Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Vai trò của học thuyết mác lênin đối với sự phát triển kinh tế xã hội việt nam ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.1 KB, 27 trang )

VAI TRÒ CủA HọC THUYếT MÁC-
LÊNIN ĐốI VớI Sự PHÁT TRIểN KINH
Tế XÃ HộI VIệT NAM NGÀY NAY
PHẦN A: LỜI MỞ ĐẦU
Học thuyết kinh tế Mác – Lênin là sự kế thừa những tinh hoa của
nhân loại. Những tư tưởng kinh tế đã xuất hiện từ rất sớm, ngay từ thời cổ
đại và nó không ngừng được phát triển. Đến thời chủ nghĩa tư bản những
tư tưởng này phát triển lên thành học thuyết kinh tế gồm có: trọng nông,
trọng thương, tư sản cổ điển, tiểu tư sản… Những học thuyết này có nhiều
thành tựu nhưng bên cạnh đó cũng nảy sinh nhiều khiếm khuyết. Trên cơ
sở khắc phục nhũng hạn chế, kế thừa thành tựu của nhũng học thuyết này
Mác, Ănghen và Lênin đã xây dựng lên một học thuyết kinh tế chính trị mà
ngày nay chúng ta vẫn vận dụng rất phù hợp vào hoàn cảnh mới. Nó có tên
gọi là Học thuyết kinh tế chính trị Mác- Lênin.
Chúng ta sẽ đi phân tích vai trò của họ thuyết kinh tế này đối với sự
phát triển kinh tế xã hội Việt Nam ngày nay. Trước hết phải khẳng định
kinh tế chính trị Mác - Lênin có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, yêu cầu học tập, nghiên cứu
kinh tế chính trị Mác - Lênin càng được đặt ra một cách bức thiết, nhằm
khắc phục sự lạc hậu về lý luận kinh tế, sự giáo điều, tách rời lý luận với
cuộc sống, góp phần hình thành tư duy kinh tế mới.
PHẦN B: NỘI DUNG
I.ĐỐI TƯỢNG CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là phương thức sản xuất hay
nói cách khác là nó nghiên cứu các quan hệ sản xuất trong mối liên hệ và
sự tác động lẫn nhau với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Kinh tế chính trị không nghiên cứu bản thân đối tượng lao động và tư
liệu lao động mà nghiên cứu việc phát triển lực lượng sản xuất quyết
định.Nó cũng không nghiên cứu bản thân của cải vật chất, mà nghiên cứu
quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối,trao đổi
và tiêu dùng những của cải này.


Kinh tế chính trị cũng quan tâm đến mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng, bởi vì các quan hệ sản xuất là cơ sở của kiến trúc
thượng tầng nhất là quan hệ chính trị, pháp luật tác động trở lại quan hệ
sản xuất và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, biểu hiện rõ
nhất là vai trò kinh tế của nhà nước trong xã hội hiện đại.
Kinh tế chính trị nghiên cứu quan hệ sản xuất trong mối liên hệ và tác
động với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng, nhưng không phải là
nghiên cứu những biểu hiện bên ngoài của các hiện tượng kinh tế mà đi sâu
vạch rõ bản chất, tìm ra những mối liên hệ và sự lệ thuộc bên trong của các
hiện tượng và quá trình kinh tế trên cơ sở đó hình thành các phạm trù và
khái niệm như hàng hóa, tiền tệ, tư bản, thu nhập quốc dân Kết quả cao
nhất của sự phân tích khoa học các quan hệ sản xuất, các quá trình kinh tế
nói chung là phát hiện ra các quy luật, tính quy luật kinh tế và sự tác động
của chúng nhằm ứng dụng một cách có hiệu quả trong thực tiễn.
Quy luật kinh tế phản ánh những mối liên hệ nhân quả bản chất, tất
yếu, thường xuyên lặp đi lặp lại của các hiện tượng và quá trình kinh tê
́.Cũng như các quy luật tự nhiên, các quy luật kinh tế có tính khách quan,
không lệ thuộc vào ý chí và nhận thức chủ quan của con người.Nhưng khác
với quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế chỉ xuất hiện trong quá trình hoạt
động kinh tế của con người.Vì vậy quy luật kinh tế có tính lịch sử, nó chỉ
tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định.Có những quy luật kinh tế
tồn tại trong mọi phương thức sản xuất, gọi là quy luật chung.Lại có những
quy luật kinh tế chỉ tác động trong một số hình thái kinh tế xã hội nhất
định, như quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ đó là những quy luật
đặc thù.
Kinh tế chính trị là bộ môn khoa học cơ bản, cung cấp những nguyên
lý lý luận cho các bộ môn khoa học kinh tế khác.Đồng thời, nó định hướng
cho các hoạt động thực tiễn kinh tế.Ý nghĩa thực tiễn và sức sống của kinh
tế chính trị thể hiện ở chỗ các phạm trù, quy luật, nguyên lý của nó phản
ánh sát thực tiễn kinh tế – xã hội của đất nước.

Ưu điểm của kinh tế chính trị Mác – Lênin ở chỗ phát hiện những
nguyên lý chung và những quy luật trừu tượng chi phối quá trình sản xuất
xã hội.Thái độ đúng đắn nhất là nắm vững những nguyên lý của kinh tế
chính trị Mác – Lênin, coi đó là nền tảng phương pháp của các môn khoa
học kinh tế khác, và tiếp thu có phê phán, có chọn lọc những thành tựu
khoa học của kinh tế học làm phong phú thêm kinh tế chính trị Mác –
Lênin.Các – mác đã khẳng định học thuyết của mình là hệ thống kinh tế
chính trị ‘mở’ biện chứng và phát triển không ngừng.

