhờ có
thunhập cao mà người lao động sẽ hăng say làm việc hơn làm cho năng suất
laođộng ngày càng tăng. Điều đó sẽ giúp cho doanh nghiệp ngày càng nâng
caođược hiệu quả hoạt động nhập khẩu và làm ăn ngày càng tấn tới. Suy cho
cùng thì nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu
quả hoạt động nhập khẩu nói riêng cũng chính là nâng cao đời sống vật chất
tinh thần cho người lao động và ngược lại.
Đồng thời nhập khẩu cũng đóng góp vào ngân sách quốc gia một nguồn
vốn ngoại tệ đáng kể. Đây là nguồn vốn dùng để nhập khẩu các vật phẩm tiêu
dung thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được nhằm phục vụ nhu cầu ngày
càng cao của người dân.
3.4. Nhập khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế

đối ngoại của đất nước.
Chúng ta thấy rõ nhập khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tácđộng
qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Có thể thấy hoạt động nhập khẩu tạo điều kiện
thúc đẩyquan hệ này phát triển. Chẳng hạn, nhập khẩu thúc đẩy quan hệ tín
dụng,đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế… Mặt khác, chính các quan hệ kinh
tếđối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng nhập khẩu.Tóm lại, đẩy mạnh xuất
khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực
hiện công nghiệp hoá đất nước.
14
4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh nhập khẩu.
4.1. Hiệu quả tổng hợp tương đối.
4.1.1. Mức doanh lợi của vốn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu.
Ln
H1 =
Vn
Trong đó: H1 : Mức doanh lợi của vốn phục vụ cho hoạt động nhập
khẩu.
Ln : Lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu.
Vn : Vốn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu.
Chỉ tiêu này cho thấy một đồng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh sẽ
tạo ra bao nhiên đồng lợi nhuận. Nếu mức doanh lợi của vốn phục vụ cho
hoạt động nhập khẩu càng cao thì hiệu quả kinh tế của công ty càng cao và
ngược lại. Để đạt được điều này doanh nghiệp phải làm sao để tăng được lợi
nhuận và giảm được vốn sản xuất kinh doanh. Nhưng không có nghĩa là giảm
vốn phục vụ kinh doanh nhập khẩu thì có hiệu quả mà phải chọn một mức
vốn phù hợp để có lợi nhuận cao nhất.
4.1.2. Mức doanh lợi của doanh thu từ hoạt động nhập khẩu.
Ln
H2 =
Dn

Trong đó: H2 : Mức doanh lợi của doanh thu từ hoạt động nhập khẩu.
Ln : Lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu.
Dn : Doanh thu thu được từ hoạt động nhập khẩu.
Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu nhập khẩu thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận nhập khẩu.
15
4.1.3. Mức doanh lợi của chi phí nhập khẩu.
Ln
H3 =
Cn
Trong đó: H3 : Mức doanh lợi của chi phí nhập khẩu.
Ln : Lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu.
Cn : Chi phí cho hoạt động nhập khẩu.
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chi phí bỏ vào hoạt động
nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
4.2. Các chỉ tiêu hiệu quả bộ phận.
4.2.1. Hiệu quả về sử dụng vốn.
*Hiệu quả sử dụng vốn lưu động nhập khẩu.
Ln
H5=
VLDn
Trong đó: H5 : Hiệu quả sử dụng vốn lưu động nhập khẩu.
Ln : Lợi nhuận thu được từ hoạt động nhập khẩu.
VLDn : Vốn lưu động đầu tư vào hoạt động nhập khẩu.
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn lưu động đầu tư vào hoạt
động nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
*Số vòng quay của vốn lưu động nhập khẩu.
Dn
H6 =
VLDn

