Tải bản đầy đủ (.pdf) (204 trang)

Dạng bị động trong tiếng Pháp và những phương thức biểu đạt tương đương trong tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 204 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
**************************


ĐINH HỒNG VÂN



DẠNG BỊ ĐỘNG TRONG TIẾNG PHÁP
VÀ NHỮNG PHƯƠNG THỨC BIỂU ĐẠT
TƯƠNG ĐƯƠNG TRONG TIẾNG VIỆT




LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC





Hà Nội - 2006


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
**************************


ĐINH HỒNG VÂN


DẠNG BỊ ĐỘNG TRONG TIẾNG PHÁP
VÀ NHỮNG PHƯƠNG THỨC BIỂU ĐẠT
TƯƠNG ĐƯƠNG TRONG TIẾNG VIỆT


CHUYÊN NGÀNH : LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
MÃ SỐ : 5.04.08 (62.22.01.01)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC


Người hướng dẫn khoa học : GS. TS. ĐINH VĂN ĐỨC


Hà Nội - 2006



3
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 7
PHẦN MỞ ĐẦU : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 7
1. Lý do chọn đề tài 7

2. Mục đích của luận án 9
3. Đối tƣợng và nội dung nghiên cứu 10
4. Giả thuyết nghiên cứu 11
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 11
6. Phƣơng pháp và tƣ liệu nghiên cứu 12
7. Bố cục của luận án 13
CHƢƠNG 1 : NHỮNG NỘI DUNG LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 15
1.1. Những quan niệm chung về dạng bị động 15
1.1.1. Dạng và dạng bị động 15
1.1.1.1. Dạng là gì ? 15
1.1.1.2. Kết cấu là gì ? 17
1.1.1.3. Dạng bị động là gì ? 18
1.1.2. Dạng bị động trong ngữ pháp truyền thống 18
1.1.3. Dạng bị động trong ngữ pháp cải biến-tạo sinh 20
1.1.4. Dạng bị động trong loại hình học cú pháp 22
1.1.5. Dạng bị động trong ngữ pháp ngữ nghĩa-chức năng 23
1.1.5.1. Dạng bị động xét trên phƣơng diện chức năng dụng học 24
1.1.5.2. Dạng bị động xét trên phƣơng diện cấu trúc ngữ nghĩa 24
1.1.5.3. Dạng bị động xét trên phƣơng diện hình thái cú pháp 24
1.2. Những lý luận phổ biến liên quan đến dạng bị động của tiếng Pháp 24
1.2.1. Định nghĩa dựa trên ngữ nghĩa 25
1.2.2. Định nghĩa dựa trên hình thái 26
1.2.3. Định nghĩa dựa trên cú pháp 28
1.2.4. Định nghĩa dựa trên cả ngữ nghĩa lẫn hình thái 31
1.2.5. Định nghĩa dựa trên cả hình thái lẫn cú pháp 31
1.3. Vấn đề "bị động" trong tiếng Việt 34
1.3.1. Các quan niệm cho rằng tiếng Việt không có cấu trúc bị động 34
1.3.2. Các quan niệm cho rằng tiếng Việt có cấu trúc bị động 37
1.4. Phong cách học và việc sử dụng dạng bị động 45
CHƢƠNG 2 : NHỮNG PHƢƠNG DIỆN CƠ BẢN CỦA DẠNG BỊ ĐỘNG TRONG

TIẾNG PHÁP 47
2.1. Dạng bị động nhìn từ phƣơng diện cấu trúc hình thức 47
2.1.1. Một số miêu tả và nhận xét về dạng bị động trong tiếng Pháp 47
2.1.1.1. Vấn đề hình thái học động từ bị động 48