II.CHỨC NĂNG CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC –LÊNIN VÀ SỰ
CẦN THIẾT NGHIÊN CỨU NÓ
1.Chức năng của kinh tế chính trị mác-lênin
Kinh tế chính trị Mác-Lênin là một trong ba bộ phận hợp thành của
chủ nghĩa mác-lênin, có quan hệ mật thiết với hai bộ phận kia là triết học
và chính trị xã hội khoa học.Kinh tế chính trị Mác-Lênin là biểu hiện mẫu
mực của sự vận dụng quan điểm duy vật lịch sử vào sự phân tích kinh tê
́.Kinh tế chính trị Mác-Lênin thực hiện những chức năng sau đây:
a.Chức năng nhận thức
Kinh tế chính trị Mác-Lênin cung cấp những tri thức về sự vận động
của các quan hệ sản xuất, về sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất
với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng, về những quy luật kinh tế
của xã hội.Đó là chìa khóa để nhận thức lịch sử phát triển của xã hội loài
người nói chung, về chủ nghĩa tư bản nói riêng để giải thích các hiện tượng
và quá trình kinh tế đang diễn ra trong thực tiễn; phân tích nguyên nhân và
dự báo triển vọng, chiều hướng phát triển kinh tế và xã hội.
Những tri thức do kinh tế chính trị cung cấp là cơ sở khoa học để đề ra
đường lối, chính sách kinh tế tác động vào hoạt động kinh tế, định hướng
cho sự phát triển kinh tế và cũng là cơ sở nhận thức sâu sắc đường lối,
chính sách kinh tế.
b.Chức năng thực tiễn

Giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhận thức: nghiên cứu các
quy luật kinh tế là để thực hiện nhiệm vụ cải tạo thế giới.Các học thuyết
kinh tế chính trị của Các-mác trang bị cho công nhân và nhân dân lao động
một công cụ lao đấu tranh giai cấp mạnh mẽ, giúp họ nhận rõ sứ mệnh lịch
sử của mình.Kinh tế chính trị tuy không đưa ra những giải pháp cụ thể cho
mọi tình huống trong cuộc sống, nhưng nó vạch ra những quy luật và
những quy luật phát triển kinh tế chung, cung cấp những tri thức và nếu
thiếu chúng sẽ không giải quyết được tốt những vấn đề cụ thể.Khi quần
chúng đã nắm vững lý luận khoa học thì lý luận khoa học thì lý luận khoa
học sẽ trở thành lực lượng vật chất.Tính khoa học và cách mạng của kinh tế
chính trị Mác-lênin là những yếu tố quyết định hành động thực tiễn của
người học, nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn đó, nhất là trong công
cuộc xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
c.Chức năng phương pháp
Kinh tế chính trị là nền tảng lý luận cho một tổ hợp các khoa học kinh
tế ngành, như kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, vận tải, lao
động, tài chính, lưu thông tiền tệ và tín dụng Ngoài ra, nó còn là cơ sở lý
luận cho một loạt khoa học kinh tế nằm giáp ranh giữa các tri thức ngành
khác nhau, như địa lý kinh tế, nhân khẩu học Đối với các khoa học kinh tế
nói trên, kinh tế chính trị thực hiện chức năng phương pháp luận, nghĩa là
cung cấp nền tảng lý luận khoa học, mang tính đảng cho các môn khoa học
kinh tế cụ thể.
d.Chức năng tư tưởng
Trên cơ sở nhận thức khoa học về quy luật vận động và phát triển của
chủ nghĩa tư bản, kinh tế chính trị Mác-Lênin đã góp phần đắc lực xây
dựng thế giới quan cách mạng và niềm tin sâu sắc của người học vào cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm xóa bỏ áp bức bóc lột giai cấp và
dân tộc, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa, làm cho niềm tin
có một căn cứ khoa học vững chắc đủ sức vượt qua khó khăn, kể cả những
thất bại tạm thời trong quá trình phát triển của cách mạng.Kinh tế chính trị

Mác- Lênin, cùng với các bộ phận hợp thành khác của chủ nghĩa Mác –
Lênin, là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, xây dựng chế độ xã hội mới.
2.Sự cần thiết phải nghiên cứu kinh tế chính trị Mác-Lênin
Kinh tế chính trị Mác-Lênin có vai trò quan trọng trong đời sống xã
hội hiện nay.Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, yêu cầu học tập,
nghiên cứu kinh tế chính trị Mác-Lênin càng được đặt ra một cách bức
thiết, nhằm khắc phục sự lạc hậu về lý luận kinh tế, sự giáo điều, tách rời lý
luận với cuộc sống, góp phần hình thành tư duy kinh tế mới.
Nước ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, do đó những kiến thức, khái niệm, phạm trù, quy
luật của kinh tế thị trường mà kinh tế chính trị đưa ra là cực kỳ cần thiết
không chỉ đối với quản lý kinh tế vĩ mô, mà còn cần thiết cho việc quản lý
sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư.
Đối với sinh viên ở các trường kinh tế, học tập kinh tế chính trị Mác –
Lênin để có cơ sở lý luận và phương pháp luận nhằm học tập tốt các môn
khoa học kinh tế khác vì các môn kinh tế khác đều phải dựa vào các kiến
thức, các phạm trù kinh tế và các quy luật mà kinh tế chính trị Mác-Lênin
nêu ra.
Nói về tầm quan trọng của việc học tập kinh tế chính trị và khoa học xã
hội nói chung, Đại hội VII của Đảng đặt ra yêu cầu cải tiến nội dung và
phương pháp nghiên cứu giảng dạy khoa học xã hội, trước hết là chủ nghĩa
Mác-Lênin theo hướng lý luận chặt gắn với thực tiễn, nâng cao năng lực
thực hành, khoa học xã hội phải trở thành công cụ sắc bén trong việc đổi
mới tư duy, xây dựng nhân cách và ý thức xã hội chủ nghĩa, khắc phục tư
tưởng sai lầm Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: Khoa học xã
hội và nhân văn tập trung nghiên cứu những luận cứ cho việc tạo động lực
phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới sâu rộng, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh và đi lên chủ nghĩa xã

