LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang có những bước phát
triển vượt bậc. Sự phát triển này được đánh dấu bằng sự kiện Việt Nam ra nhập
tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2007. Sự phát triển của nền kinh tế đã tạo
ra lợi thể to lớn cho các Doanh nghiệp trong nước, nhưng cùng với những lợi thế
đó thì những thách thức các Doanh nghiệp gặp phải là không nhỏ. Nền kinh tế
mở cửa tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp trong nước có cơ hội hợp tác thương
mại với các Doanh nghiệp thuộc các quốc gia trên thế giới, sự cạnh tranh giữa
các Doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, giữa hàng sản xuất trong nước và
hàng nhập ngoại ngày càng gay gắt. Môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt
đòi hỏi các Doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện về mọi mặt.
Hoạt động có hiệu quả và tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh là
điều kiện quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp, để đảm bảo
Doanh nghiệp không chỉ hoạt động có hiệu quả mà còn nâng cao đời sống cán bộ
nhân viên và hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước. Hiệu quả hoạt động là mục tiêu
quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Một trong
những nhân tố quan trọng tác động lớn đến kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của Doanh nghiệp là “ Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động”.
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động đảm bảo cho hoạt động thường xuyên của
Doanh nghiệp, bảo hiểm cho Doanh nghiệp. Trong một Doanh nghiệp vốn được
tài trợ cho tài sản lưu động và tài sản cố định, tỷ lệ tài trợ phụ thuộc vào loại
hình kinh doanh của Doanh nghiệp. Công ty cổ phần thương mại dược phẩm
Quốc tế là một Doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thương mại do đó vốn
được tài trợ chủ yếu cho tài sản lưu động, nguồn tài trợ cho tài sản cố định chỉ
chiếm một tỷ lệ nhỏ. Và do đó việc sủ dụng và quản lý tốt vốn đầu tư vào tài sản
lưu động của các Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại nói chung
và cuả Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế nói riêng có vai trò hết
sức quan trọng. Mặt khác, thuốc là một loại hàng hoá đặc thù, có chu kỳ tiêu thụ
khác với các loại hàng hoá thông thường, thời gian thu hồi nợ từ khách hàng
1
trung bình là ba tháng. Khi sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay thì kỳ
thu tiền bình quân cần phải rút ngắn tối đa, bên cạnh đó một số chỉ tiêu như vòng
quay của hàng tồn kho, hiệu suất sử dụng nguồn vốn đầu tư vào tài sản lưu động,
vòng quay của tiền… cũng phải được rút ngắn nhằm làm tăng hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Qua thực tế tìm hiểu và nghiên cứu tại công ty
Cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế, em đã chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của công ty Cổ phần thương mại dược
phẩm Quốc tế”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm 3
chương.
Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả quản lý vốn đầu tư vào tài sản lưu
động trong hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động
của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản
lưu động của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế.
2
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ
VÀO TÀI SẢN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm về Doanh nghiệp
Theo luật Doanh nghiệp số 13/1999/QH10 ngày 12 tháng 6 năm 1999:
“Doanh nghiệp” là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản ổn định, có trụ sở
giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của Pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Doanh nghiệp là một chủ thể độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động
kinh doanh trên thị trường làm tăng giá trị của chủ sở hữu. Doanh nghiệp là một
cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân. Có nhiều hoạt động kinh
tế chỉ có thể thực hiện được bởi các Doanh nghiệp chứ không phải các cá nhân.
Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của
quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên
thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Theo quy định của Pháp luật, Doanh nghiệp được tự chủ đăng ký và thực
hiện kinh doanh các ngành nghề được Pháp luật cho phép. Đối với Doanh nghiệp
kinh doanh các ngành, nghề mà luật, pháp lệnh hoặc nghị định quy định phải có
điều kiện thì Doanh nghiệp chỉ được kinh doanh các ngành nghề đó khi có đủ
các điều kiện quy theo định. Đối với Doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề
mà luật, pháp lệnh hoặc nghị định đòi hỏi phải có vốn pháp định hoặc chứng chỉ
hành nghề thì Doanh nghiệp chỉ được đăng ký kinh doanh khi có đủ vốn hoặc
chứng chỉ hành nghề theo quy định của Pháp luật.
Mỗi Doanh nghiệp đều có những quyền và phải thực hiện những nghĩa vụ
theo quy định của Pháp luật.
3
1.1.2 Vốn của Doanh nghiệp
Vốn là điều kiện không thể thiếu để một Doanh nghiệp được thành lập và
tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trong mọi loại hình Doanh nghiệp
vốn phản ánh nguồn lực chính để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Để sản xuất,
tiêu thụ một loại hàng hoá nào đó, Doanh nghiệp thuê nhà quản lý mua sắm các
yếu tố vật chất cần thiết như máy móc, thiết bị, dự trữ, đất đai và lao động. Điều
đó có nghĩa là Doanh nghiệp đã đầu tư vào các tài sản. Để đầu tư vào các tài sản
Doanh nghiệp phải có vốn. Có thể hiểu vốn là lượng tiền ứng trước thoả mãn các
yếu tố đầu vào của Doanh nghiệp. Trong mỗi Doanh nghiệp, vốn đều bao gồm
hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và vốn vay, mỗi bộ phận này được cấu thành bởi
nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của chúng.
Vốn kinh doanh của Doanh nghiệp là toàn bộ nguồn vốn đầu tư vào tài
sản của Doanh nghiệp, bao gồm nguồn vốn đầu tư vào tài sản cố định và tài sản
lưu động. Với mỗi loại hình Doanh nghiệp khác nhau thì cơ cấu vốn đầu tư vào
hai loại tài sản này là khác nhau. Đối với các Doanh nghiệp sản xuất thì vốn đầu
tư vào tài sản cố định chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn, đối với các
Doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thương mại thì tỷ trọng vốn đầu tư vào
tài sản lưu động lại lớn hơn.