Trong đó: H6 : Số vòng quay của vốn lưu động nhập khẩu.
Dn : Doanh thu thu được từ hoạt động nhập khẩu.
VLDn : Vốn lưu động đầu tư vào hoạt động nhập khẩu.
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn lưu động đầu tư vào hoạt
16
động nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc thể hiện số vòng
luân chuyển của vốn lưu động. Số vòng quay càng nhiều phản ánh hiệu quả
sử dụng vốn lưu động càng tăng.
*Số vòng quay của toàn bộ vốn nhập khẩu.
Dn
H7 =
Vn
Trong đó: H7 : Số vòng quay của toàn bộ vốn nhập khẩu.
Dn : Doanh thu thu được từ hoạt động nhập khẩu.
Vn : Vốn phục vụ cho hoạt động nhập khẩu.
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn đầu tư vào hoạt động
nhập khẩu thì thu được bao nhiêu đồng doanh thu hay thể hiện số vòng luân
chuyển của vốn nhập khẩu.
4.2.2. Hiệu quả về sử dụng lao động nhập khẩu.
*Doanh thu bình quân một lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu.
Dn
H9 =
LDn
Trong đó: H9 : Doanh thu bình quân một lao động tham gia vào hoạt
động nhập khẩu.
Dn : Doanh thu thu được từ hoạt động nhập khẩu.
LDn : Số lao động tham gia vào hoạt động nhập khẩu.
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết một lao động tham gia vào hoạt động nhập
khẩu có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ phân tích.
*Hiệu suất tiền lương.

Kq
H10=
Tl
17
Trong đó: H10: Hiệu suất tiền lương.
Kq: kết quả kinh doanh nhập khẩu.
Tl : Tiền lương
Ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết một đồng tiền lương tương ứng với bao
nhiêu đồng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu suất tiền lương tăng
lên khi năng suất lao động tăng với nhịp độ cao hơn nhịp độ tăng tiền lương.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ KINH
DOANH NHẬP KHẨU
1. Các nhân tố chủ quan.
Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu
là các yếu tố mà doanh nghiệp có thể thay đổi được, điều chỉnh mức độ và
chiều hướng tác động của chúng đối với hoạt động kinh doanh của mình. Các
yếu tố này gồm có:
1.1 Vốn kinh doanh.
Thể hiện ở tiềm năng tài chính và doanh thu hàng năm của doanh nghiệp.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu đòihỏi một lượng tiền mặt và ngoại tệ lớn
để thanh toán cho các đối tác trong nước và nước ngoài. Nếu thiếu vốn thì qúa
trình nhập khẩu không thực hiện được, rất có thể sẽ dẫn đến mất thị trường,
mất khách hàng và cơ hội mở rộng kinh doanh. với sự trợ giúp của nguồn vốn
đầy đủ, sẽ có hiệu quả hơn, từ đó đem lại tích luỹ cho doanh nghiệp, bổ sung
thêm nguồn vốn kinh doanh. Vốn kinh doanh hàng năm còn thể hiện kết quả
hoạt động kinh doanh từng năm có lãi cao hay thấp.
1.2 . Nguồn nhân lực.
Đây là nhân tố quyết định toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, đặc biệt
trong điều kiện doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh nhập khẩu nên đội ngũ cán
bộ nắm chắc được chuyên môn nghiệp vụ nhập khẩu sẽ đem lại tác dụng rất

lớn trong sự thành công trong kinh doanh. Khi mọi nhân viên trong doanh
nghiệp đều có tinh thần trách nghiệm, đều có tác phong làm việc nghiêm túc
18
thì sẽ đem lại hiệu quả rất lớn. Và ngược lại, khi hiệu quả hoạt động nhập
khẩu được nâng cao thì nguồn nhân lực trong công ty đó lại có điều kiện tốt
hơn để hoàn thiện và nâng cao trình độ.
1.3. Trình độ tổ chức quản lý
Trong điều kiện cạnh tranh khắc liệt, nếu người quản lý không sáng suốt
tất yếu sẽ gặp những thất bại trong kinh doanh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay khi mà đã và đang sẽ có nhiều doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực xuất
nhập khẩu, với những tiềm lực vô cùng mạnh mẽ. Điều này càng đòi hỏi đội
ngũ lãnh đạo, quản lý phải linh hoạt, nhạy bén, để có thể chớp thời cơ, vượt
qua những nguy cơ trong kinh doanh để đem lại thành công cho doanh
nghiệp.
Trong tổ chức quản lý cần coi trọng khâu nhập khẩu hàng đầu vào và
tiêu thụ hàng nhập khẩu. Đối với khâu mua hàng (nhập khẩu) nếu cán bộ có
trình độ tổ chức quản lý tốt sẽ mua được đúng hàng, đúng thời điểm, đúng
yêu cầu, đảm bảo chất lượng hàng. Còn ở khâu tiêu thụ thì sẽ giúp công ty
nhanh chóng bán hết hàng nhập, thu hồi vốn nhanh để tiếp tục đầu tư. Ngược
lại, tổ chứuc tốt khâu trên sẽ đem lại hiệu quả cho hoạt động nhập khẩu, từ
thực tế đó, trình độ tổ chức quản lý trong nhập khẩu sẽ được nâng lên qua sự
phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.
1.4. Khách hàng.
Khách hàng mà doanh nghiệp lựa chọn là đối tượng chính để phục vụ ,
doanh nghiệp thường chọn khách hàng theo mức thu nhập tùy theo đối tượng
khách hàng và loại hàng hóa mà doanh nghiệp kinh doanh. Cầu của sản phẩm
có sự biến động theo sự thay đổi trên thị trường. Những đối tượng khác nhau
sẽ có nhu cầu khác nhau đối với sản phẩm. Vậy,chiến lược cạnh tranh giới
thiệu sản phẩm đối với từng khách khác nhau cũng rất khác nhau.
19

