Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
• TTCK : thị trường chứng khoán
• TTCKVN : thị trường chứng khoán Việt Nam
• CTCK : công ty chứng khoán
• UBCK : Ủy ban chứng khoán
• UBCKNN : Ủy ban chứng khoán Nhà nước
• NĐT : nhà đầu tư
• CNTT : công nghệ thông tin
• SGD : sở giao dịch
• Công ty TNHH : công ty trách nhiệm hữu hạn
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình phát triển nền kinh tế thị trường tại Châu Âu và Mỹ đã phát minh và
đưa vào ứng dụng công cụ tài chính phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro cho các chủ
thể trong nền kinh tế.
Sự ra đời và hoạt động chính thức của TTCK Việt Nam trong năm 2000 là cột
mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của nền kinh tế. Trải qua quá trình 9 năm
hoạt động, TTCK Việt Nam đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng là kênh
dẫn vốn hấp dẫn, hiệu quả cho nền kinh tế đồng thời cũng là nơi cung cấp các sản
phẩm tài chính đa dạng cho các nhà đầu tư. Thực tế cho thấy rằng sản phẩm phái
sinh đã được áp dụng tại Việt Nam từ năm 2003 nhưng không được các chủ thể
kinh tế đón nhận nhiệt tình.
Mặc dù có lịch sử hình thành và phát triển gần 11 năm, song so với các TTCK
lớn trên thế giới, TTCK Việt Nam vẫn còn khá sơ khai và chứa đựng nhiều rủi ro.
Kết thúc năm tài chính 2010, sau hơn bốn năm là thành viên của WTO, nền kinh tế
Việt Nam đứng trước các khó khăn như lạm phát tăng cao, TTCK sa sút, chỉ số Vn-
index tăng giảm không ổn định. Trong khi nền kinh tế các nước đang phát triển sử
dụng các sản phẩm phái sinh để phòng ngừa rủi ro, trong đó có sản phẩm Options
chứng khoán. Nhưng trước những yêu cầu bức thiết của thị trường và NĐT,
VNDIRECT mạnh dạn đã triển khai sản phẩm này và là CTCK đầu tiên cung cấp
sản phẩm Options chứng khoán trên TTCK Việt Nam. Mặc dù quyền chọn chứng
khoán chưa được Bộ Tài chính cho phép áp dụng tại Việt Nam và VNDIRECT đã
bị buộc ngừng cung cấp gói sản phẩm này, song sự kiện này đã gây một dư chấn
mạnh mẽ đối với TTCK Việt Nam. Theo quan điểm cá nhân của, việc triển khai sản
phẩm Opions chứng khoán là cần thiết, phòng ngừa rủi ro trên TTCK và giúp các
thị trường khác vận hành trôi chảy, mang lại hiệu quả cao nhất cho nền kinh tế.
Với những lý do và sự cần thiết nên trên, em xin lựa chọn đề tài “ phát triển
công cụ quyền chọn tại công ty cổ phần chứng khoán VNDIRECT” làm chuyên
đề thực tập tốt nghiệp cho mình.
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
1
Chuyên đề tốt nghiệp
Vì khả năng và thời gian có hạn nên bài luận văn tốt nghiệp không thể tránh
khỏi những thiếu sót, kinh mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn bè
để bài viết được hoàn thiện và thiết thực hơn. Em xin chân thành cảm ơn TS.
Nguyễn Thị Minh Huệ và công ty cổ phần chứng khoán VNDIRECT đã tận tình
giúp đỡ để em hoàn thành bài luận văn này.
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I : NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG CỤ
OPTIONS TẠI CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm
Có nhiều khái niệm khác nhau về CTCK.
Theo Wikimedia tiếng Việt, “công ty chứng khoán là một tổ chức kinh doanh
chứng khoán, có tư cách pháp nhân, có vốn riêng hoạt động theo chế độ hạch toán
kinh tế, hoạt động theo giấy phép của Ủy Ban Chứng Khoán (UBCK) Nhà nước cấp”.
Công ty chứng khoán có các chức năng của người môi giới, người chuyên viên
và người bảo lãnh chứng khoán. Để trở thành thành viên của Sở giao dịch, Công ty
chứng khoán cũng phải hội đủ những điều kiện do luật định và phải đăng ký kinh
doanh chứng khoán trong Sở giao dịch chứng khoán.
Theo giáo trình “ Thị trường chứng khoán “ của PGS.TS. Nguyễn Văn Nam và
PGS.TS. Vương Trọng Nghĩa , được NXB Tài chính xuất bản năm 2005, CTCK
được định nghĩa “ là một đính chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên
thị trường chứng khoán” .
Ở Việt Nam, theo quyết định 04/1998/QĐ-UBCK3của UBCKNN, CTCK có
thể là công ty cổ phần, công ty TNHH được UBCKNN cấp giấy phép thực hiện một
hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán khi đã thỏa mãn một số các điều
kiện về vốn, nhân sự, cơ sở vật chất kỹ thuật.
Dựa trên loại hình kinh doanh chứng khoán mà CTCK có thể được phân loại
như sau:
• Công ty môi giới chứng khoán: là CTCK chỉ thực hiện trung gian mua bán
chứng khoán cho khách hang để hưởng hoa hồng.
• Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán: là CTCk có lĩnh vực hoạt động
chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí hoắc chênh lệch giá
• Công ty kinh doanh chứng khoán: là CTCK chủ yếu thực hiện nghiệp vụ tự
doanh, tự bỏ vốn và tự chịu trách nhiệm về hậu quả kinh doanh
• Công ty trái phiếu: là CTCK chuyên mua bán các loại trái phiếu
• Công ty chứng khoán không tập trung: là các CTCK hoạt động chủ yếu trên
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
3
Chuyên đề tốt nghiệp
thị trường OTC và họ đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường.
Các loại hình tổ chức CTCK:
• Công ty cổ phần: là pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu là cổ đông. Cổ
đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn đã góp. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán
(gồm cổ phiếu và trái phiếu) ra công chúng theo quy định hiện hành của pháp luật.
• Công ty TNHH: thành viên của công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp. Công ty
TNHH không được phép phát hành cổ phiếu.
• Công ty hợp danh: có từ 2 chủ sở hữu trở lên. Thành viên của công ty hợp
danh bao gồm : thành viên góp vốn và thành viên hợp danh. Các thành viên hợp
danh phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ
của công ty. Các thành viên góp vốn không tham gia điều hành công ty mà chỉ phải
chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình đối với các khoản nợ của
công ty.