hội.Đến đại hội X, Đảng ta nêu rõ:”Phát triển khoa học xã hội hướng vào
việc tiếp tục góp phần làm sáng tỏ những nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, giải đáp những vấn đề mới của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; bước đi công nghiệp hóa, hiện đại hóa ”

III.LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM
1.Việc đổi mới kinh tế, chính trị và những thành tựu mà Việt Nam
đã đạt được trong việc vận dụng học thuyết kinh tế chính trị Mác –
Lênin
Hiện nay, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị đang
là vấn đề cần được quan tâm giải quyết, nghĩa là phải làm thế nào để hai
lĩnh vực này có mối quan hệ hài hòa, cái nọ hỗ trợ, thúc đẩy cái kia cùng
phát triển ổn định, bền vững.
Trước hết, cần nói về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Vấn đề này
đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin giải quyết rõ ràng.
C.Mác và Ph.Ăngghen trong quá trình xây dựng học thuyết của mình luôn
nhấn mạnh vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị. V.I.Lê nin đã
tiếp tục phát triển tư tưởng đó; đồng thời, nhấn mạnh thêm rằng quan hệ
giữa kinh tế và chính trị có hai mặt: một mặt,chính trị là sự biểu hiện tập
trung của kinh tế; mặt khác, chính trị không thể không giữ địa vị ưu tiên so
với kinh tế. Như vậy, kinh tế quyết định chính trị, song chính trị có ảnh
hưởng và tác động trở lại đối với kinh tế.
Tiếp đến, khi bàn về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
phải luôn xuất phát từ những tư tưởng chỉ đạo nói trên, nghĩa là phải đặt hai
lĩnh vực đó trong mối quan hệ hài hòa, nhưng tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch
sử - cụ thể mà đặt vấn đề đổi mới kinh tế hoặc đổi mới chính trị có thể đi
trước một bước; trong đó, đổi mới kinh tế chiếm vị trí trọng tâm, còn đổi
mới chính trị là công cụ phục vụ đổi mới kinh tế.
Nói đổi mới chính trị ở đây không phải là thay đổi chế độ chính trị mà
là đổi mới hệ thống chính trị và cùng với việc đổi mới hệ thống chính trị

còn phải đổi mới cả đường lối, chính sách, pháp luật, quan điểm, tư tưởng,
lẫn các quan hệ chính trị, v.v Điều đó có nghĩa là, phải xem xét đường lối,
chính sách, pháp luật, quan điểm, tư tưởng chính trị nếu thấy không còn
phù hợp với sự thay đổi của kinh tế thì phải thay đổi bằng cái khác, tiến bộ
hơn, phù hợp hơn để thúc đẩy kinh tế phát triển; phải thay đổi bộ máy, tổ
chức chính trị cồng kềnh, quan liêu, kém hiệu lực bằng một bộ máy, tổ
chức khác gọn nhẹ, có hiệu lực hơn nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển mạnh
hơn; phải thay đổi các chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận hợp thành hệ
thống chính trị để tránh chồng chéo; phải thay đổi các mối quan hệ chính
trị, đặc biệt là quan hệ với nhân dân để bảo đảm dân chủ và huy động được
sức mạnh của nhân dân vào phát triển kinh tế. Nếu đổi mới chính trị thực
hiện được như thế thì chắc chắn sẽ tạo ra được mối quan hệ hài hòa giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
1. Một vài nhận xét về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị ở nước ta trong 25 năm đổi mới
Một là, nước ta đã chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu,
bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trước đổi mới, do áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan
liêu, bao cấp, coi nhẹ kinh tế thị trường, Nhà nước trực tiếp làm kinh tế và
quản lý kinh tế chủ yếu bằng công cụ hành chính, mệnh lệnh nên không tạo
ra động lực cho sự phát triển, không phát huy được tính năng động, sáng
tạo của con người; ngược lại, còn làm cho họ trở nên thụ động, chờ đợi,
làm việc không hết sức mình và cuối cùng, nước ta đã lâm vào khủng
hoảng kinh tế - xã hội.Đảng ta đã nhận thức và dần dần khắc phục được
những sai lầm nói trên và chủ trương chuyển sang xây dựng kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai luận điểm quan trọng: (l) Xây
dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường; (2) Phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai luận
điểm này thể hiện tư tưởng muốn giải quyết hài hòa giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị vì kinh tế thì phát triển theo cơ chế thị trường, còn chính