Cách thức huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi
Doanh nghiệp là hết sức đa dạng. Vốn của Doanh nghiệp được hình thành từ khi
thành lập Doanh nghiệp và Doanh nghiệp sử dụng vốn để đầu tư và quá trình sản
xuất kinh doanh của đơn vị mình nhằm tạo ra doanh thu. Số vốn này sẽ không
ngừng được bổ sung trong quá trình Doanh nghiệp hoạt động.
1.1.3 Phân loại vốn của Doanh nghiệp
Căn cứ theo những góc độ nghiên cứu khác nhau vốn được phân loại như
sau.
1.1.3.1 Phân loại theo góc độ quản lý của Nhà nước
Theo cách phân loại này vốn gồm vốn pháp định và vốn điều lệ.
a. Vốn pháp định: là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp
luật để thành lập Doanh nghiệp và được quy định khác nhau đối với từng loại
4
hình Doanh nghiệp. Để được thành lập Doanh nghiệp phải có đủ số vốn pháp
định theo yêu quy định của pháp luật.
b. Vốn điều lệ: của Doanh nghiệp là số vốn được ghi trong điều lệ của
Doanh nghiệp, số vốn này do các chủ sở hữu góp. Vốn điều lệ không ít hơn vốn
pháp định.
1.1.3.2 Phân loại theo nguồn gốc hình thành vốn
Phân loại vốn theo nguồn gốc hình thành thì vốn gồm vốn chủ sở hữu và
vốn vay.
a. Vốn chủ sở hữu của Doanh nghiệp
Đối với mọi loại hình Doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu của Doanh nghiệp
bao gồm ba bộ phận chủ yếu:
- Vốn góp ban đầu
- Lợi nhuận không chia
- Tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới
Vốn góp ban đầu:
Khi Doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ Doanh nghiệp cũng phải
có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông - chủ sở hữu góp. Khi nói đến
nguồn vốn chủ sở hữu của Doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở
hữu của Doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình
thức tạo vốn của bản thân Doanh nghiệp.
Đối với Doanh nghiệp Nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của
Nhà nước. Chủ sở hữu của các Doanh nghiêp Nhà nước là Nhà nước. Đối với
công ty cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định để thành lập
công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chịu trách nhiêm hữu hạn
trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ.
Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia
Quy mô số vốn ban đầu của chủ Doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng,
tuy nhiên, thông thường, số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của
Doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu Doanh
nghiệp hoạt động có hiệu quả thì Doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi
5
để tăng trưởng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là bộ
phận lợi nhuận được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của
Doanh nghiệp. Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện
được nếu như Doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép
tiếp tục đầu tư. Đối với các Doanh nghiệp Nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc
không chỉ và khả năng sinh lời của bản thân Doanh nghiệp mà còn phụ thuộc
vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước.
Phát hành cổ phiếu mới
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, Doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ
sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Một nguồn tài chính dài hạn rất quan
trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho Doanh nghiệp. Phát hành cổ
phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của Doanh nghiệp.
b. Nguồn vốn vay
Để bổ sung vốn trong quá trình kinh doanh Doanh nghiệp có thể sử dụng
nợ từ các nguồn: tín dụng Ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua
phát hành trái phiếu.
Nguồn vốn tín dụng Ngân hàng và tín dụng thương mại
Có thể nói rằng vốn vay Ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan
trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân Doanh nghiệp mà còn
đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các Doanh
nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các Ngân hàng thương mại cung
cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn. Không một Doanh nghiệp nào
không vay vốn Ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu Doanh
nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt động
các Doanh nghiệp thường vay Ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là có đủ vốn cho các dự án mở rộng
hoặc đầu tư chiều sâu của Doanh nghiệp.
Các Doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại
hay còn gọi là tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này hình thành một cách
tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn
6
tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ đối với các Doanh
nghiệp mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong một sô Doanh nghiệp nguồn
vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20%
tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng nguồn vốn.
Tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ,
tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh; hơn nữa, nó còn tạo khả năng mở rộng
các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền.
Phát hành trái phiếu công ty
Trái phiếu là tên chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn. Trước
khi phát hành trái phiếu Doanh nghiệp cần xem xét loại trái phiếu nào phù hợp
với nhất với điều kiện cụ thể của Doanh nghiệp và tình hình trên thị trường tài
chính. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến
chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu.
1.1.3.3 Phân loại theo tính chất luân chuyển vốn
Hiện nay, theo cách phân loại này các Doanh nghiệp phân loại vốn chủ
yếu làm hai loại là vốn đầu tư vào tài sản cố định và vốn đầu tư vào tài sản lưu
động.
a. Vốn đầu tư vào tài sản cố định của Doanh nghiệp
“ Vốn đầu tư vào tài sản cố định ” là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài
sản cố định trong Doanh nghiệp.
Căn cứ vào tính chất và vai trò tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản
xuất của Doanh nghiệp được chia thành hai bộ phận là tư liệu lao động và đối
tượng lao động. Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu mà nó có đặc
điểm cơ bản là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, hình thái vật chất không thay
đổi từ chu kỳ sản xuất đầu tiên đến khi bị sa thải ra khỏi quá trình sản xuất. Mọi
tư liệu lao động là từng tài sản hữu hình có kết cấu độc lập, hoặc là một hệ thống
gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau để cùng thực hiện một hay
một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong đó thì cả
hệ thống không thể hoạt động được. Những tư liệu được coi là tài sản cố định
khi thoả mãn đồng thời hai tiêu chuẩn sau:
7
Tiêu chuẩn về thời gian: có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên
Tiêu chuẩn giá trị: Ở nước ta hiện nay tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng
trở lên.