• Trên thế giới, các CTCK hầu hết được thành lập theo hình thức là công ty
cổ phần hoặc công ty TNHH. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, CTCK phải là
công ty cổ phần, công ty TNHH nhằm một số lý do như : bảo vệ lợi ích của khách
hàng, tránh tình trạng thao túng doanh nghiệp vì lợi ích của một số người; đảm bảo
chế độ thông tin, báo cáo chặt chẽ và đảm bảo việc quản lý công ty một cách hiệu
quả; đảm bảo sự tồn tại ổn định của công ty khi có một hoặc một số thành viên rút
vốn khỏi công ty.
1.1.2. Vai trò, chức năng của công ty chứng khoán
1.1.2.1. Chức năng của công ty chứng khoán
• Tạo cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi đến người sử
dụng vốn thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành)
• Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch (thông qua hệ thống khớp lệnh).
• Tạo tính thanh khoản cho chứng khoán (hoán chuyển từ chứng khoán sang
tiền mặt và ngược lại từ tiền mặt sang chứng khoán một cách dễ dàng).
• Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường (thông qua hoạt động tự doanh hoặc
tạo lập thị trường).
1.1.2.2. Vai trò của công ty chứng khoán
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
4
Chuyên đề tốt nghiệp
Hoạt động trên thị trường tài chính, các CTCK có vai trò hết sức quan trọng
đối với các chủ thể khác nhau tham gia nền kinh tế:
• Đối với các tổ chức phát hành:
Thông qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, CTCK tạo ra cơ
chế huy động vốn, phục vụ các nhà phát hành. Dựa trên nguyên tắc trung gian của
TTCK, các NĐT và những nhà phát hành không được trực tiếp mua bán với nhau
mà phải thông qua các trung gian mua bán là các CTCK. Qua đó, tổ chức phát hành
huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh.
• Đối với các NĐT:
Thông qua hoạt động môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, CTCK
có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao hiệu quả của các
khoản đầu tư, khác với hàng hóa thông thường là mua bán qua trung gian sẽ làm
tăng chi phí cho người mua và người bán. Trên TTCK, sự biến đông thường xuyên
của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho NĐT tốn kém chi
phí, công sức và thời gian tìm hiểu. Thông qua CTCK với trình độ chuyên môn cao
và uy tín nghề nghiệp, NĐT có thiể thực hiện các khoản đầu tư một cách có hiệu
quả hơn.
• Đối với TTCK:
Vai trò của CTCK được thể hiện là:
Một là, góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là do
thị trường quyết định. Người bán và người mua không được giao dịch trực tiếp với
nhau mà phải thông qua CTCK để đưa ra mức giá cuối cùng. CTCK là thành viên
của thị trường nên họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá.
Trên thị trường sơ cấp, CTCK cùng các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Các
CTCK còn tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ những khoản đầu tư của khách
hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều CTCK đã giành một tỷ lệ nhất định
các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường.
Hai là, CTCK góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính.
Trên thị trường sơ cấp, thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành, chứng khoán hóa,
các CTCK không những huy động một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh
cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính được
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
5
Chuyên đề tốt nghiệp
đầu tư do các chứng khoán sau đợt phát hành sẽ được mua bán, giao dịch trên thị
trường thứ cấp. Trên thị trường thứ cấp, do thực hiện các giao dịch mua và bán
chứng khoán, CTCK giúp NĐT chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược
lại, do đó làm tăng tính thanh khoản của tài sản tài chính.
• Đối với các cơ quan quản lý thị trường:
CTCK có vai trò cung cấp thông tin về TTCK cho các cơ quan quản lý thị
trường để thực hiện các mục tiêu đó. CTCK vừa là nhà bảo lãnh phát hành cho các
chứng khoán mới, vừa là trung gian mua bán trên thị trường. Trên TTCK, các công
ty niêm yết buộc phải công khai thông tin một cách minh bạch, thông qua các
CTCK, qua đó các cơ quan quản lý thị trường có thể giám sát thị trường, tránh các
hiện tượng thao túng, bóp méo thị trường.
1.1.3. Điều kiện thành lập
Để được phép thành lập, CTCK phải đáp ứng được các điều kiện sau:
1.1.3.1. Điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật
Do đặc trưng của hoạt động kinh doanh chứng khoán và để đảm bảo hiệu quả
hoạt động của các CTCK, pháp luật các nước đều quy định về điều kiện cơ sở vật
chất kỹ thuật khi cấp giấy phép hoạt động cho các công ty. Theo quy định của pháp
luật Việt Nam, CTCK phải đáp ứng được các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật
như: có sàn giao dịch tối thiểu 150m
2
, có thiết bị văn phòng, có hệ thống phần mềm
phục vụ giao dịch chứng khoán, trang thông tin điện tử, bảng tin để công bố thông
tin cho khách hàng, hệ thống kho, két để bảo quản chứng khoán, chứng từ giao
dịch, tiền và các tài liệu hoạt động của công ty.
1.1.3.2. Điều kiện về vốn
Vốn pháp định của CTCK thường được quy định cụ thể cho từng loại hình
kinh doanh. Một công ty tham gia vào càng nhiều loại hình thì phải có càng nhiều
vốn. Tại Việt Nam, Luật Chứng khoán đã điều chỉnh điều kiện về vốn pháp định để
được kinh doanh chứng khoán theo hướng tăng, đặc biệt là các nghiệp vụ đòi hỏi
vốn lớn, rủi ro cao như nghiệp vụ tự doanh và bảo lãnh phát hành. Mức vốn pháp
định cụ thể đối với từng nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán như sau:
STT Nghiệp vụ
Theo Luật Chứng
khoán
Theo Nghị định
144/2004/NĐ-CP
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
6
Chuyên đề tốt nghiệp
1 Môi giới 25 tỷ đồng 3 tỷ đồng
2 Tự doanh 100 tỷ đồng 12 tỷ đồng
3 Tư vấn đầu tư chứng khoán 10 tỷ đồng 3 tỷ đồng
4 Bảo lãnh phát hành chứng khoán 165 tỷ đồng 22 tỷ đồng
Trong trường hợp CTCK xin cấp giấy phép cho nhiều loại hình kinh doanh thì
vốn pháp định là tổng số vốn pháp định của những loại hình kinh doanh mà CTCK
được cấp giấy phép.