trị thì định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, nền kinh tế nước ta đã chuyển từ kinh tế đơn thành phần, đơn
loại hình sở hữu sang kinh tế đa thành phần, đa loại hình sở hữu.
Do nhận thức không đầy đủ và không đúng về việc cải tạo xã hội chủ nghĩa
đối với quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới, chúng ta đã
nóng vội tiến hành cải tạo ồ ạt nhằm "tước đoạt những kẻ đi tước đoạt", xóa
bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ thành phần kinh tế
tư bản chủ nghĩa bằng bất kỳ giá nào, miễn là nhanh chóng biến kinh tế tư
bản tư nhân thành quốc doanh và không cần tính toán xí nghiệp quốc doanh
xã hội chủ nghĩa hay xí nghiệp tư bản tư nhân làm tốt hơn, hiệu quả hơn.
Trong quá trình tập thể hóa nông nghiệp, chúng ta đã dùng biện pháp mệnh
lệnh hành chính để cưỡng bức nông dân vào hợp tác xã, vi phạm thô bạo
nguyên tắc tự nguyện, coi thường lợi ích của nông dân. Cách giải quyết đó
không những đã kìm hãm sự phát triển kinh tế, mà còn làm nảy sinh những
vấn đề chính trị: làm lung lay lý tưởng xã hội chủ nghĩa, làm giảm sút lòng
tin của nhân dân vào tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, vào sự lãnh đạo của
Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta chủ trương phát triển mạnh các thành
phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh, các thành phần
kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp
luật, cùng tồn tại và phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Chủ trương đó có ý nghĩa không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị, bởi vì
các thành phần kinh tế nếu trước đây bị coi là "phi xã hội chủ nghĩa" thì
ngày nay được Đảng nhận thức lại đúng đắn hơn, coi là bộ phận hợp thành
của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và được bình đẳng
trước pháp luật, do đó họ mất đi mặc cảm "phi xã hội chủ nghĩa" và không
còn tâm lý nơm nớp lo sợ bị cải tạo, bị xóa bỏ. Đó là một thành công cả về
kinh tế và chính trị của quá trình đổi mới và cũng thể hiện mối quan hệ
khăng khít giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị vì giải quyết mặt này

mà được cả mặt kia.
Ba là, Việt Nam đã chuyển từ công nghiệp hóa, ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng sang công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa, gắn với khoa học
công nghệ hiện đại hướng tới kinh tế tri thức.Trước đây, do nhận thức
không đúng về công nghiệp hóa, quá ưu tiên phát triển công nghiệp nặng,
còn nông nghiệp, nông thôn và nông dân ít được quan tâm. Điều đó không
chỉ ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, mà còn ảnh hưởng đến chính trị vì dễ
nảy sinh tư tưởng về sự đối xử không công bằng.
Đảng ta đã nhận thấy rằng, trong thời đại ngày nay, khi có sự giúp đỡ, hợp
tác và phân công lao động quốc tế và trên thế giới đang diễn ra cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại thì không thể tiến hành công nghiệp hóa
theo kiểu cổ điển, không nên hiểu độc lập, tự chủ một cách máy móc là cái
gì cũng phải tự sản xuất ra để khỏi "phụ thuộc" vào bên ngoài, không nên
đặt vấn đề công nghiệp hóa tách rời hiện đại hóa. Do đó, Đảng ta chủ
trương công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa, gắn với khoa học công nghệ
và gắn với phát triển kinh tế tri thức; trong đó coi trọng đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các
vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, trên cơ sở đó tăng cường khối
liên minh giữa công nhân - nông dân - trí thức, dần dần hình thành đội ngũ
công nhân tri thức. Điều đó chứng tỏ đổi mới kinh tế đã đưa lại việc giải
quyết những vấn đề chính trị.
Bốn là, chúng ta đã chuyển nền kinh tế chưa thật sự mở cửa sang nền
kinh tế hội nhập ngày càng rộng và sâu.
Trước đổi mới, sự hiểu biết và đánh giá của chúng ta về tình hình thế giới
và khu vực còn chưa phù hợp với thực tế khách quan, tư duy còn nặng về ý
thức hệ, nhận thức về chủ nghĩa tư bản chỉ mới thấy "chế độ tư bản đang
trong cơn hấp hối", nhận thức về chủ nghĩa xã hội quá lạc quan, coi đó là
nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người. Nguyên nhân của
những hạn chế đó là tư duy giáo điều, chịu ảnh hưởng từ các quan điểm về
quốc tế của Liên Xô và một số nước khác.

Đổi mới đường lối, chính sách đối ngoại và chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế là một thành tựu quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Từ chính
sách "thêm bạn bớt thù" đến chính sách Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp
tác quốc tế và khu vực, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác
là những bước tiến hết sức quan trọng về lĩnh vực đối ngoại.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị không thể tách rời; bởi lẽ, nếu quá nhấn mạnh độc lập
tự chủ về chính trị sẽ dẫn đến đóng cửa thì kinh tế không phát triển được.
Ngược lại, nếu chỉ nhấn mạnh đến hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào
toàn cầu hoá kinh tế thì sẽ đứng trước nguy cơ tự đánh mất mình, không
còn chủ quyền nữa. Vì thế, phải giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị bằng cách vừa phát huy tối đa nội lực, vừa
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, vừa đổi mới chính sách đối nội để tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thi hành chính sách đối ngoại; ngược lại, lĩnh
vực đối ngoại càng mở rộng thì càng thúc đẩy sự đổi mới ở trong nước.
Mối quan hệ này còn thể hiện ở chỗ, chúng ta vừa đẩy mạnh hoạt động
chính trị đối ngoại, vừa đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại và phải biết
kết hợp chặt chẽ hai hình thức hoạt động này để chúng hỗ trợ lẫn nhau.
Năm là, Đảng tự đổi mới.
Để hình thành đường lối, chính sách đổi mới, Đảng phải có quan hệ chặt
chẽ với nhân dân vì nhân dân mới chính là người khởi xướng sự nghiệp đổi
mới ở nước ta. Trong khi đi tìm lối thoát cho đất nước ra khỏi khủng
hoảng, Đảng ta đã phát hiện ra sự sáng tạo của nhân dân. Trong bối cảnh
kinh tế lâm vào khủng hoảng, nhân dân ở một số địa phương đã tìm cách
phá rào", "khoán chui", luồn lách qua những khe hở của thể chế hiện hành
để hoạt động kinh tế có hiệu quả hơn. Những tìm tòi, thử nghiệm từ địa
phương, cơ sở đã giúp cho Đảng nắm bắt được những yêu cầu, đòi hỏi
khách quan của thực tiễn, từ đó Đảng dần đổi mới tư duy, đổi mới quan