Trong điều kiện tiến bộ khoa học- kỹ thuật như hiện nay, khi mà khoa học
đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì khái niệm về tài sản cố định cũng
được mở rộng, nó bao gồm cả những tài sản cố định không có hình thái vật chất,
gồm chi phí thành lập Doanh nghiệp, chi phí về bằng phát minh sáng chế, chi phí
về lợi thế kinh doanh…
Trong quá trình sử dụng tài sản cố định bị hao mòn dần, đó là sự giảm dần
về giá trị của tài sản cố định. Do tài sản cố định bị hao mòn nên trong mỗi chu
kỳ sản xuất người ta tính chuyển một phần giá trị tương đương với phần hao
mòn vào giá trị thành phẩm, khi sản phẩm được tiêu thụ bộ phận tiền này được
trích lại thành một quỹ nhằm để tái sản xuất tài sản cố định, còn gọi là khấu hao
tài sản cố định.
Trong Doanh nghiệp thương mại vốn đầu tư vào tài sản cố định thường
chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn.
b. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp
Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu
kỳ sản xuât, đến chu kỳ sản xuất sau phải sử dụng các đối tượng lao động khác.
Tài sản lưu động là những tái sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong
quá trình kinh doanh. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động được dùng để chỉ tài sản
lưu động của Doanh nghiệp.
1.1.4 Vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp
1.1.4.1 Khái niệm vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp
a Khái niệm
Lượng tiền ứng trước thoả mãn nhu cầu về các đối tượng lao động gọi là
vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp.
Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu
kỳ sản xuất, đến chu kỳ sản xuất sau lại phải sử dụng các đối tượng lao động
khác. Phần lớn các đối tượng lao động thông qua quá trình chế biến để hợp thành
8
thực thể của sản phẩm. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động được dùng để chỉ tài sản
lưu động trong Doanh nghiệp. Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và
thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh. Vốn kinh doanh của
Doanh nghiệp bao gồm vốn cố định và vốn lưu động, như vậy vốn lưu động là
giá trị còn lại của vốn kinh doanh sau khi đã trừ đi vốn cố định.
Trên bảng cân đối kế toán vốn đầu tư vào tài sản lưu động được thể hiện ở
các bộ phận tiền mặt, các chứng khoán thanh khoản cao, phải thu và dự trữ tồn
kho.
Các khoản mục trong phần vốn đầu tư vào tài sản lưu động trên bảng cân
đối kế toán:
Tiền: bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển. Đây
là loại có tính thanh khoản cao nhất.
Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: là các khoản đầu tư tài chính ngắn
hạn, góp vốn liên doanh, cho vay vốn… có thời hạn thu hồi không quá một năm.
Khoản này có tính lưu động mạnh thứ hai sau tiền.
Các khoản phải thu: là những khoản tiền mà khách hàng và những bên
liên quan đang nợ Doanh nghiệp tại thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Các
khoản này sẽ được trả trong thời hạn ngắn. Khoản mục thuế giá trị gia tăng được
khấu trừ cũng là tài sản lưu động của Doanh nghiệp vì chỉ tiêu này phản ánh số
thuế giá trị gia tăng còn được khấu trừ và số thuế giá trị gia tăng được cơ quan
có thẩm quyền chấp nhận hoàn lại nhưng chưa hoàn lại.
Hàng tồn kho: bao gồm vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá trong kho,
hàng gửi bán, hàng đang đi đường, sản phẩm dở dang… Những tài sản này có
thời gian luân chuyển ngắn, thường không quá một năm nên được xếp vào tài
sản lưu động.
Tài sản lưu động khác: bao gồm các khoản tạm ứng, chi phí trả trước, chi
phí chờ kết chuyển, tài sản thiếu chờ xử lý, các khoản thế chấp, ký quỹ, ký cược
ngắn hạn. Nguyên tắc cơ bản của quản lý tài chính là Doanh nghiệp phải dùng
nguồn vốn dài hạn để hình thành tài sản cố định. Điều đó sẽ đảm bảo rằng các tài
sản cố định sẽ được sử dụng trong thời gian dài hơn một năm trong Doanh
9
nghiệp. Đầy cũng là điều kiện để thời gian sử dụng của tài sản cố định và nguồn
hình thành phù hợp với nhau. Tương tự như vậy, tài sản lưu động của Doanh
nghiệp phải được hình thành từ nguồn vốn ngắn hạn. Cách tài trợ này giúp cho
Doanh nghiệp có được sự ổn định, an toàn về mặt tài chính.
Trong thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh, các giao dịch tài chính
không phải lúc nào cũng diễn ra theo nguyên tắc đó. Chính vì vậy có thể xuất
hiện sự chênh lệch giữa các nguồn vốn và các tài sản có cùng tính chất thời gian
sử dụng. Khoản chênh lệch đó chính là vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường
xuyên.
b Nguồn hình thành vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động có thể được hình thành từ các nguồn như
vốn tự có, vốn vay dài hạn.