1.1.3.3. Điều kiện về nhân sự
Nhân tố con người chiếm vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự thành công của
CTCK vì đây là một ngành mới, kỹ thuật phức tạp, rủi ro cao nên đòi hỏi phải có
đội ngũ cán bộ nhanh nhạy, tinh thông nghiệp vụ, có tư cách. Do đó, điều kiện về
nhân sự luôn được đặt ra ở các nước khi xem xét cấp giấy phép hoạt động kinh
doanh cho các CTCK. Luật Chứng khoán và các quy chế tổ chức và hoạt động
CTCK quy định: Giám đốc (Tổng giám đốc), các nhân viên kinh doanh của CTCK
phải có giấy phép hành nghề do UBCK NN cấp. Trong đó, điều kiện tối thiểu ban
đầu để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động là Giám đốc (Tổng giám đốc) và
ít nhất 3 nhân viên có chứng chỉ hành nghề chứng khoán cho mỗi nghiệp vụ kinh
doanh đề nghị cấp phép.
Ngoài các điều kiện nêu trên, CTCK có vốn góp của đối tác nước ngoài, để
được cấp giấy phép hoạt động thì tổ chức nước ngoài trong lien doanh với đối tác
Việt Nam phải tuân thủ tỷ lệ vốn góp do pháp luật Việt Nam quy định (hiện nay tối
đa là 49%).
1.1.4. Mô hình tổ chức
CTCK là một định chế tài chính đặc biệt và có thể được tổ chức theo hai mô
hình sau:
1.1.4.1. Mô hình công ty chứng khoán đa năng
Trong mô hình này, CTCK được tổ chức dưới hình thức một tổ hợp tài chính
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
7
Chuyên đề tốt nghiệp
tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài
chính. Theo đó, các NHTM hoạt động với tư cách là một chủ thể kinh doanh chứng
khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này có hai hình thức:
• Đa năng một phần:
Trong mô hình này, các NHTM muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh
bảo hiểm phải thành lập một công ty con hạch toán độc lập và hoạt động tách rời
với kinh doanh tiền tệ. Mô hình này còn được gọi là mô hình ngân hàng kiểu Anh.
• Đa năng toàn phần:
Các ngân hàng được phép trực tiếp kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo
hiểm và kinh doanh tiền tệ như các dịch vụ tài chính khác. Mô hình này còn được
gọi là mô hình ngân hàng kiểu Đức.
Ưu điểm của mô hình này là các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh
doanh, do đó giảm bớt rủi ro kinh doanh nhờ đa dạng hóa đầu tư. Ngoài ra, khả
năng chịu đựng của các ngân hàng trước những biến động thị trường cũng tăng
theo, các ngân hàng cũng tận dụng được lợi thế của mình là có vốn lớn, cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện đại và hiểu biết rõ về khách hàng cũng như các doanh nghiệp khi
họ cấp tín dụng và tài trợ dự án.
Nhược điểm của mô hình này là do vừa tổ chức hoạt động tín dụng, vừa tổ
chức hoạt động kinh doanh chứng khoán nên khả năng chuyên môn không sâu như
các công ty chuyên doanh. Điều này sẽ làm cho TTCK kém phát triển vì các ngân
hàng thường có xu hướng thích cho vay hơn là thực hiện các nghiệp vụ của TTCK.
Đồng thời, do hoạt động kinh doanh chứng khoán và hoạt động của ngân hàng khó
tách bạch, trong điều kiện pháp luật không lành mạnh, các ngân hàng dễ gây ra tình
trạng lũng đoạn thị trường.
1.1.4.2. Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh
Trong mô hình này, CTCK sẽ do các công ty độc lập và chuyên môn hóa trong
lĩnh vực chứng khoán phụ trách, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh
chứng khoán.
Ưu điểm của mô hình này là hạn chế được rủi ro hệ thống ngân hàng, các
CTCK có điều kiện chuyên môn hóa sâu trong lĩnh vực chứng khoán.
Tại Việt Nam, các CTCK được thành lập theo mô hình đa năng một phần hoặc
chuyên doanh.
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
8
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.5. Các nghiệp vụ của CTCK
1.1.5.1. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng
khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, CTCK đại diện cho khách
hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế tại sở giao dịch hay thị trường OTC mà
chính khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao
dịch đó.
Thông qua hoạt động môi giới, CTCK cung cấp cho khách hàng các sản phẩm,
dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa NĐT bán chứng khoán và NĐT mua chứng
khoán. Hoạt động môi giới gồm các bước sau:
• Mở tài khoản
• Nhận lệnh
• Chuyển lệnh tới thị trường phù hợp để thực hiện lệnh
• Xác nhận kết quả giao dịch cho khách hàng
• Thanh toán và giao hàng
Nghề môi giới đòi hỏi phải có những phẩm chất, tư cách đạo đức, kỹ năng
nhằm đưa ra những lời khuyên hợp lý nhằm hạn chế tới mức thấp nhất về thiệt hại
cho khách hàng. Những kỹ năng đó bao gồm:
• Kỹ năng truyền đạt thông tin: để thành công trong việc bán hàng, người môi
giới phải đặt khách hàng lên trên hết và doanh thu của mình là yếu tố thứ yếu.
• Kỹ năng tìm kiếm khách hàng: có nhiều phương pháp để tìm kiếm khách
hàng như những đầu mối được xây dựng từ công ty hoặc các tài khoản chuyển
nhượng lại, qua lời giới thiệu, qua điện thoại, gặp gỡ trực tiếp khách hàng, viết thư,
các cuộc hội thảo…
• Kỹ năng khai thác thông tin: một trong các nguyên tắc hành nghề môi giới là
phải hiểu khách hàng, biết được khả năng tài chính và mức độ chấp nhận rủi ro của
khách hàng nhằm giới thiệu các sản phẩm phù hợp cho khách hàng của mình. Ngoài
ra nó còn giúp cho nhà môi giới tăng được khối lượng tài sản quản lý, có chiến lược
khách hàng thích hợp.
Tùy theo quy định cua rmỗi nước, cách thức hoạt động của từng Sở giao dịch
chứng khoán mà người ta có thể phân chia thành nhiều loại nhà môi giới khác nhau
như sau:
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
9
Chuyên đề tốt nghiệp
• Môi giới dịch vụ (Full Service Broker): là loại môi giới có thể cung cấp đầy
đủ dịch vụ như mua bán chứng khoán, giữ hộ cổ phiếu, thu cổ tức, cho khách hàng
vay tiền, cho vay cổ phiếu để bán trước, mua sau và nhất là có thể cung cấp tài liệu,
cho ý kiến cố vấn trong việc đầu tư.