điểm và dẫn đến đổi mới đường lối, chính sách. Đường lối, chính sách đổi
mới phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân nên được nhân dân
hưởng ứng và tích cực biến đường lối, chính sách của Đảng thành hành
động cụ thể và đã đem lại những kết quả to lớn. Quá trình đổi mới ở Việt
Nam diễn ra như sau: xuất phát từ hoạt động thực tiễn (tuy còn ở dạng thử
nghiệm, hạn chế) của nhân dân đến sự đổi mới tư duy, đổi mới đường lối,
chính sách của Đảng, rồi từ đó quay trở lại chỉ đạo hoạt động của nhân dân
ở tầm vĩ mô cả về kinh tế lẫn chính trị. Như vậy, khó có thể xác định rạch
ròi đổi mới kinh tế trước hay đổi mới chính trị trước vì cả hai lĩnh vực này
có quan hệ hữu cơ với nhau, cái nọ là tiền đề cho cái kia. Nhưng trong
những năm qua, chúng ta coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm và
trong thời gian tới phát triển kinh tế vẫn là nhiệm vụ trung tâm. Yêu cầu
trong lãnh đạo xã hội là phải điều chỉnh để các lĩnh vực không quá mất cân
đối và vì vậy, mặc dù chúng ta đã đổi mới chính trị nhưng lúc này cần phải
phân tích những vấn đề đặt ra trong việc đổi mới chính trị để tiếp tục đổi
mới tốt hơn.
Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã cho rằng những sai lầm và khuyết điểm
trong lãnh đạo kinh tế, xã hội đều bắt nguồn từ những khuyết điểm trong
hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng, đây là nguyên
nhân của mọi nguyên nhân. Điều đó có nghĩa những sai lầm trong lĩnh vực
chính trị có tác hại rất lớn đến lĩnh vực kinh tế. Đảng ta đã kịp thời sửa sai
trong lĩnh vực chính trị và nhờ vậy, nền kinh tế nước ta không những thoát
khỏi khủng hoảng mà còn phát triển liên tục và ổn định. Tuy nhiên, trong
thời gian tới, Đảng cần phải tiếp tục tự đổi mới từ công tác tư tưởng, lý
luận đến công tác tổ chức, cán bộ; từ nội dung lãnh đạo đến phương thức
lãnh đạo; từ công tác kiểm tra đến việc mở rộng dân chủ trong Đảng, từ
việc tự đổi mới đến việc lãnh đạo đổi mới cả hệ thống chính trị.
Sáu là, từ Nhà nước chuyên chính vô sản chuyển thành Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đây là một nội dung quan
trọng trong đổi mới chính trị, có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với việc xây

dựng và phát triển kinh tế thị trường cũng như việc quản lý xã hội. Trong
thời kỳ trước đổi mới, Nhà nước chuyên chính vô sản với bộ máy đồ sộ,
cồng kềnh, quản lý ôm đồm cả kinh tế vĩ mô lẫn kinh tế vi mô. Sự quản lý
đó lại được thực hiện chủ yếu theo kế hoạch, nghị quyết của Đảng, dùng
biệnpháp hành chính mệnh lệnh, quan liêu, bao cấp dẫn đến hậu quả là
khủng hoảng. Đảng ta chủ trương không chỉ phát triển kinh tế thị trường
mà còn xây dựng nhà nước pháp quyền vì hai vấn đề đó phải đi liền với
nhau, nghĩa là bàn tay vô hình của kinh tế thị trường phải gắn chặt với bàn
tay hữu hình của Nhà nước. Đổi mới chính trị như vậy đã đem lại kết quả là
nền kinh tế nước ta phát triển rõ rệt.
Bảy là, đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội.
Trong những năm qua, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các hội quần
chúng đã có nhiều cố gắng khắc phục tình trạng hành chính hoá, phô
trương, hình thức, nâng cao chất lượng hoạt động, làm tốt công tác dân vận
theo phong cách trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm
với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin. Đồng thời, Đảng ta đã chủ
trương để Mặt trận, các đoàn thể nhân dân thực hiện vai trò giám sát và
phản biện xã hội. Nhà nước cũng đã ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở để
Mặt trận, các đoàn thể và tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng,
chính quyền và hệ thống chính trị. Những đổi mới nói trên. có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc, mở rộng dân chủ
trong xã hội, làm cho hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh và huy động
sức dân vào việc phát triển kinh tế.
Tám là, dân chủ hoá đời sống xã hội.
Nước ta từ xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội, hơn nữa lại trải qua hơn 30 năm thực hiện
cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, đồng thời phải chịu
những hậu quả nặng nề của chiến tranh, do đó vấn đề dân chủ trở nên vô
cùng cấp thiết. Một thành tựu quan trọng đáng chú ý nhất của đổi mới
chính trị là đã "cởi trói" cho nhân dân được tự do làm ăn sinh sống. Bầu