Nguồn vốn chủ sở hữu có thể do Nhà nước cấp ( đối với Doanh nghiệp
Nhà nước), vốn góp, vốn liên doanh, lợi nhuận để lại …
Vốn vay dài hạn và ngắn hạn từ các tổ chức tín dụng, từ phát hành cổ
phiếu, trái phiếu …
c Phân loại vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp
- Vốn bằng tiền và các khoản phải thu bao gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền
đang chuyển, các chứng khoán thanh khoản cao có thể nhanh chóng chuyển
thành tiền, các khoản phải thu gồm tiền phải thu từ khách hàng khi cung cấp
hàng hoá, dịch vụ, các khoản ứng trước cho nhà cung cấp
- Vốn bằng hiện vật ( hàng tồn kho) bao gồm tất cả nguyên liệu, vật liệu,
nhiên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất, hàng mua đang đi đường, thành phẩm
trong kho…
1.1.4.2 Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên là giá trị chênh lệch giữa
vốn dài hạn và vốn đầu tư vào tài sản cố định hoặc giữa vốn đầu tư vào tài sản
lưu động với nợ ngắn hạn.
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên = vốn dài hạn- vốn đầu tư
vào tài sản cố định
10
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên = vốn đầu tư vào tài sản
lưu động - nợ ngắn hạn
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên có thể nhận các giá trị sau:
- Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên > 0
Vốn dài hạn > vốn đầu tư vào tài sản cố định
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động > nợ ngắn hạn
Trong trường hợp này việc tài trợ từ các nguồn vốn là tốt. Toàn bộ tài sản
cố định được tài trợ từ nguồn vốn dài hạn, có nghĩa là một cách ổn định, Doanh
nghiệp không những đủ vốn tài trợ cho các tài sản cố định của mình mà còn thừa
để tài tài trợ cho các nhu cầu ngắn hạn. Đồng thời khi vốn đầu tư vào tài sản lưu
động thường xuyên dương cũng có nghĩa là tổng tài sản lưu động lớn hơn nợ
ngắn hạn. Điều đó chứng tỏ Doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt, có thể
trang trải được các khoản nợ ngắn hạn với tài sản quay vòng nhanh.
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên < 0
Vốn dài hạn < vốn đầu tư vào tài sản cố định
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động < nợ ngắn hạn
Trong trường hợp này, tài sản cố định lớn hơn nguồn vốn dài hạn. Điều
này có nghĩa rằng Doanh nghiệp đã dùng nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho đầu
tư dài hạn. Điều này khá nguy hiểm bởi khi hết hạn vay thì phải tìm ra nguồn
vốn khác để thay thế. Đây chỉ là một giải pháp tình thế. Nếu điều này xảy ra liên
tục thì sự tồn tại của Doanh nghiệp bị đe doạ, Doanh nghiệp có thể bị đẩy tới giải
pháp là bán tài sản cố định hay là thanh lý. Đồng thời khi vốn đầu tư vào tài sản
lưu động thường xuyên âm thì khả năng thanh toán của Doanh nghiệp là rất kém,
bởi vì chỉ có tài sản lưu động mới có thể chuyển đổi thành tiền trong thời gian
ngắn để trả nợ, trong khi đó tài sản lưu động lại nhỏ hơn nợ ngắn hạn.
Các Doanh nghiệp đang phát triển mạnh là một tình huống đáng chú ý.
Trong quá trình phát triển Doanh nghiệp đầu tư, tài sản cố định tăng mạnh.
Trong một khoảng thời gian nào đó, tài sản cố định có thể tăng nhanh hơn nguồn
vốn dài hạn. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên có thể âm. Nếu trong
đà phát triển, Doanh nghiệp sinh ra lợi nhuận hoặc huy động được thêm vốn dài
11
hạn, thì đây chỉ là một hiện tượng tức thời không đáng ngại. Vì vốn dài hạn sẽ
dần dần tăng lên bằng mức tài sản cố định, và vốn đầu tư vào tài sản lưu động
thường xuyên trở thanh dương. Ta thấy rằng sự phát triển có thể mang tới sự bất
ổn định tài chính, do đó, phải phân tích và theo dõi chặt chẽ để có những biện
pháp điều chỉnh nếu cần.
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên = 0
Vốn dài hạn = vốn đầu tư vào tài sản cố định
Vốn đầu tư vào tài sản lưu đông = nợ ngắn hạn
Tình hình tài chính như vậy là tương đối lành mạnh. Nguồn vốn dài hạn
đủ để tài trợ cho tài sản cố định. Còn tài sản lưu động đủ để trang trải các khoản
nợ ngắn hạn.
Việc phân tích vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên có ý nghĩa
rất quan trọng. Đó là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chính sách tài trợ của
Doanh nghiệp đối với các hoạt động phát sinh trong kỳ. Vốn đầu tư vào tài sản
lưu động thường xuyên dương là một dấu hiệu an toàn và vững chắc đối với sự
tài trợ của Doanh nghiêp.
Khi phân tích chỉ tiêu này ta phân tích các biến động theo thời gian của
vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên.
Các nguyên nhân gây ra các biến động đó:
Việc tăng vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên có thể là do tăng
vốn tự có, điều này là rất tốt. Điều đó có nghĩa rằng Doanh nghiệp hoạt động thu
được lợi nhuận hay huy động được thêm vốn từ bên ngoài.
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên tăng do vay nợ gia tăng,
điều này có thể là không tốt nếu khoản nợ lớn hơn vốn tự có và nhất là nếu
Doanh nghiệp không có khả năng hoàn trả.
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên cũng có thể tăng nếu tài
sản cố định giảm hoặc Doanh nghiệp ngừng đầu tư dài hạn. Điều này không thể
coi là tích cực. Bỏi vì giảm tài sản cố định có nghĩa là Doanh nghiệp buộc phải
bán một phần cơ sở vật chất của mình để giảm quy mô kinh doanh. Tình trạng
này chưa thể coi là tốt đựơc.