• Môi giới chiết khấu (Discount Broker): là loại môi giới chỉ cung cấp một số
dịch vụ như mua bán hộ chứng khoán. Đối với môi giới loại này thì khoản phí và
hoa hồng nhẹ hơn môi giới toàn dịch vụ vì không có tư vấn, nghiên cứu thị trường.
• Môi giới ủy nhiệm hay môi giới thừa hành: đây là những nhân viên của một
công ty chứng khoán thành viên của một Sở giao dịch, làm việc hưởng lương của
một công ty chứng khoán và được bố trí để thực hiện các lệnh mua bán cho các
công ty chứng khoán hay cho khách hàng của công ty trên sàn giao dịch. Vì thế họ
có tên chung là môi giới trên sàn (Floor Broker). Các lệnh mua bán được chuyển
đến cho các nhà môi giới thừa hành này có thể từ văn phòng công ty, cũng có thể từ
các môi giới đại diện (Registered Reprensentative).
• Môi giới độc lập hay môi giới 2 đô la: môi giới độc lập (Independent Broker)
chính là các môi giới làm việc cho chính họ và hưởng hoa hồng hay thù lao theo
dịch vụ. Họ là một thành viên tự bỏ tiền ra thuê chỗ tại Sở giao dịch (sàn giao dịch)
giống như các công ty chứng khoán thành viên.
Họ chuyên thực thi các lệnh cho các công ty thành viên khác của Sở giao dịch.
Sở dĩ có điều này là tại các Sở giao dịch nhộn nhịp, lượng lệnh phải giải quyết cho
khách hàng của các công ty chứng khoán đôi khi rất nhiều, các nhân viên môi giới
của các công ty này không thể làm xuể hoặc vì một lý do nào đó vắng mặt. Lúc đó,
các công ty chứng khoán sẽ hợp đồng với các nhà môi giới độc lập để thực hiện
lệnh cho khách hàng của mình và trả cho người môi giới này một khoản tiền nhất
định.
Ban đầu các nhà môi giới độc lập được trả 2 đôla cho một lô tròn chứng
khoáng (100 cổ phiếu) nên người ta quen gọi là “môi giới 2 đô la”.
Môi giới độc lập cũng được gọi là môi giới trên sàn (floor broker), họ đóng vai trò
không khác gì một môi giới thừa hành, chỉ khác là họ có tư cách độc lập – tức họ
không đại diện cho bất kỳ một công ty chứng khoán nào cả.
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
10
Chuyên đề tốt nghiệp
• Nhà môi giới chuyên môn: các sở giao dịch chứng khoán thường quy định
mỗi loại chứng khoán chỉ được phép giao dịch tại một điểm nhất định gọi là quầy
giao dịch (Post), các quầy này được bố trí liên tiếp quanh sàn giao dịch (floor).
Trong quầy giao dịch có một số nhà môi giới được gọi là nhà môi giới chuyên môn
hay chuyên gia. Các chuyên gia này chỉ giao dịch một số loại chứng khoán nhất
định. Nhà môi giới chuyên môn thực hiện 2 chức năng chủ yếu là thực hiện các lệnh
giao dịch và lệnh thị trường.
1.1.5.2. Nghiệp vụ tự doanh
Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho
mình . Hoạt động tự doanh của CTCK được tiến hành thông qua cơ chế giao dịch
trên SGDCK hoặc thị trường OTC . Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế
khớp giá, hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện thông qua hoạt động tạo
lập thị trường. Lúc này, CTCK đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một
số lượng chứng khoán nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán
chứng khoán với khách hàng để hưởng chênh lệch giá.
Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính công ty
thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này được thực
hiện song song với nghiệp vụ môi giới , vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách
hàng, vừa phục vụ cho chính mình, vì vậy trong quá trình hoạt động có thế dẫn đến
xung đột lợi ích giữa việc thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho bản thân công
ty. Do đó, luật pháp các nước đều yêu cầu phải tách biệt rõ rang giữa nghiệp vụ tự
doanh và môi giới, CTCK phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi
thực hiện lệnh của mình.
Nghiệp vụ tự doanh yêu cầu phải có nguồn vốn rất lớn và đội ngũ nhân viên có
trình độ chuyên môn, khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý,
đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường.
Khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh, các CTCK phải đáp ứng các yêu cầu sau:
• Tách biệt quản lý: tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ môi giới
để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động, bao gồm tách bạch về yếu tố
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
11
Chuyên đề tốt nghiệp
con người, quy trình nghiệp vụ, vốn và tài sản của khách hàng và của công ty.
• Ưu tiên khách hàng: ưu tiên xử lý lệnh của khách hàng trước khi xử lý lệnh
của công ty.
• Góp phần bình ổn thị trường: luật các nước đều quy định các CTCK phải
nắm một tỷ lệ % các giao dịch của mình cho hoạt động bình ổn thị trường. Theo đó,
các CTCK có nghĩa vụ mua vào khi giá chứng khoán giảm và bàn ra khi giá chứng
khoán lên nhằm giữ giá cả chứng khoán ổn định.
• Hoạt động tạo lập thị trường: khi vừa phát hành, các chứng khoán chưa có
thị trường để giao dịch. Để tạo thị trường cho các chứng khoán này, CTCK phải tiến
hành mua và bán chứng khoán, tạo tính thanh khoản trên thị trường cấp hai.
1.1.5.3. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
Bảo lãnh phát hành là việc CTCK hỗ trợ công ty phát hành huy động vốn bằng
cách bán chứng khoán trên thị trường thông qua việc bảo lãnh và phân phối chứng
khoán ra công chúng và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi
phát hành.
Bảo lãnh phát hành có 3 hình thức sau :
• Bảo lãnh chắc chắn : là hình thức bảo lãnh mà công ty bảo lãnh nhận mua
toàn bộ số chứng khoán của công ty phát hành, sau đó sẽ bán ra công chúng. Giá
mua của công ty bảo lãnh là giá đã được ấn định, thường thấp hơn giá thị trường,
giá bán của công ty bảo lãnh là giá thị trường.
• Bảo lãnh cố gắng tối đa: là hình thức bảo lãnh mà công ty bảo lãnh hứa sẽ cố
gắng tới mức tối đa để bán hết số chứng khoán cần phát hành cho công ty phát hành.
Trường hợp không bán hết, số chứng khoán còn lại sẽ được trả về cho công ty phát
hành. Công ty bảo lãnh được hưởng hoa hồng trên số chứng khoán được bán ra.
• Bảo lãnh tất cả hoặc không: đây là trường hợp áp dụng khi công ty phát
hành chứng khoán cần một số vốn nhất định để giải quyết một mục tiêu nhất định.
