Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Xây dựng văn bản pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.22 KB, 4 trang )

Xây dựng văn bản pháp luật là hoạt động của nhà nước trong quá trình
thực hiện chức năng nhiệm vụ của nhà nước.Xây dựng văn bản là quá trình
gồm các hoạt động được tiến hành theo những quy trình nhất định.Hoạt
động xây dựng văn bản pháp luật có vai trò quan trọng trong quản lý nhà
nước đặc biệt là với nhà nước pháp quyền giúp cho nhà nước có thể hoàn
thiện tổ chức thực hiện và thực hiện pháp luật.Để hoạt động xây dựng văn
bản pháp luật có hiệu quả và đạt chất lượng cao hoạt động xây dựng văn bản
phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định.
Thứ nhất:Xây dựng văn bản pháp luật phải đúng thẩm quyền.Thẩm
quyền được nói đến trong hoạt động xây dựng văn bản pháp luật là
thẩm quyền về nội dung,và thẩm quyền về hình thức.
+Thẩm quyền về nội dung:Là giới hạn quyền lực của các chủ thể trong
quá trình giải quyết công việc do pháp luật quy định.Đó là giới hạn của việc
sử dụng quyền lực nhà nước mà pháp luật thực định đã đặt ra đối với từng
loại cơ quan trong bộ máy nhà nước về mỗi loại công việc nhất định.
Thẩm quyền về nội dung thể hiện ở việc các chủ thể ban hành văn bản
pháp luật giải quyết nhưng vấn đề do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền
của chủ thể đó.Thẩm quyền về nội dung được xác lập ở nhiều văn bản khác
nhau dựa trên sự phân công quyền lực vị trí chức năng của các chủ thể trong
việc giải quyết những công việc do pháp luật quy định.
Ví dụ:
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Bộ, cơ quan ngang Bộ và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
1. Trình Chính phủ dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp
lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; dự thảo nghị định
của Chính phủ theo chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật hàng năm
của Bộ đã được phê duyệt và các dự án, đề án theo sự phân công của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ.
2. Trình Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
trung hạn, dài hạn, hàng năm về các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ; dự
thảo quyết định, chỉ thị và các văn bản khác thuộc thẩm quyền chỉ đạo, điều


hành của Thủ tướng Chính phủ theo quy định của pháp luật.
3. Ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư thuộc phạm vi quản lý nhà nước
của Bộ.
Dựa trên sự phân công chức năng nhiệm vụ của bộ,mà các bộ ban hành văn
bản pháp luật với nội dung công việc được pháp luật quy định.Ban hành
1
pháp luật đúng thẩm quyền về nội dung còn phản ánh việc các chủ thể có
thẩm quyền phải có trách nhiệm giải quyết những công việc phát sinh trong
phạm vi thẩm quyền,phạm vi không gian và thời gian do pháp luật quy
định.Như vậy yếu tố thẩm quyền trong trường hợp nhất định còn liên quan
đến các yêu tố:lãnh thổ,dân cư,điều kiện xã hội.
+Thẩm quyền về hình thức:
Thẩm quyền về hình thức là thẩm quyền của các chủ thể trong việc ban
hành những hình thức văn bản do pháp luật quy định.Mỗi chủ thể có thẩm
quyền chỉ được ban hành một số loại văn bản nhất định.Mỗi văn bản có một
vai trò nhất định và sẽ được sử dụng trong trường hợp cụ thể.
Ví dụ: Khoản3 điều 4 nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 5 tháng 1 năm
2002 quy định nhiệm vụ quyền hạn của bộ và bộ trưởng:
“3.Ban hành các quyết định chỉ thị thông tư thuộc phạm vi quản lý nhà nước
của bộ và hướng dẫn kiểm tra việc thi hành văn bản đó.”
Như vậy các bộ thuộc chính phủ chỉ được ban hành các chỉ thị,thông tư
thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ
Thứ hai:Xây dựng văn bản pháp luật phải được tiến hành theo thủ tục
pháp luật quy định:
Tất cả các văn bản pháp luật phải được tiến hành theo thủ tục pháp luật
quy định.Thủ tục trong hoạt động xây dựng văn bản là cách thức trật tự tiến
hành các hoạt động cần thiết của chủ thể có thẩm quyền trong quá trình ban
hành văn bản pháp luật.
Thực tế pháp luật quy định nhiều loại thủ tục khác nhau,áp dụng cho việc
xây dựng một nhóm văn bản nhất định bao gồm các hoạt động được tiến