12
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu cốt yếu
trong phân tích và quản lý tài chính. Theo nguyên tắc, chỉ tiêu này phải dương, ít
nhất là bằng 0. Như vậy là tài sản cố định được hình thành một cách ổn định từ
các nguồn vốn dài hạn và tài sản lưu động lớn hơn hoặc ít nhất là bằng nợ ngắn
hạn, bảo đảm khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của Doanh nghiệp.
1.1.4.3 Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên
Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn
hạn Doanh nghiệp cần để tài trợ cho bộ phận tài sản lưu động không phải là tiền,
đó là hai khoản mục hàng tồn kho và các khoản phải thu.
Vốn đàu tư vào tài sản lưu động = nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu
động thường xuyên + vốn bằng tiền
Vốn bằng tiền = vốn đầu tư vào tài sản lưu động – nhu cầu vốn đầu tư vào
tài sản lưu động thường xuyên
Vốn dài hạn > tài sản cố định => vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường
xuyên > 0
Tài sản cố định > vốn dài hạn => vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường
xuyên < 0
Tài sản lưu động > vốn ngắn hạn => nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu
động thường xuyên > 0
Tài sản lưu động < vốn ngắn hạn => nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu
động thường xuyên < 0
Để hình thành hàng tồn kho và các khoản phải thu, Doanh nghiệp cần
vốn. Đây là các khoản sử dụng ngắn hạn ( trong một thời gian ngắn, các khoản
này sẽ quay trở lại hình thức vốn bằng tiền khi khách hàng thanh toán). Phải có
vốn để mua nguyên vật liệu, trong quá trình sản xuất phải trả lương nhân công,
chi phí về năng lượng, bảo quản máy móc. Khi có thành phẩm phải chi tiêu cho
việc lưu kho, lúc tiêu thụ sản phẩm nhiều khi phải cho khách nợ. Các nhà quản
lý đều nhằm mục tiêu giảm tới mức tối thiểu nhu cầu vốn. Mục tiêu đạt được
thông qua cách quản lý tồn kho, cách quản lý sản xuất, chính sách thương mại,
và hành chính. Mục tiêu giảm nhu cầu vốn cũng đạt được thông qua cách quản lý
13
tài chính của Doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải cố tìm được những nguồn vốn từ
bên ngoài, vay các nhà cung cấp, nợ thuế Nhà nước, yêu cầu khách mua hàng
ứng tiền trước. Các khoản nợ ngắn hạn này sẽ giúp giảm nhu cầu vốn của Doanh
nghiệp.
Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên được biểu diễn
trong sơ đồ sau:
Chu kỳ sản xuất kinh doanh
Nhu cầu vốn nguồn vốn
phải thu
tồn kho
nợ ngắn hạn
Nhu cầu vốn đầu tư
vào tài sản lưu động
thường xuyên
Sơ đồ nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên
Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên được tính như sau:
Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên = ( tồn kho +
khoản phải thu) - nợ ngắn hạn
Trong thực tế có thể xảy ra các trường hợp sau :
Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên < 0
Tức là khoản tồn kho và các khoản phải thu nhỏ hơn nợ ngắn hạn. Chính
vì vậy các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài dư thừa và bù đắp đủ cho các sử
dụng ngắn hạn của Doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần vốn để tài trợ cho
chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Phải thu
tồn kho
20
nợ ngắn hạn
40
14
Nhu cầu vốn đầu tư vào
tài sản lưu động thường
xuyên
- 20
Sơ đồ nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên âm
Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên âm có thể xảy ra
đối với các Doanh nghiệp sản xuất sau khi khách hàng đặt hàng và đặt cọc trước.
Các Doanh nghiệp này hoạt động với vốn khách hàng ứng ra trước. Nhu cầu vốn
đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên âm là một tình trạng rất tốt đối với
Doanh nghiệp, với ý nghĩa là Doanh nghiệp được các chủ nợ ngắn hạn cung cấp
vốn cần thiết cho chu kỳ sản xuất kinh doanh. Tình trạng này không phải ngành
nào, Doanh nghiệp nào cũng đạt được. Yếu tố quyết định là các thói quen về
thanh toán trong các ngành, nghề, tính chất của những mối quan hệ thương mại.
Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên > 0
Tức là tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn.
Phải thu
Tồn kho
40
Nợ ngắn hạn
15
Nhu cầu vốn đầu tư vào tài
sản lưu động thường xuyên
+ 25
Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên dương
Trong trường hợp này các sử dụng ngắn hạn của Doanh nghiệp lớn hơn
các nguồn vốn ngắn hạn mà Doanh nghiệp có từ bên ngoài. Vì vậy Doanh
nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho phần chênh lệch.
15
Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên dương của các
Doanh nghiệp phụ thuộc vào ngành hoạt động và tình hình kinh tế chung của nền
kinh tê. Để giảm nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên biện
pháp tích cực nhất là giải phóng tồn kho và giảm các khoản phải thu.
1.1.4.4 Mối quan hệ giữa vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên và nhu
cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên.
Việc so sánh giữa vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên và nhu
cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên có ý nghĩa rất quan trọng cho
việc đánh giá tình hình tái chính của Doanh nghiệp. Nhu cầu vốn đầu tư vào tài
sản lưu động thường xuyên dương có nghĩa là Doanh nghiệp cần vốn để tài trợ
chu kỳ sản xuất kinh doanh vì nợ ngắn hạn không đủ cho những sử dụng ngắn
hạn. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên sẽ dùng để đáp ứng nhu cầu
đó.
Với giả định ban đầu là vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên
dương, tài sản cố định được tài trợ bằng vốn dài hạn. Về phần tài sản cố định
tình trạng tài chính lành mạnh, ổn định.