2.Các nhân tố khách quan.
2.1. Chính sách của Nhà nước.
Việc thay đổi cơ chế xuất nhập khẩu sẽ làm ảnh hưởng tới doanh thu hay
chi phí của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, do vậy nó ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Điều này đòi hỏi
các doanh nghiệp phải thường xuyên nắm bắt các thông tin về chính sách
quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước để có biện pháp ứng phó kịp thời trong
hoạt động kinh doanh nhằm nâng hiệu quả sản xuất kinh doanh xuất nhập
khẩu.
2.2. Hạn ngạch nhập khẩu.
Là quy định của nhà nước về số lượng giá trị của mặt hàng hoặc một
nhóm hàng được phép nhập khẩu từ một thị trường nhất định trong một thời
gian nhất định. Chính sách này được dùng để bảo hộ sản xuất trong nước, bảo
hộ nguồn lực trong nước, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế để thực hiện
chiến lược thay thế hàng nhập khẩu, bảo hộ sản xuất nội địa và thực hiện các
chính sách khác. Hạn ngạch hạn chế số lượng nhập.
2.3 Thuế
Là khoản nghĩa vụ mà doanh nghiệp phải nộp cho nhà nước, mức thuế có
ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua việc làm tăng hoặc làm
giảm tổng chi phí, trừ thuế lợi tức, thuế thu nhập.Đây là biện pháp quan trọng
nhất để thực hiện chính sách thương mại. Thuế đánh vào từng đơn vị hàng
hoá nhập khẩu gọi là thuế nhập khẩu.Nếu thuế nhập khẩu cao thì giá cả hàng
hoá sẽ bị đẩy lên, và do đó làm hạn chế sức cạnh tranh của mặt hàng của
doanh nghiệp nhập khẩu. Ngược lại,thuế nhập khẩu thấp, chi phí cho việc
nhập khẩu sẽ thấp làm tăng lợi nhuận nhập khẩu.Do vậy, hiệu quả nhập khẩu
sẽ được cải thiện.
20
2.4. Tỉ giá hối đoái.
Khi tỷ giá giữa ngoại tệ mạnh và đồng nội tệ tăng cao sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho việc xuất khẩu vì một đơn vị ngoại tệ sẽ được nhiều đồng nội tệ