không khí dân chủ đã có tiến bộ hơn trước rất nhiều. Đảng ta đã nhận thức
được rằng, một đảng cầm quyền không những phải đề phòng sai lầm về
đường lối và tổ chức, mà còn phải đề phòng tình trạng bộ máy bị quan liêu
hoá và đội ngũ cán bộ, đảng viên bị thoái hoá, biến chất, đề phòng tệ sùng
bái cá nhân và hình thành tầng lớp đặc quyền, đặc lợi vì chính những sai
lầm đó ảnh hưởng xấu đến dân chủ, đến quyền làm chủ của nhân dân. Đảng
ta coi dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội.
Tuy nhiên, mục tiêu này còn phải tiếp tục phấn đấu để dân chủ ngày càng
thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã
hội.
2 - Một số vấn đề đặt ra trong việc tiếp tục đổi mới chính trị
Để giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị, chúng ta cần tiếp tục làm rõ những vấn đề trong lĩnh vực chính trị
để giải quyết. Phải chăng đó là những vấn đề sau đây :
Thứ nhất, Đảng ta là Đảng cầm quyền, đang lãnh đạo Nhà nước và xã
hội. Để đảm đương được vai trò đó, Đảng phải thường xuyên nâng cao
năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, năng lực giải quyết những vấn đề
đặt ra trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là trong việc hoạch
định đường lối, chính sách và pháp luật. Điều này đòi hỏi Đảng ta phải có
khả năng tư duy lý luận, nhận thức và vận dụng đúng các quy luật khách
quan, phải biết xử lý các thông tin, tổng kết thực tiễn, phát hiện vấn đề,
phân tích vấn đề và lựa chọn vấn đề để giải quyết, từ đó đề ra chính sách
thích hợp và thể chế hoá chính sách đó thành pháp luật.
Tiếp đến, phải nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chính sách, pháp
luật. Điều này đòi hỏi Đảng ta phải biết huy động các tổ chức, các cá nhân,
toàn bộ nguồn nhân lực, vật lực, nói cách khác phải có khả năng tập hợp,
huy động quần chúng, giúp họ quán triệt và vận dụng sáng tạo các chính
sách và pháp luật vào thực tế cuộc sống. Muốn vậy, đường lối, chính sách
phải phản ánh nguyện vọng, lợi ích của nhân dân và có tính chất thực thi.
Đảng phải có năng lực tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm và nâng lên

thành lý luận để trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Cả ba khâu này liên
quan chặt chẽ với nhau: từ lý luận đến thực tiễn rồi từ thực tiễn lại đúc kết
thành lý luận ở tầm cao hơn và trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Nếu còn
yếu ở khâu nào thì Đảng chưa thể lãnh đạo tốt mọi hoạt động trong xã hội.
C.Mác đã cảnh báo rằng, "sự ngu dốt là sức mạnh ma quỷ", và chúng ta lo
ngại điều đó còn là nguyên nhân của nhiều bi kịch khác nữa. Chính vì thế
mà V I Lê nin đòi hỏi trong điều kiện Đảng cầm quyền, "Đảng càng phải là
trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta. Bước vào thế kỷ XXI,
nhất là từ Đại hội XI, Đảng ta cần đánh giá thật sự nghiêm túc tầm tư tưởng
và tầm trí tuệ của Đảng theo tinh thần mà Hồ Chí Minh đã nhắc nhở:
"Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình
đã được thi hành như thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và
những chỉ thị đó hoá ra lời nói suông, mà còn hại đến lòng tin của dân". Vì
vậy, nói đến trí tuệ của Đảng là nói đến năng lực tư duy, tri thức mà Đảng
tích luỹ được, sức sáng tạo của Đảng và sự vận dụng đường lối, chính sách
vào thực tế cuộc sống. Những yếu tố đó gắn bó chặt chẽ tạo thành sức
mạnh trí tuệ của Đảng cầm quyền, thể hiện năng lực lãnh đạo, năng lực
cầm quyền của Đảng.
Thứ hai, sức mạnh của hệ thống chính trị là ở tính thống nhất của nó,
đặc biệt là sự thống nhất giữa Đảng và Nhà nước, phải "hợp đồng binh
chủng" để tạo nên sức mạnh của cả hệ thống. Trước hết, cần phải phân rõ
chức năng, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước để tránh tình trạng chồng
chéo, dẫm đạp lên nhau hoặc đùn đẩy cho nhau, không rõ đâu là sự lãnh
đạo của Đảng và đâu là sự quản lý của Nhà nước.
Đảng cầm quyền không có nghĩa là Đảng đứng trên Nhà nước, đứng trên
Hiến pháp và pháp luật, mà pháp luật mới là tối thượng; bất kỳ một tổ chức
và cá nhân nào dù có quyền lực cao đến đâu cũng không thể đứng trên hoặc
đứng ngoài pháp luật. Để thực hiện được điều đó chúng ta phải sớm ban
hành luật về Đảng giống như các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Các quan hệ dọc ngang trong hệ thống chính trị đều phải được quy định