16
Trường hợp 1
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên = 3
Tiền
tồn kho
5
phải thu
nợ ngắn hạn
3
Nhu cầu vốn đầu tư vào
tài sản lưu động thường
xuyên
vốn đầu tư vào tái sản
lưu động thường xuyên
3
Tài sản cố định
vốn dài hạn
6
Trong trương hợp này tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn.
Như vậy sử dụng ngắn hạn lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà Doanh nghiệp
có thể huy động được, nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên là
+2. Để tài trợ cho phần chênh lệch này Doanh nghiệp cần phải sử dụng vốn đầu
tư vào tài sản lưu động thường xuyên nghĩa là phần vốn dài hạn không dùng để
tài trợ cho tài sản cố định. Trong trường hợp này vốn đầu tư vào tài sản lưu động
thường xuyên bằng 3 ( vốn dài hạn 6 – tài sản cố định 3 = 3), đủ để bù đắp cho
nhu cầu trên. Còn lại (3-2=1) là phần nguồn vốn mà Doanh nghiệp không sử
dụng tới, có hình thức vốn bằng tiền để trong ngân quỹ. Như vậy vốn đầu tư vào
tài sản lưu động thường xuyên của Doanh nghiệp không những đáp ứng đủ nhu
cầu về vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên mà còn dư tiền trong quỹ.
Đối với những Doanh nghiệp có nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động
thường xuyên dương một cách thường trực thì vốn dài hạn không những phải tài
trợ tài sản cố định mà còn phải tài trợ một phần các sử dụng ngắn hạn. Do đó
17
vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên buộc phải dương thì tình trạng tài
chính mới lành mạnh.
Trường hợp 2
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên = 2
tiền 2
tồn kho
4
phải thu
nhu cầu vốn đầu tư vào
tài sản lưu động thường
xuyên -1
nợ ngắn hạn
5
vốn đầu tư vào tài sản
lưu động thường xuyên
2
Tài sản cố định
4
vốn dài hạn
6
Trong trường hợp này nợ ngắn hạn lớn hơn các khoản phải thu và toàn bộ
tồn kho. Như vậy vay ngắn hạn từ bên ngoài thừa đủ để tài trợ cho các sử dụng
ngắn hạn của Doanh nghiệp. Từ đó ta thấy nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu
động thường xuyên của Doanh nghiệp là âm ( -1). Vốn đầu tư vào tài sản lưu
động thường xuyên của Doanh nghiệp ( nguồn vốn dài hạn không dùng để tài trợ
cho các tài sản cố định) dương (2). Và như vậy vốn bằng tiền là 3.
Tại thời điểm này có thể thấy Doanh nghiệp có quá nhiều tiền nhàn rỗi
không dùng đến. Nếu đây là một tình trạng tạm thời thì có thể chấp nhận được.
Còn nếu đây là một tình trạng lâu dài của Doanh nghiệp thì có thể đánh giá
18
Doanh nghiệp quá lãng phí trong việc sử dụng vốn. Vốn đầu tư vào tài sản lưu
động thường xuyên dương trong trường hợp này là không cần thiết.
Trường hợp 3
tiền -2
tồn kho
5
phải thu
nợ ngắn hạn
2
Nhu cầu vốn đầu tư vào tài
sản lưu động thường xuyên
3
vốn đầu tư vào tài sản
lưu động thường xuyên
1
Tài sản cố định
5
vốn dài hạn
6
Trong trường hợp này tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn.
Nghĩa là nhu cầu về vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp là lớn
hơn 0. Trường hợp này vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên chỉ bằng
2. Như vậy vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên không đáp ứng đủ nhu
cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên. Doanh nghiệp thiếu hụt vốn,
tình trạng này thể hiện vốn bằng tiền âm.
Doanh nghiệp đang thiếu vốn bằng tiên do tồn kho và các khoản phải thu
quá lớn. Khả năng thanh toán của Doanh nghiệp bị đe doạ. Nếu tình trạng này
trầm trọng và kéo dài, Doanh nghiệp không bán được hàng sẽ gặp khó khăn
trong thanh toán và trang trải các khoản nợ.
1.1.5 Vai trò của vốn đầu tư vào tài sản lưu động đối với hoạt động kinh doanh
của Doanh nghiệp
19
Trong mỗi Doanh nghiệp vốn được đầu tư vào hai loại tài sản là tài sản cố
định và tài sản lưu động. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động có số vòng quay
nhanh hơn vốn đầu tư vào tài sản cố định. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động có
ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tạo doanh thu của Doanh nghiệp, khả năng thanh
toán trong ngắn hạn của Doanh nghiệp.
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên vận động và biến đổi qua
nhiều hình thái khác nhau. Và đối với từng lĩnh vực kinh doanh khác nhau vốn
đầu tư vào tài sản lưu động của mỗi Doanh nghiệp có sự biến đổi qua các giai
đoạn khác nhau. Đối với Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, vốn
đầu tư vào tài sản lưu động có hình thái ban đầu là tiền được chuyển sang hình
thái vật tư. Trong quá trình sản xuất, từ hình thái vật tư vốn chuyển sang hình
thái bán thành phẩm rồi thành phẩm, trở thành hàng hoá khi được bán trên thị
trường, khi quá trình tiêu thụ kết thúc thì trở lại hình thái ban đầu là tiền. Đối với
một Doanh nghiệp thương mại thì chu kỳ vận động của vốn đầu tư vào tài sản
lưu động nhanh hơn. Từ hình thái ban đầu là tiền sau chuyển sang hình thái hàng
hoá và khi kết thúc quá trình bán hàng thì lại trở về hình thái tiền. Trong quá
trình hoạt động của Doanh nghiệp vốn liên tục có sự biến đổi qua các hình thái.