Nếu huy động được đủ số vốn cần thiết đó thì sẽ thực hiện đợt phát hành, nếu không
thì hủy bỏ. Công ty phát hành có thể yêu cầu công ty bảo lãnh phải phát hành được
một số lượng chứng khoán tối thiểu, nếu đạt được mức tối thiểu này thì sẽ phát hành
tiếp, nếu không sẽ hủy bỏ toàn bộ đợt phát hành.
Các hình thức phân phối chứng khoán chủ yếu là :
• Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể, các quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm, quỹ
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
12
Chuyên đề tốt nghiệp
hưu trí.
• Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những NĐT có quan hệ với tổ
chức phát hành.
• Bán rỗng rãi ra công chúng.
1.1.5.4. Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCK thông qua các hoạt động phân tích
để đưa ra các lời khuyên, phân tích tình huống và có thể thực hiện một số công việc
dịch vụ khác lien quan tới phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng.
Theo pháp luật Việt Nam, tư vấn đầu tư bao gồm hai nội dung là tư vấn chiến
lược và kỹ thuật giao dịch; cung cấp kết quả phân tích chứng khoán và TTCK.
Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán được phân loại như sau:
• Theo hình thức của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn trực tiếp (gặp gỡ
khách hàng trực tiếp hoặc thông qua thư từ, điện thoại…) và tư vấn gián tiếp (thông
qua các ấn phẩm, sách báo…) để tư vấn cho khách hàng.
• Theo mức độ ủy quyền của tư vấn: gồm tư vấn gợi ý và tư vấn ủy quyền
• Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: gồm tư vấn cho người phát hành và tư
vấn đầu tư.
Trong nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, các CTCK phải tuân thủ các
nguyên tắc sau:
• CTCK phải thu thập và quản lý thông tin về khách hàng đã được khách hàng
xác nhận, bao gồm tình hình tài chính, thu nhập của khách hàng, mục tiêu đầu tư
của khách hàng, khả năng chấp nhận rủi ro, kinh nghiệm hiểu biết đầu tư của khách
hàng.
• Các nội dung tư vấn phải có cơ sở hợp lý và phù hợp dựa trên thông tin đáng
tin cậy, phân tích logic.
• CTCK không được đảm bảo cho khách hàng kết quả đầu tư trừ trường hợp
đầu tư vào những sản phẩm đầu tư có thu nhập cố định, không được trực tiếp hay
gián tiếp bù đắp một phần hay toàn bộ các khoản thua lỗ của khách hàng do đầu tư
chứng khoán, trừ trường hợp việc thua lỗ của khách hàng là do lỗi của CTCK,
không được quyết định đầu tư thay cho khách hàng.
• CTCK không được tư vấn đầu tư cho khách hàng đầu tư vào chứng khoán
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
13
Chuyên đề tốt nghiệp
mà không cung cấp đầy đủ thông tin cho khách hàng.
• CTCK không được có hành vi cung cấp thông tin sai sự thật để dụ dỗ hay
mời gọi khách hàng mua bán một loại chứng khoán nào đó.
• CTCK phải bảo mật các thông tin nhận được từ người sử dụng dịch vụ tư
vấn trong quá trình cung ứng dịch vụ tư vấn, trừ trường hợp được khách hàng đồng
ý hoặc pháp luật có quy định khác.
• CTCK phải tư vấn đầu tư phù hợp với mục tiêu đầu tư và tình hình tài chính
của khách hàng.
• Trong trường hợp khách hàng không cung cấp đầy đủ thông tin theo yêu cầu
của CTCK, khách hàng phải chịu trách nhiệm về kết quả tư vấn không phù hợp của
CTCK.
1.1.5.5. Các nghiệp vụ phụ trợ
• Lưu ký chứng khoán: là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng
thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Khi thực hiện nghiệp vụ lưu ký chứng
khoán, CTCK sẽ nhận các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí
chuyển nhượng chứng khoán.
• Quản lý thu nhập của khách hàng: xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho
khách hàng, CTCK sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức cho khách hàng và đứng ra
làm dịch vụ nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng.
• Nghiệp vụ tín dụng: là hính thức cho vay ký quỹ (cấp tín dụng) của CTCK
cho khách hàng để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó là vật thế
chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cẩn ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do
CTCK ứng trước một phần tiền thanh toán. Tới kỳ hạn, khách hàng phải trả đầy đủ
số gốc cùng lãi vay cho CTCK. Trường hợp khách hàng không trả được nợ thì
CTCK sẽ phát mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ.
• Nghiệp vụ quản lý quỹ: ở một số TTCK, pháp luật về chứng khoán còn cho
phép các CTCK được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư. Theo đó, CTCK cử
đại diện của mình để quản lý và sử dụng vốn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư vào
chứng khoán. CTCK được phép thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư.
Ngoài các nghiệp vụ phụ trợ thì luật pháp Việt Nam chỉ cho phép các CTCK
được thực hiện bốn nghiệp vụ trên là nghiệp vụ môi giới, nghiệp vụ tự doanh,
nghiệp vụ bảo lãnh phát hành và nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán.
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
14
Chuyên đề tốt nghiệp
Tại các TTCK phát triển, các CTCK còn có thể thực hiện nghiệp vụ quản lý
danh mục đầu tư và nghiệp vụ phái sinh.
Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư là nghiệp vụ mà CTCK quản lý vốn ủy
thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm
sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng.
Quản lý danh mục đầu tư là một nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm
theo đầu tư, khách hàng ủy thác tiền cho CTCK thay mặt mình đầu tue theo một
chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp nhận.
Nghiệp vụ phái sinh là nghiệp vụ mà CTCK làm đại diện mua, bán cho khách
hàng hoặc kinh doanh các sản phẩm chứng khoán phái sinh. Chứng khoán phái sinh
(derivatives) là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như
cổ phiếu, trái phiếu, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi
nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các chứng khoán phái sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều
lần giá trị các các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, để đảm bảo rằng nếu
giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh
vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị
trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính, như quyền mua cổ phiếu,
chứng quyền, hợp đồng quyền chọn. Các công cụ phái sinh rất phong phú và đa
dạng, nhưng nhìn chung có bốn công cụ chính là hợp đồng kỳ hạn (Forwards), hợp
đồng tương lai (Futures), quyền chọn (Options) và hợp đồng hoán đổi (Swaps).