hành theo một trình tự nhất định.Ví dụ:Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật quy định thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật,thủ tục xử
phạt vi phạm hành chính,thủ tục cấp giấy chứng nhận...
Trong hoạt động áp dụng pháp luật thủ tục ban hành văn bản còn được
giới hạn bởi thời gian ban hành văn bản.Thời hạn ban hành văn bản là
khoảng thời gian mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải ra văn bản
pháp luật để giải quyết công việc cụ thể.
Ví dụ:Theo quy định, thời hạn để ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
trong xử phạt về sở hữu công nghiệp là 10 ngày làm việc kể từ ngày lập biên
bản vi phạm hành chính. Thời hạn này là 30 ngày làm việc trong trường hợp
có nhiều tình tiết phức tạp, cần giám định. Trong trường hợp cần tiếp tục xác
minh, thu thập chứng cứ thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn 30
ngày làm việc, người có thẩm quyền xử phạt phải báo cáo bằng văn bản với
thủ trưởng trực tiếp của mình. (Điều 56 Pháp lệnh XLVPHC, Điều 21 Nghị
định 134/2003/NĐ-CP).
2
Thứ 3: Xây dựng văn bản pháp luật phải được tiến hành đúng chuyên
môn nghiệp vụ:
+Khảo sát thực tiễn:
Khảo sát thực tiễn là xâm nhập thực tiễn để nắm bắt thực trang những tồn
tại xã hội liên quan tới nội dung văn bản,tạo điều kiện cần thiết cho tính khả
thi của văn bản pháp luật.Trong hoạt động xây dựng văn bản pháp luật,việc
khảo sát thực tiễn dựa trên những phát hiện về nhu cầu điều chỉnh các quan
hệ xã hội ở giai đoạn nhất định.Cần khảo sát các quan hệ xã hội với những
biểu hiện đa dạng,linh hoạt,về thực tiễn hoạt động quản lý của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.Thực trạng hệ thống pháp luật về vấn đề có liên quan
đến văn bản soạn thảo từ đó đưa ra định hướng tác động của nhà nước.
Để hoạt động khảo sat có hiệu quả cần phối hợp hài hòa giữa việc khảo sát
trực tiếp và gián tiếp.(Nghiên cứu báo cáo cấp dưới,thu thập thông tin qua
hội thảo,đơn thư khiếu nại tố cáo...)