Sự hoạt động có chu kỳ của Doanh nghiệp tạo ra sự chu chuyển của vốn đầu tư
vào tài sản lưu động. Tốc độ quay vòng của vốn đầu tư vào tài sản lưu động có ý
nghĩa rất quan trọng đối với việc tạo doanh thu của Doanh nghiệp. Trong điều
kiện hiện nay khi tất cả các nguồn lực đều có hạn thì sự thu hồi vốn nhanh là một
điều kiện tối quan trọng. Rút ngắn thời gian của vật tư dự trữ, nhanh chóng
chuyển vật tư sự trữ thành thành phẩm, rút ngắn vòng quay của hàng tồn kho, kết
thúc bán hàng để chuyển hàng tồn kho thành tiền và lại tiếp tục một chu kỳ sản
xuất mới là mục tiêu hàng đầu của các Doanh nghiêp.
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động chuyển toàn bộ giá trị vào mỗi chu kỳ
kinh doanh và thu hồi lại toàn bộ giá trị vào cuối chu kỳ. Vòng tuần hoàn của
vốn đầu tư vào tài sản lưu đôngh nhanh hay chậm phụ thuộc và mỗi loại hình
Doanh nghiệp và cụ thể từng Doanh nghiệp. Để có sử dụng tối đa nguồn vốn ,
một biện pháp các Doanh nghiệp sử dụng là tăng nhanh vòng quay của vốn đầu
20
tư vào tài sản lưu động. Chu kỳ vận động của vốn đầu tư vào tài sản lưu động
càng ngắn, hàng tồn kho quay vòng càng nhanh, tiền mặt quay vòng nhanh là
vấn đề các Doanh nghiệp hướng tới để tăng doanh thu của đơn vị mình.
Như vậy có thể thấy vốn đầu tư vào tài sản lưu động là lượng tiền ứng
trước để thoả mãn nhu cầu về tài sản lưu động, đảm bảơ cho hoạt động của
Doanh nghiệp được diễn ra thường xuyên, liên tục, và bảo hiểm cho Doanh
nghiệp, đảm bảo khả năng thanh toán trong ngắn hạn. Vốn đầu tư vào tài sản lưu
động có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động của Doanh nghiệp. Quản lý
sử dụng hợp lý vốn đầu tư vào tài sản lưu động có ảnh hưởng rất quan trọng đối
với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của Doanh nghiệp. Mặc dù hầu hết các vụ
phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố, chứ không phải chỉ do quản
lý vốn đầu tư vào tài sản lưu động tồi. Nhưng cũng cần thấy rằng, sự bất lực của
một số công ty trong việc hoạch định và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại tài
sản lưu động và nợ ngắn hạn hầu như là một nguyên nhân dẫn đến thất bại cuối
cùng của họ.
1.2 Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh
nghiệp
Đây là một chỉ tiêu nằm trong nhóm các chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động
của Doanh nghiệp. Vốn của Doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài
sản khác nhau như tài sản lưu động, tài sản cố định. Chỉ tiêu doanh thu được sử
dụng trong tính toán để xem xét khả năng hoạt động của Doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động cho biết một đồng vốn
đầu tư vào tài sản lưu động tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm.
Hiệu suất sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động = Doanh thu/ vốn đầu
tư vào tài sản lưu động
Nếu xét với cùng một lượng vốn đầu tư vào tài sản lưu động, hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động càng cao thì kết quả kinh doanh của Doanh
nghiệp càng cao. Mục tiêu hàng đầu của các Doanh nghiệp là tốí đa hoá giá trị
của chủ sở hữu. Các Doanh nghiệp pháp huy tối đa các nguồn lực hiện có, tăng
21
khả năng sinh lời của các loại tài sản, của vốn chủ sở hữu, vốn đi vay… Hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động gắn liền và có quan hệ trực tiếp tới
hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản
lưu động thể hiện vai trò quan trọng của nó trong tất cả các giai đoạn của quá
trình sản xuất kinh doanh. Từ sử dụng vốn để mua hàng hoá, vật tư đến quá trình
tiêu thụ sản phẩm, thu hổi vốn để đầu tư cho chu kỳ sản xuất tiếp theo.
Vốn đối với mỗi Doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Trong
quá trình hoạt động của mình Doanh nghiệp phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các
yếu tố cho quá trình kinh doanh đồng thời đảm bảo tiết kiệm vốn và sử dụng vốn
với hiệu quả cao nhất. Như vậy quản lý và sử dụng hợp lý nguồn vốn để đạt
được kết quả cao nhất là mục tiêu hàng đầu của các Doanh nghiêp.
Mỗi Doanh nghiệp có một phương thức huy động vốn khác nhau, vốn có
thể được hình thành từ nguồn vốn góp, vốn vay… Không một Doanh nghiệp nào
sử dụng hoàn toàn vốn chủ sở hữu trong quá trình hoạt động vì như vậy quá rủi
ro. Như vậy có thể thấy trong mỗi chu kỳ kinh doanh Doanh nghiệp phải chi một
lượng không nhỏ để trả lãi cho các khoản đi vay. Doanh nghiệp phải lựa chọn cơ
cấu vốn hợp lý, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn để đảm bảo không chỉ chi trả
được các chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh mà còn có lãi. Có thể thấy việc
quản lý và sử dụng tốt vốn đàu tư vào tài sản lưu động có ý nghĩa rất quan, góp
phần rất lớn nâng cao hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp.
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động có vai trò rất quan trọng đối với hoạt
động của một Doanh nghiệp. Và trong môi trường kinh tế như hiện nay thì việc
quản lý và sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động có vai trò quyết định đến sự
tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động
của Doanh nghiệp
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động có các
nhóm chỉ tiêu sau:
a Chỉ số về khả năng thanh toán ngắn hạn
Nhằm đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn
22
a.1 Khả năng thanh toán tức thời:
tiền/ nợ đến hạn
Nợ đến hạn bao gồm các khoản nợ ngắn hạn, nợ trung và dài hạn đến hạn
trả.