1.2. PHÁT TRIỂN CÔNG CỤ OPTIONS TẠI CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN
1.2.1. Khái quát về công cụ quyền chọn
1.2.1.1. Khái niện công cụ quyền chọn
Quyền chọn (Options) là một hợp đồng giữa hai bên: người mua và người
bán,trong đó
cho
người mua quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ, để mua hoặc
bán một tài sản nào đó vào một ngày
trong
tương lai với giá đã đồng ý vào một
ngày hôm nay. Người mua quyền chọn trả cho người bán một số tiền
gọi
là
phí
quyền chọn. Người bán quyền chọn sẵn sàng bán hoặc tiếp tục nắm giữ tài sản
theo các điều
khoản
của
hợp đồng nếu người mua muốn như vậy. Một quyền
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
15
Chuyên đề tốt nghiệp
chọn để mua tài sản gọi là quyền chọn mua.
Một
quyền chọn để bán tài sản gọi
là quyền chọn bán. Hầu hết các quyền chọn mà chúng ta quan tâm là
mua
hoặc
bán các tài sản tài chính chẳng hạn như cổ phiếu hoặc trái phiếu. Mặc dù vậy,
chúng ta cũng đề cập
đến
các quyền chọn trên hợp đồng giao sau, kim loại và
ngoại tệ. Nhiều loại thoả thuận tài chính khác chẳng
hạn
như hạn mức tín dụng, bảo
đảm khoản vay và bảo hiểm cũng là các hình thức khác nhau của quyền
chọn.
Ngoài
ra, chính bản thân cổ phiếu cũng là quyền chọn trên tài sản của công
ty.
Quyền chọn chứng khoán chọn là một hợp đồng được ký kết giữa một bên là
“người ký phát” và một bên là người
mua
hợp đồng, trong đó cho phép người
mua hợp đồng được quyền mua hoặc bán cho người ký phát hợp
đồng
một
số
lượng chứng khoán với một giá cả nhất định và trong một thời hạn quy định của
tương
lai.
Hợp đồng quyền lựa chọn cung cấp quyền cho người sở hữu nó chứ không
phải là nghĩa vụ mua
hoặc
bán. Vì vậy người chủ quyền lựa chọn có thể thực
hiện hoặc không thực hiện quyền trong thời hạn hiệu
lực
của hợp đồng quyền lựa
chọn. Nếu không muốn thực hiện quyền, người chủ của quyền có thể bán quyền
lựa
chọn đó trên TTCK, nghĩa là chuyển quyền sở hữu cho người chủ khác. Vì
vậy, hợp đồng quyền lựa
chọn
cũng
được xem là một loại chứng khoán của
TTCK. Trên thực tế người ta ít khi thực hiện hợp đồng call và
put
Options. Thay
vào đó, nhà đầu tư sẽ mua và bán hợp đồng quyền chọn khi đáo hạn, mua bán
dựa trên giá cả của
giá
phí mua quyền chọn tăng hay giảm. Bởi vì người mua
quyền chọn
chỉ bỏ ra một số tiền nhỏ (phí mua quyền chọn) để khống chế một số
lượng lớn CK, nên
mua
bán quyền chọn giúp họ có một đòn bẩy tài chính
(leverage) rất lớn có thể kiếm lợi nhuận khổng lồ. Người
mua
bán Options có
thể bán (viết hợp đồng-writer) hợp đồng quyền chọn có bảo kê, nghĩa là họ có
chứng khóan cơ
sở
(chứng khóan làm cơ sở cho hợp đồng) trong tay, hợp đồng
này có rủi ro rất lớn. Thông thường người mua
bán
quyền chọn hay mất phí mua
quyền chọn trên số mua bán không thành công trước khi đạt nhiều lợi nhuận.
Nhiều
nhà
mua bán(traders) khôn ngoan kết hợp nhiều loại hợp đồng call và put
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
16
Chuyên đề tốt nghiệp
Options theo cách “dàn trải” (spread)
hay
“hàng hai”, số lời hay lỗ của họ tùy
thuộc vào mức chênh lệch rộng hay hẹp của giá cả giữa các hợp
đồng
quyền chọn.
1.2.1.2. Các nhân tố cấu thành nên một quyền chọn
T: Thời gian đáo hạn
S
T:
Giá trị thị trường của tài sản cơ sở vào lúc đáo hạn.
X: Giá thực hiện
V
T
: giá trị nhận được của quyền chọn vào lúc đáo hạn
• Giá trị nhận được của quyền chọn mua vào lúc đáo hạn
• Mua quyền chọn mua: Vào lúc đáo hạn, nếu thực hiện quyền, người mua
sẽ mua tài sản cơ sở với giá X. Nếu mua trên thị trường , người mua sẽ trả với mức
giá S
T
Trường hợp S
T
>X: Thực hiện quyền, người mua sẽ mua tài sản cơ sở với giá
X, trong khi nếu mua trên thị trường thì phải mua với giá S
T
>X. Khoản lợi thu được
là S
T
-X>0. Như vậy nếu S
T
>X, người mua quyền chọn mua sẽ thực hiện quyền và
nhận được giá trị V
T
=S
T
– X
Trường hợp S
T
<=X. Nếu thực hiện quyền, người mua quyền chọn mua sẽ mua
tài sản cơ sở với giá X, trong khi hoàn toàn có thể ra thị trường để mua với giá S
T
<
X. Như vậy, nếu S
T
<=X, người mua quyền chọn sẽ không thực hiện quyền và sẽ
nhận được giá trị V
T
=0
Tóm lại giá trị nhận được đối với người mua quyền chọn mua vào lúc đáo hạn
là V
T
=max[(S
T
-X),0]
• Bán quyền chọn mua: Như đã trình bày, vào lúc đáo hạn , nếu S
T
> X
thì người mua quyền chọn mua sẽ thực hiện quyền , tức mua tài sản cơ sở. Trong
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
17
Chuyên đề tốt nghiệp
trường hợp đó, người bán quyền chọn mua sẽ phải bán tài sản cơ sở cho người mua
quyền ở mức giá X, trong khi lẽ ra có thể bán ra trên thị trường với giá S
T
. Người
bán quyền chọn mua bị lỗ một khoản là S
T
–X. Nếu S
T
<=X, người mua quyền chọn
mua sẽ không thực hiện quyền và như vậy giá trị nhận được vào lúc đáo hạn là V
T.
Tóm lại giá trị nhận được đối với người bán quyền chọn mua vào lúc đáo hạn là V
-
T
=min[(X-S
T
),0]
• Giá trị nhận được của quyền chọn bán vào lúc đáo hạn
• Mua quyền chọn bán: Vào lúc đáo hạn, nếu thực hiện quyền, người mua
quyền chọn bán sẽ bán tài sản cơ sở với giá X. Còn nếu bán trên thị trường thì sẽ
bán được với giá S
T.