theo luật để trên bảo dưới phải nghe và chấp hành đúng luật định, dưới góp
ý đúng trên cũng phải nghe để bảo đảm dân chủ, các tổ chức trong hệ thống
chính trị đều được quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm và phải nghiêm
chỉnh thi hành. Chỉ như vậy, bộ máy của chúng ta mới mạnh và có tác động
vào kinh tế một cách có hiệu lực và hiệu quả. Đổi mới chính trị theo nội
dung như vậy mới tạo ra được mối quan hệ hài hoà với đổi mới kinh tế.
Thứ ba, phải rà soát lại các chủ trương, chính sách và pháp luật để bảo
đảm sự nhất quán, không có mâu thuẫn.
Các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước được ban
hành bởi những chủ thể khác nhau, vào những thời điểm khác nhau trong
những hoàn cảnh khác nhau, do đó không tránh khỏi có những độ vênh
nhất định - độ vênh giữa kinh tế và chính trị, độ vênh trong từng lĩnh vực.
Vì vậy, các cơ quan hoạch định chính sách và pháp luật phải thường xuyên
rà soát lại để khắc phục độ vênh giữa các chính sách và pháp luật khác
nhau, tránh tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", "ông nói gà, bà
nói vịt". Có như thế mới tạo ra được một hệ thống chính sách và pháp luật
mạnh.Nếu làm được như vậy thì lý luận mới thực sự đóng vai trò chỉ đạo
hoạt động thực tiễn - cả hoạt động kinh tế lẫn hoạt động chính trị .
Thứ tư, phải tiếp tục xây dựng Đảng không chỉ về trí tuệ, mà cả danh
dự và lương tâm. Danh dự và lương tâm của Đảng không phải chỉ trông cậy
vào quá khứ mà phải xây dựng cái đó ở cả hiện tại lẫn tương lai. Hiện tại,
trong Đảng ta đang có nhiều vấn đề phải được đặt ra để cùng nhau bàn bạc
và giải quyết, không né tránh thì hoạt động lãnh đạo mới có hiệu quả và vị
thế Đảng cầm quyền ngày càng được củng cố vững chắc.
3.Sự đổi mới về tư duy
Sự chuyển biến sang kinh tế tri thức thường đòi hỏi những cải cách
quyết liệt, đôi khi là những sự "huỷ diệt sáng tạo" (creative destruction). Vì
vậy, liên tục đổi mới tư duy với những cách nhìn mới, cách hiểu mới trên
cơ sở những phát hiện khoa học mới, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học hệ
thống, khoa học kinh tế, khoa học tổ chức và quản lý đồng thời không nuối

tiếc những kiểu tư duy không còn phù hợp với điều kiện hiện đại là nhân tố
có ý nghĩa quyết định đối với việc xây dựng kinh tế tri thức ở nước ta.
Thế kỷ XX là thế kỷ của sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt của xã hội
loài người, và đặc biệt của những biến đổi có tính chất cách mạng trong tư
duy và nhân thức của con người đối với tự nhiên và cuộc sống. Từ những
thập niên đầu thế kỷ, những đổi mới tư duy trong vật lý học và khoa học tự
nhiên đã đưa đến những thành tựu kỳ diệu trong phát triển khoa học và
công nghệ: và rồi đến những thập niên trong nửa sau thế kỷ, song song với
sự phát triển mạnh mẽ và những chuyển biến to lớn trong các nền kinh tế
và trên thị trường thế giới, nhiều lý thuyết khoa học mới về thông tin, về hệ
thống, tổ chức, điều khiển và quản lý ra đời, làm cơ sở cho những đổi mới
tư duy và nhận thức về bản thân sự phát triển kinh tế - xã hội, cùng với
những đổi mới tư duy về các vấn đề tổ chức và quản lý trong môi trưởng
mới của sự phát triển. Đến thập niên cuối cùng của thế kỷ, những tiến bộ và
đổi thay dồn dập đã xác định rõ diện mạo của bước chuyển biến có tính
chất toàn cầu: chuyển biến sang một nền kinh tế dựa chủ yếu trên các
nguồn lực thông tin và tri thức. một xã hội thông tin và tri thức. Và yêu cầu
đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức để thích nghi và phát triển trong môi
trường mới đó của một nền kinh tế thị trường "toàn cầu hoá" đã trở nên cần
thiết và cấp bách đối với mọi quốc gia, và tất nhiên lại càng cần thiết và cấp
bách đối với những nước còn chậm phát triển như nước ta.
Từ giữa những năm 80, khi bắt đầu công cuộc đổi mới, nước ta thực
sự đã bước vào một giai đoạn tự chuyển biến đầy khích lệ và cũng đầy khó
khăn, phức tạp. Nhiều chính sách mới mở đường cho việc giải phóng và
phát huy những nhân tố tích cực trong kinh tế và xã hội, đã tạo nên những
nét khởi sắc trong đời sống của đất nước là điều mà ai cũng thấy rõ.
Nhưng, đang trong giai đoạn chuyển biến sang một trật tự mới có khả năng
đáp ứng tốt hơn mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh", quá trình lớn mạnh của những nhân tố mới, tích cực, có khả năng
vượt trội và thay thế dần sự níu kéo của các yếu tố cũ cỏ sức ỳ lớn và uy