+Nghiên cứu:
Nghiên cứu là việc nắm bắt đường lối chính sách của đảng pháp luật của
nhà nước,lí luận khoa học và những kinh nghiệm thực tiễn về vấn đề có liên
quan đến chủ đề dự thảo văn bản nhằm đảm bảo các yêu cầu về chính trị
pháp lí,kĩ thuật đối với văn bản pháp luật. Hoạt động nghiên cứu trước hết
được tiến hành bằng việc thu thập lựa chọn các tài liệu cần thiết cho việc
soạn thảo văn bản pháp luật và việc nghiên cứu những tài liệu đó.
Thông thường các tài liệu phục vụ hoạt động nghiên cứu sẽ tập trung vào
vấn đề:Đường lối,chính sách của đảng và pháp luật của nhà nước,những tài
liệu có liên quan đến thực tiễn hình thành phát triển vấn đề,thực tiễn điều
chỉnh pháp luật hiện hành.Ngoài ra còn những thông tin pháp luật nước
ngoài và thực tiễn áp dụng.Đó là nguồn thông tin quan trọng để so sánh đối
chiếu với pháp luật nước ta và học tập rút kinh nghiệm.
+Soạn thảo:
Là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc hình thảnh dự
thảo văn bản pháp luật.Hoạt động này tiến hành theo nhiều quy trình khác
nhau.
Soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có sự tham gia của nhiều chủ
thể,trong nhiều trường hợp chủ thể soạn thảo không phải là chủ thể ban hành
văn bản.Nhìn chung quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật bao
gồm:viết dự thảo,và thảo luận góp ý kiến đối với dự thảo.
Văn bản áp dụng và văn bản hành chính thì không cần xây dựng đề cương
soạn thảo mà giao cho một số người có nhiệm vụ soạn thảo,lấy ý kiến của cơ
quan tổ chức,cá nhân liên quan nếu xét thấy cần thiết.
+Thẩm định dự thảo:
3
Thẩm định dự thảo văn bản pháp luật là hoạt động của một số cơ quan
chuyên môn có thẩm quyền trong việc xem xét đánh giá toàn diện khác quan
đối với dự thảo văn bản trình cơ quan chuyên môn có thẩm quyền ban hành.
Hoạt động thẩm định bao gồm:

-Cơ quan chuyên môn có chức năng nhiệm vụ thực hiện hoạt động thẩm
định dự thảo văn bản trước khi trình cơ quan có thẩm qyền ban hành.
-Cơ quan chuyên môn có hoạt động liên quan đến nội dung linh vực mà văn
bản điều chỉnh.
Về hình thức thể hiện ý kiến thẩm định có hai cách là:
-văn bản dưới dạng công văn thẩm định,kết luận thẩm định(Áp dụng với văn
bản quy phạm pháp luật)
- Kí tắt trong dự thảo văn bản(áp dụng với văn bản áp dụng pháp luật và văn
bản hành chính)
+Thông qua văn bản pháp luật:
Để quyết định việc có thông qua dự thảo hay không cơ quan có thẩm
quyền cần phải xác định:sự cần thiết phải ban hành văn bản pháp luật,sự phù
hợp của dự thảo với chủ trường đương lối của đảng,pháp luật nhà nước,tính
hợp lí,khả thi,kĩ thuật soạn thảo.
Tùy trường hợp,cơ quan có thẩm quyền có thể:
- Thông qua dự thảo văn bản mà không sửa đổi bổ sung
- Thông qua sau khi đã bổ sung sửa đổi một số nội dung nhất định
- Trả dự thảo cho cơ quan soạn thảo để soạn thảo lại.
Nếu cơ quan ban hành văn bản tổ chưc shoạt động theo chế độn thủ trưởng
cá nhân thi người đứng đầu cơ quan có quyền xem xét thông qua văn bản.
Nếu cơ quan ban hành văn bản tổ chức và hoạt động theo chế độ thủ trưởng
tập thể thì việc xem xét thông qua dự thảo văn bản được tiến hành theo hình
thức thảo luận tập thể và thông qua đa số.
+Kí văn bản pháp luật:
Là hoạt động của chủ thể có thẩm quyền của nhà nước sử dụng chữ kí đã
đăng kí với nhà nước để minh chứng văn bản pháp luật đã được chủ thể có
thẩm quyền thông qua đúng thủ tục và thể thức do pháp luật quy định.Ví dụ
như thủ tướng chính phủ thay mặt chính phủ kí các nghị định,trưởng phòng
cảnh sát quận kí quyết định xử phạt hành chính...
+Ban hành văn bản pháp luật:

Là việc đưa văn bản tới đối tượng tác động để thực hiện.Tùy theo loại văn
bản pháp luật và cơ quan ban hành văn bản hình thức ban hành văn bản có
những cách sau đây:Công bố,đăng công báo của chính phủ,công báo địa
phương,đưa lên mạng internet,gửi qua bưu điện,giao nhận trực tiếp,niêm yết
tại trụ sở cơ quan ban hành văn bản hoặc những nơi công cộng.
4

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×