Trường hợp S
T
>=X. Nếu thực hiện quyền, người mua quyền chọn bán sẽ bán
tài sản cơ sở với giá X. Còn nếu bán trên thị trường, thì sẽ bán được với giá là S
-
T
>=X. Như vậy nếu S
T
>=X người mua quyền chọn bán sẽ không thực hiện quyền và
nhận giá trị V
T
=0
Trường hợp S
T
<X. Nếu thực hiện quyền, người mua quyền chọn bán sẽ bán tài
sản cơ sở với giá X, trong khi ra thị trường thì phải bán với giá S
T
<X. Như vậy nếu
S
T
<X, người mua quyền chọn bán sẽ thực hiện quyền và nhận được giá trị V
T
=X- S
-
T.
Tóm lại, giá tại nhận được đối với người mua quyền chọn bán vào lúc đáo hạn là
V
T
=max [(X-S
T
);0].
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
18
Chuyên đề tốt nghiệp
• Bán quyền chọn bán:
Nếu S
T
>=X, người mua quyền chọn bán sẽ không thực hiện quyền và người
bán quyền chọn bán cũng nhận giá trị V
T
=0
Nếu S
T
<X, người mua quyền chọn bán sẽ thực hiện quyền và người bán quyền
chọn bán sẽ buộc phải mua tài sản cơ sở với giá X trong khi lẽ ra có thể mua trên thị
trường với giá S
T
. Như vậy nếu S
T
<X, người bán quyền chọn mua sẽ bị lỗ hay nhận
được giá trị V
T
=S
T
-X.
Tóm lại, giá trị nhận được đối với người bán quyền chọn bán vào lúc đáo hạn
là V
T
=min[(S
T
-X);0]
Đặc trưng của quyền chọn trên cổ phiếu
• Các yếu tố ảnh hưởng đến giá quyền chọn cổ phiếu
Có 6 yếu tố tác động đến giá quyền chọn cổ phiếu:
1. Giá cổ phiếu ở thời điểm hiện tại;
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
19
Chuyên đề tốt nghiệp
2. Giá thực hiện;
3. Khoảng thời gian từ thời điểm hiện tại cho đến khi đáo hạn quyền;
4. Độ bất ổn của giá cổ phiếu;
5. Lãi suất phi rủi ro;
6. Cổ tức kỳ vọng sẽ thanh toán trong khoảng thời gian quyền có hiệu lực;
Phân tích tác động tới giá quyền chọn khi thay đổi mỗi yếu tố kể trên trong
điều kiện các yếu tố còn lại không đổi. Kết quả chung được trình bày ở bảng sau.
Quyền chọn
mua Châu Âu
Quyền chọn
bán Châu Âu
Quyền chọn
mua kiểu Mỹ
Quyền chọn
bán kiểu Mỹ
Giá cổ phiếu + - + -
Giá thực hiện - + - +
Thời gian đáo hạn ? ? + +
Độ bất ổn + + + +
Lãi suất phi rủi ro + - + -
Cổ tức - + - +
• Giá cổ phiếu và giá thực hiện
Nếu một quyền chọn mua được thực hiện ở một thời điểm trong tương lai thì
khoản lợi nhuận thu được sẽ bằng khoảng lớn hơn của giá cổ phiếu so với giá thực
hiện. Do đó nếu giá cổ phiếu tăng thì giá của quyền chọn mua sẽ tăng và nếu giá
thực hiện tăng thì giá của quyền chọn mua sẽ giảm. Với một quyền chọn bán, lợi
nhuận thu về nếu quyền chọn được thực hiện sẽ bằng khoảng lớn hơn của giá thực
hiện so với giá cổ phiếu. Như thế giá quyền chọn bán sẽ tăng nếu như giá thực hiện
tăng và giảm nếu như giá cổ phiếu tăng.
• Thời gian đến lúc đáo hạn
Yếu tố này có tác động rõ ràng hơn đến quyền chọn kiểu Mỹ (cả mua và bán),
nếu như thời gian còn lại cho đến lúc đáo hạn càng dài thì giá của quyền chọn sẽ
càng cao. Xét với hai quyền chọn giống nhau về cá yếu tố khác ngoại trừ thời gian
cho đến ngày đáo hạn. Người sở hữu quyền chọn có thời gian dài hơn rõ ràng có
nhiều thời gian để lựa chọn thực hiện quyền hơn người sở hữu quyền chọn ngắn
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
20
Chuyên đề tốt nghiệp
hơn.
Với quyền chọn kiểu Châu Âu, thời gian đến ngày đáo hạn không thực sự có
ảnh hưởng đến giá quyền chọn do cả 2 quyền nói trên đều chỉ có thể thực hiện ở
thời cùng một thời điểm là ngày đáo hạn. Thậm chí trong nhiều trường hợp quyền
chọn ngắn hơn có thể có giá cao hơn, chẳng hạn như hai quyền chọn mua có chung
mọi đặc tính, một quyền sẽ đáo hạn trong 1 tháng nữa, quyền còn lại đáo hạn trong
2 tháng. Nếu cổ phiếu có trả cổ tức và thời điểm thanh toán là 6 tuần nữa, thì do tác
động của việc trả cổ tức, quyền chọn đáo hạn trong 1 tháng hơn sẽ có giá cao hơn.
• Độ bất ổn
Ở đây có thể hiểu đơn giản độ bất ổn là một thước đo mức độ không chắc chắn
của bản thân nhà đầu tư vào biến động trong tương lai của giá cổ phiếu. Độ bất ổn
càng cao thì khả năng giá cổ phiếu có thể lên rất cao hoặc xuống rất thấp cũng tăng
cao. Người sở hữu cổ phiếu có thể coi hai xu hướng này “triệt tiêu” lẫn nhau và
không quá lo lắng. Tuy nhiên người sở hữu quyền mua hay quyền bán thì không
như vậy. Người sở hữu quyền mua sẽ có lợi nếu như giá cổ phiếu tăng lên nhưng họ
chỉ phải chịu rủi ro có giới hạn nếu giá giảm, mức lỗ cao nhất họ phải chịu chính
bằng giá của quyền mua. Với người sở hữu quyền bán, họ sẽ có lợi nếu như giá của
cổ phiếu giảm mạnh và họ chỉ phải chịu rủi ro có giới hạn nếu giá tăng, lỗ cao nhất
phải chịu cũng chính là giá của quyền mua. Vì lý do này, giá của quyền chọn mua
và quyền chọn bán sẽ tăng cao nếu như độ bất ổn của cổ phiếu tăng.