quyền không nhỏ: đã và còn diễn ra không đơn giản. Sự biến đổi đó xảy ra
thường xuyên trong mỗi con người, trong các tổ chức và trong toàn xã hội.
Và vì thế ta không lấy làm lạ là trong mọi lĩnh vực, từ kinh tế đến văn hoá,
xã hội, giáo dục bên cạnh những thành quả tích cực mà khó khăn lắm mới
đạt được vẫn còn đầy những tiêu cực phi lý làm nhức nhối lòng người.
Trong lĩnh vực kinh tế, sự giằng co giữa cái mới và cái cũ diễn ra một cách
phức tạp. Cuộc cải cách cơ cấu, yếu tố then chốt để xoay chuyển cơ bản
tình hình vẫn diễn ra chậm chạp.
Từ đầu công cuộc đổi mới ta đã xem rất đúng rằng đổi mới tư duy
trước hết là tư duy kinh tế là điêu có ý nghĩa quyết định nhất. Quả thực,
trên thế giới trong mấy thập niên vừa qua, những tư duy về kinh tế, thị
trường, tổ chức và quản lý kinh tế, hoạt động kinh doanh có nhiều đổi
mới sâu sắc. Những tư duy mới đó không phải là xa lạ với nhiều nhà kinh
tế, nhiều doanh nhân của nước ta. Những tư duy mới là nhằm: một mặt dựa
trên những thành tựu khoa học mới giúp chúng ta có những hiểu biết sâu
sắc hơn, bản chất hơn về đối tượng nhận thức mà những cách tư duy cũ
thường chỉ cho ta những hiểu biết sơ lược, đơn giản. mặt khác, giúp ta
những nhận thức mới do bản thân đối tượng đã có nhiều biến đổi và đang
liên tục biến đổi. Tư duy mới về kinh tế gồm cả hai mặt nói trên, tức vừa là
mới do có cách nhìn mới, và vừa là mới do bản thân nền kinh tế liên tục có
những chuyển biến mới.
Với cách nhìn mới, cách nhìn hệ thống, đối với những đối tượng phức
tạp như kinh tế xã hội, ta có những cách lý giải mềm dẻo hơn,
hoạt hơn về các mối quan hệ phức tạp và đa dạng trong một nền kinh tế,
trong sự vận hành của cơ chế thị trường, về những sức mạnh nội tại của các
cơ chế tự tổ chức và phát triển trong các hệ thống phức tạp. Nền kinh tế tri
thức thế giới đang và sẽ phát triển theo xu thế toàn cầu hoá, thực chất đó là
toàn cầu hoá của một nền kinh tế thị trường dựa chủ yếu trên những nguồn
lực rất năng động và dễ biến động như tài chính, thông tin và tri thức,
những nguồn lực gần như không có biên giới về không gian và cách biệt về

thời gian. Một nền kinh tế như vậy không chỉ tuân theo những "quy luật"
kinh điển mà ta đã biết, mà còn chịu tác động của những quy luật mới của
cơ chế tự tăng cường, của các liên hệ ngược dương, của luật "tỷ suất lợi
nhuận tăng”. Những yếu tố bất định: bất ổn định, khó tiên đoán được ngày
càng nhiều Tính chất của hàng hoá và thị trường, đặc biệt là bản chất của
tính cạnh tranh, của những ưu thế cạnh tranh trên thị trường, đang có những
biến đổi sâu sắc.
Đổi mới nhận thức về sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện
đại và về yêu cầu hội nhập có ý nghĩa sống còn của chúng ta vào xu thế
chung đó dẫn đến đòi hỏi tất yếu phải đổi mới tư duy về tổ chức và quản lý
kinh tế. Có được trang bị những tư duy mới năng động hơn, linh hoạt hơn
nhiều sức sống hơn, thì mới đủ niềm tin để khắc phục những nếp tư duy cũ
đã trở thành trì trệ. Hơn bao giờ hết, vào lúc này đây ta cần xác lập và
thường xuyên bồi dưỡng một tư duy mới để vững bước tiếp tục con đường
cải cách, trước mắt xoá bỏ mọi rào cản để mọi yếu tố tích cực, năng động
được tự do phát triển trong một nền kinh tế thị trường lành mạnh và rồi sau
đó tiếp tục chăm lo tạo môi trường thuận lợi cho mọi nhân tố mới, mọi tài
năng mới được tự do nảy nở và đua tranh, làm cho thế đất nước ta dân giàu
mạnh trong một nền kinh tế tri thức, vững vàng với tư bình đẳng tiến vào
con đường hội nhập chung với thế giới.
PHẦN C: KẾT LUẬN
Như vậy, kinh tế chính trị có vai trò vô cùng quan trọng trong đời
sống xã hội.Nó là tư tưởng chỉ đạo của cuộc cách mạng kinh tế xã hội và
cung cấp cho giai cấp vô sản vũ khí lý luận có sức mạnh để tiến hành cải
cách kinh tế xã hội và cách mạng xã hội chủ nghĩa.Học tập nó mới có thể
kiên định niềm tin và lòng tin, nhận thức và nhìn nhận đúng đắn đối với
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, không bị nhiễu vì bất cứ luồng tư
tưởng sai lầm nào, kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa.Không những vậy, nó còn là chỗ dựa lý luận của chế độ kinh tế xã
hội chủ nghĩa, đặt nền móng lý luận cho chính đảng của giai cấp công nhân

nắm chính quyền tiến hành xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa và phát triển
bền vững, đã cung cấp căn cứ lý luận định ra đường lối, phương châm và
chính sách kinh tế.Kinh tế chính trị Mác-Lênin là môn học cơ sở của kết
cấu tri thức nhân loại, là mẫu mực về vận dụng thế giới quan và phương
pháp luận khoa học.Đó là vì, sự sáng lập kinh tế chính trị đã chứng minh và
vận dụng sâu sắc nhất, tường tận nhất lập trường, quan điểm, phương pháp
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.Chỉ học tập
nó thật tốt, mới xây dựng được thế giới quan đúng đắn, nắm vững phương
pháp luận khoa học, từ đó nâng cao năng lực quan sát và phân tích vấn đề,
xử lý và giải quyết mâu thuẫn trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa

×