Chỉ tiêu này thể hiện mối quan hệ giữa tài sản có khả năng thanh toán trực
tiếp như tiền mặt, chứng khoán bán được ngay với các khoản nợ hiện hành. Chỉ
tiêu này cho biết 1 đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bởi bao nhiêu đồng tiền và
chứng khoán thanh khoản cao.
Chỉ tiêu này là một tiêu chuẩn đánh giá khá khắt khe về khả năng trả nợ
ngắn hạn. Khi sử dụng chỉ tiêu này, để đánh giá một cách chặt chẽ khả năng
thanh toán nhanh của Doanh nghiệp, ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng các khoản nợ
ngắn hạn, sắp xếp các khoản nợ này theo kỳ hạn thanh toán của chúng rồi đối
chiếu với số tiền mặt dự kiến sẽ có vào mỗi kỳ hạn.
a.2 Khả năng thanh toán nhanh :
(vốn bằng tiền + phảt thu)/ nợ ngắn hạn= tài sản lưu động – hàng tồn
kho
Tỷ số này cho biết 1 đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bởi bao nhiêu đồng
tiền và nợ phải thu.
Tỷ số này so tổng nợ ngắn hạn của Doanh nghiệp với tập hợp tiền cộng
với các khoản phải thu. Tỷ lệ này ít khắt khe hơn tỷ lệ thanh toán tức thời vì bao
gồm cả các khoản phải thu. Các khoản phải thu được sắp xếp theo kỳ hạn để đối
chiếu với các khoản nợ.
23
a.3 Khả năng thanh toán ngắn hạn :
Tài sản lưu động / nợ ngắn hạn
Tỷ số này so sánh toàn bộ tài sản lưu động với các khoản nợ đến hạn.
Muốn đạt được sự an toàn thì tỷ số này phải trên 100%.
Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán rất quan trọng. Nó cho biết Doanh
nghiệp có khả năng thanh toán tức thì các khoản nợ đến hạn hay không.
b Tỷ số về khả năng hoạt động
Phản ánh khả năng kết hợp các tài sản để tạo ra hiệu quả hoạt động của
Doanh nghiệp.
b.1 Vòng quay của vốn đầu tư vào tài sản lưu động
Doanh thu/ giá trị tài sản lưu động bình quân
Trung bình trong một chu kỳ kinh doanh vốn đầu tư vào tài sản lưu động
của Doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả
hoạt động của Doanh nghiệp càng cao.
b.2 Vòng quay của hàng tồn kho
Doanh thu/ hàng tồn kho bình quân
Hàng tồn kho bình quân = (hàng tồn kho đầu kỳ+ hàng tồn kho cuối kỳ)/ 2
Số vòng quay của hàng tồn kho trong một chu kỳ kinh doanh. Chỉ số này
càng lớn thì càng tốt.
b.3 Số ngày thanh lý hàng tồn kho
(Hàng tồn kho bình quân x 360)/ giá vốn hàng bán
Chỉ số này cho biết thời gian Doanh nghiệp cần để thanh lý hàng tồn kho.
b.4 Kỳ thu tiền bình quân
Tổng khoản phải thu/ doanh thu bình quân một ngày
Doanh thu bình quân một ngày = doanh thu / 360
Chỉ tiêu này cho biết số ngày trung bình Doanh nghiệp cần để thu hồi các
khoản phải thu.
b.5 Vòng quay của tiền
Doanh thu / tiền bình quân
tiền bình quân = (tiền đầu kỳ + tiền cuối kỳ)/2
24
Trong một chu kỳ kinh doanh trung bình tiền quay được bao nhiêu vòng.
c Chỉ tiêu về lợi nhuận
c.1 Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động trong kỳ
Lợi nhuận sau thuế/ vốn đầu tư vào tài sản lưu động
Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn đầu tư vào tài sản lưu động đem lại bao
nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế cho Doanh nghiệp.
c.2 Mức đảm nhiệm vốn đầu tư vào tài sản lưu động
Vốn đầu tư vào tài sản lưu động/ Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết để đạt được 1 đồng doanh thu Doanh nghiệp phải sử
dụng bao nhiêu đồng vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Chỉ tiêu này càng nhỏ thì
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp càng cao.
Trên đây là những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng quản lý và sử
dụng vốn lưu động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Để
duy trì các chỉ tiêu này ở mức tốt đòi hỏi các Doanh nghiệp phải có những biện
pháp quản lý và sử dụng hợp lý, đồng bộ, đảm bảo Doanh nghiệp kinh doanh có
lãi và hiệu quả sử dụng vốn là cao nhất.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu
động của Doanh nghiệp
Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của
Doanh nghiệp thành bốn nhóm.
- Nhóm nhân tố về mặt sản xuất (kinh doanh) : lĩnh vực sản xuất ( kinh
doanh), quy mô sản xuất (kinh doanh), tính phức tạp của chu kỳ sản xuất (kinh
doanh), yêu cầu về thành phẩm, hàng hoá…
- Nhóm nhân tố về nguồn cung cấp vật tư hàng hoá cho Doanh nghiệp, thị
trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá.
- Nhóm nhân tố về thanh toán: bao gồm những nhân tố về phương thức
thanh toán, thủ tục thanh toán.
- Nhóm nhân tố khác: là những nhân tố thuộc vể bản thân Doanh nghiệp
như trình độ tổ chức quản lý, sự hiện đại của dây chuyền sản xuất, nhu cầu của
25