• Lãi suất phi rủi ro
Tác động của lãi suất phi rủi ro đến giá của quyền chọn cổ phiếu không thực
sự rõ ràng như những trường hợp trước. Khi lãi suất phi rủi ro trong nền kinh tế
tăng tỉ lệ tăng trưởng kỳ vọng với giá cổ phiếu cũng sẽ có xu hướng tăng. Đồng thời
giá trị hiện tại của các dòng tiền mà nhà đầu tư kỳ vọng sẽ nhận được trong tương
lai sẽ giảm. Hai tác động này đều có xu hướng làm giảm giá của quyền chọn bán.
Do đó giá quyền chọn bán có xu thế giảm khi lãi suất phi rủi ro trên thị trường tăng.
Với quyền chọn mua, tác động đầu tiên có xu thế làm tăng giá quyền nhưng tác
động thứ hai lại có xu thế làm giảm giá quyền. Tuy nhiên tác động thứ nhất luôn lấn
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
21
Chuyên đề tốt nghiệp
át tác động thứ 2 do đó khi lãi suất phi rủi ro tăng thì giá quyền chọn bán cũng tăng.
Cần nhấn mạnh lại những tác động kể trên chỉ được nghiên cứu trong tình
huống các yếu tố khác không đổi, điều này là không có thực đặc biệt khi một nhân
tố quan trọng trong nền kinh tế là lãi suất phi rủi ro thay đổi. Thực tế cho thấy giá
cổ phiếu có xu thế biến động ngược chiều với biến động của lãi lãi suất phi rủi ro.
Tác động cộng gộp của lãi suất và giá có thể mang đến những kết quả rất khác.
• Cổ tức
Cổ tức làm cho giá cổ phiếu giảm xuống trong ngày giao dịch không hưởng
quyền. Đây là thông tin “xấu” với giá của quyền chọn mua và là thông tin “tốt” với
giá của quyền chọn bán. Như thế giá của quyền chọn mua có tương quan ngược
chiều và giá quyền chọn mua có tương quan cùng chiều với những dự báo về quy
mô trả cổ tức.
1.2.1.3. Phân loại
Có hai loại quyền chọn:
• Quyền chọn mua trao cho người mua (người nắm giữ) quyền nhưng không
phải là nghĩa vụ được mua một tài sản cơ sở vào một thời điểm hay trước một thời
điểm trong tương lai với một mức giá xác định.
• Quyền chọn bán trao cho người mua (người nắm giữ) quyền, nhưng không
phải là nghĩa vụ được bán một tài sản cơ sở vào một thời điểm hay trước một thời
điểm trong tương lai với một mức giá xác định.
Đối với quyền chọn mua, ta có người mua quyền chọn mua (holder) và người
bán quyền chọn mua (writer). Đối với quyền chọn bán, ta cũng có người mua quyền
chọn bán và người bán quyền chọn bán.
Một cách phân loại khác là chia quyền chọn thành quyền chọn kiểu Châu Âu
(European options) và kiểu Mỹ (American options)
• Quyền chọn kiểu châu Âu (European options) là loại quyền chọn chỉ được
thực hiện vào ngày đáo hạn chứ không được thực hiện vào ngày trước đó.
• Quyền chọn kiểu Mỹ (American options) là loại quyền chọn nào có thể được
thực hiện vào bất cứ thời điểm nào trước khi đáo hạn.
Quyền chọn có thể được dựa vào các tài sản cơ sở như cổ phiếu , chỉ số cổ
phiếu, trái phiếu, lãi suất, ngoại hối, kim loại quý hay nông sản. Nhưng nhìn chung
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
22
Chuyên đề tốt nghiệp
nếu phân loại theo tài sản cơ sở thì có thể chia quyền chọn thành quyền chọn trên
thị trường hàng hoá, quyền chọn trên thị trường tài chính và quyền chọn trên thị
trường ngoại hối.
1.2.2. Khái niệm phát triển công cụ quyền chọn
Theo Triết học Mac–Lenin, phát triển là khuynh hướng vận động đã xác định
về hướng của sự vật: hướng đi lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn Nhưng nếu hiểu sự vận động phát triển một cách biện chứng toàn diện,
sâu sắc thì trong tự bản thân sự vận động phát triển đã bao hàm sự vận động thụt
lùi, đi xuống với nghĩa là tiền đề, điều kiện cho sự vận động đi lên, hoàn thiện.
Ý nghĩa của nguyên lí này đòi hỏi: trong khi xem xét, đánh giá sự vật, hiện
tượng phải tôn trọng nguyên tắc phát triển của chúng, không được thành kiến định
kiến Luôn lạc quan tin tưởng vào khuynh hướng vận động của sự vật, tạo mọi
điều kiện để sự vật phát triển
Theo đó, phát triển công cụ quyền chọn bao gồm các hoạt động hình, thúc đẩy
và tăng cường hơn nữa sản phẩm quyền chọn chứng khoán, là công cụ giảm thiểu
rủi ro cho các NĐT, từ đó tác động tới sự phát triển chung của TTCK.
1.2.3. Sự cần thiết phải phát triển công cụ Options tại công ty chứng
khoán
1.2.3.1. Quyền chọn là công cụ bảo vệ NĐT
Việc nghiên cứu áp dụng các sản phẩm option sẽ tạo ra công cụ để bảo vệ các
nhà đầu tư trước các rủi ro về sự biến động về giá
Như đã trình bày trong phần 1.2.1.2, quyền chọn giúp linh hoạt trong việc
phòng ngừa rủi ro.Khi nhà đầu tư có dự định mua chứng khoán và kỳ vọng giá của
chứng khoán đó sẽ tăng lên trong tương lai thì họ sẽ phòng ngừa rủi ro bằng cách
mua một quyền chọn mua. Đến thời điểm đáo hạn của hợp đồng quyền chọn, nếu
giá chứng khoán lên cao như dự đoán thì người sở hữu quyền chọn sẽ thực hiện
hợp đồng và mua chứng khoán theo giá đã thoả thuận tại tời điểm ký hợp đồng.
Điều này sẽ có lợi hơn so với phải mua theo giá hiện tại trên thị trường, khoản lãi
này là không giới hạn tuỳ thuộc vào sự chênh lệch giữa giá chứng khoán hiện tại và
giá chốt trên hợp đồng.
Ngược lại khi nhà đầu tư đang sở hữu chứng khoán và họ dự đoán trong tương
Đặng Thị Kim Thoa Lớp: Thị trường chứng khoán 49
23