hơn và điều này làm cho việc nhập khẩu nhiều khó khăn hơn khi chi phí kinh
doanh tăng lên. Ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm xuống sẽ làm cho việc
nhập khẩu được đẩy mạnh còn xuất khẩu gặp khó khăn khi lợi nhuận của việc
xuất khẩu bị giảm sút. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải theo dõi tình hình để
kịp thời điều chỉnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu để nâng cao hiệu
quả trong hoạt động kinh doanh.
2.5. Giá cả.
Bản chất của việc phân tích hiệu quả là só sánh giữa chi phí và hiệu quả
theo những mục tiêu nhất định được biểu hiện dạng hiện vật đó là số lượng
chất lượng của nhưng hàng hóa nhập khẩu. Những hàng hóa này không thể
so sánh trực tiếp với nhau nên những chi phí lợi ích cần phải tính ra giá trị
tương ứng mà phải thông qua giá cả.
2.6. Hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc, ngân hàng tài
chính.
Hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc, ngân hàng tài chính thuận
tiện an toàn cho phép các doanh nghiệp tận dụng được các cơ hội kinh doanh,
tận dụng được thời cơ làm đơn giản hoá hoạt động nhập khẩu, giảm bớt được
các chi phí và rủi ro, nâng cao tính kịp thời, nhanh gọn trong quá trình nhập
khẩu, tăng vòng quay của vốn.
Tóm lại, có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu. Các nhân tố chủ quan và khách quan có ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp đến doanh thu hoặc chi phí từ đó ảnh hưởng tới lợi nhuânj của hoạt
động kinh doanh. Doanh nghiệp phải kiểm soát được các nhân tố chủ quan để
có chiến lược kinh doanh phù hợp với điều kiện doanh nghiệp, làm tăng
doanh thu và giảm chi phí nâng cao hiệu quả kinh doanh. Phải nắm bắt được
các nhân tố khách quan để điều chỉnh hoạt động kinh doanh thích ứng với
những thay đổi đó nhằm đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh doanh.
21
CHƯƠNG II
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU VÀ HIỆU QUẢ KINH

DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY TƯ VẤN CÔNG NGHỆ
VÀ THIẾT BỊ KỸ THUẬT
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY TƯ VẤN CÔNG NGHỆ
VÀ THIẾT BỊ KỸ THUẬT- TECOTEC.
1. Giới thiệu chung về công ty.
Công ty cổ phần Tư vấn Công nghệ và Thiết bị Kỹ thuật - TECOTEC
được thành lập theo quyết định số: 3142 GP/TLDN do Uỷ ban Nhân dân
Thành phố Hà Nội cấp, chuyên tư vấn, cung cấp các thiết bị trong lĩnh vực
công nghệ cao, vật tư khoa học kỹ thuật, các thiết bị đo kiểm, điện tử viễn
thông và thử nghiệm vật liệu, các thiết bị kiểm chuẩn, các thiết bị phân tích
khoa học và thiết bị y tế.
♦ Logo:
♦ Trụ sở chính của Công ty TECOTEC :
Số 44/ 120 Đường Trường Chinh, Hà Nội
22
Điện thoại : +84-4-3576 3500 / 3576 3501
Fax : +84-4-3576 3498
Email:
Web-Site: www.tecotec.com.vn
♦ Chi nhánh Tp. HCM của Công ty TECOTEC :
Số 18A Đường Cộng Hoà, HCM
Phường 12, Quận Tân Bình
Điện thoại : +84-8-6296 2269
Fax : +84-8-6296 2268
Email:
♦ Chi nhánh TP. Đà Nẵng của Công ty TECOTEC:
Số 133 Triệu Nữ Vương, Đà Nẵng
Điện thoại/Fax: 0511 3816943
♦ Trung tâm bảo hành và dịch vụ kỹ thuật :
Số 44 / 120 Đường Trường Chinh, Hà Nội

Điện thoại : +84-4-3576 3500 / 3576 3501
Fax : +84-4-3576 3498
Email:
Web-Site: www.tecotec.com.vn
2. Lịch sử hình thành của công ty cổ phần tư vấn công nghệ và thiết
bị kỹ thuật.
Vào cuối năm 1996 tại một văn phòng nhỏ ở số nhà 36C phố Lý Nam Đế
Hà Nội, với 4 thành viên sáng lập chỉ có kinh nghiệm làm về Công Nghệ
Thông Tin, với lượng vốn ít ỏi và niềm tin mong manh: THIÊN THỜI – ĐỊA
LỢI – NHÂN HÒA, một công ty TNHH đã được thành lập với mơ ước vươn
lên vị trí số 1 về kinh doanh thiết bị CNTT tại Việt Nam và phát triển đội ngũ
sản xuất phần mềm mạnh như MiroSoft. Tên khi thành lập của công ty được
23

×