4
2.1.1.2. Sự hoán đổi vị trí giữa chủ ngữ và bổ ngữ của động từ 50
2.1.1.3. Vấn đề bổ ngữ chỉ tác nhân 51
2.1.1.4. Sự lựa chọn giới từ dẫn nhập bổ ngữ chỉ tác nhân 52
2.1.1.5. Động từ có hai bổ ngữ 63
2.1.2. Các kiểu cấu trúc bị động có mặt trong ngữ liệu 64
2.1.2.1. Những cấu trúc bị động cơ bản trong tiếng Pháp 66
2.1.2.2. Các cấu trúc khác thể hiện ý nghĩa bị động trong tiếng Pháp 69
2.1.2.3. Dạng bị động đầy đủ và dạng bị động khuyết thiếu 70
2.1.3. Tần số sử dụng dạng bị động trong các dạng văn bản tiếng Pháp 72
2.1.3.1. Tần số sử dụng dạng bị động trong phong cách văn chƣơng 72
2.1.3.2. Tần số sử dụng dạng bị động trong phong cách hành chính công vụ 74
2.1.3.3. Tần số sử dụng dạng bị động trong phong cách khoa học và báo chí công
luận 75
2.1.3.4. Tần số sử dụng dạng bị động trong phong cách sinh hoạt hàng ngày 79
2.2. Dạng bị động nhìn từ phƣơng diện ngữ nghĩa 80
2.2.1. Một số nhận xét 80
2.2.1.1. Vấn đề đồng nghĩa giữa câu bị động và câu chủ động 80
2.2.1.2. Vấn đề "hành động phải chịu đựng" 82
2.2.1.3. Bị thể bị biến đổi 85
2.2.2. Những ràng buộc về mặt ngữ nghĩa của dạng bị động 86
2.2.2.1. Sự đối lập trạng thái/hành động 87
2.2.2.2. Sự đối lập nghĩa đen/nghĩa bóng 91
2.2.3. Chức năng của dạng bị động trong tiếng Pháp 93
2.2.3.1. Dạng bị động cho phép tránh nêu chủ thể hành động 96

2.2.3.2. Dạng bị động hƣớng sự chú ý vào đối tƣợng của hành động 98
2.2.3.3. Dạng bị động hƣớng sự chú ý vào chủ thể hành động 100
2.2.3.4. Dạng bị động trình bày sự việc theo góc nhìn của đích thể, nhấn mạnh tiến
trình của hành động 101
2.2.3.5. Dạng bị động bảo đảm tính liên kết đề tài 102
Tiểu kết 105
CHƢƠNG 3 : VIỆC CHUYỂN DỊCH CẤU TRÚC BỊ ĐỘNG TỪ TIẾNG PHÁP
SANG TIẾNG VIỆT 106
3.1. Một số miêu tả 106
3.1.1. Việc diễn đạt ý nghĩa bị động trong tiếng Việt 106
3.1.1.1. Những biện luận cho sự tồn tại của lối nói tiếp thụ-bị động tiếng Việt 107
3.1.1.2. Cấu trúc bị động hiện có trong tiếng Việt 112
3.1.1.3. So sánh lịch đại về tần số sử dụng cấu trúc bị động tiếng Việt 134
3.1.2. Việc chuyển dịch cấu trúc bị động tiếng Pháp sang tiếng Việt 135
3.1.2.1. Việc chuyển dịch cấu trúc bị động trong tác phẩm Miếng da lừa 136
3.1.2.2. Việc chuyển dịch cấu trúc bị động trong Hiến pháp CH Pháp 1958 140
3.2. Bàn luận 141
3.2.1. Những nét tƣơng đồng giữa dạng bị động của tiếng Pháp với lối nói tiếp thụ-bị
động của tiếng Việt 141
3.2.1.1. Về mặt hình thức 141

5
3.2.1.2. Về mặt chức năng và ý nghĩa 142
3.2.2. Những nét dị biệt giữa dạng bị động của tiếng Pháp với lối nói tiếp thụ-bị động
của tiếng Việt 143
Tiểu kết 146
CHƢƠNG 4 : MỘT KHẢO SÁT VỀ VIỆC SỬ DỤNG DẠNG BỊ ĐỘNG Ở NGƢỜI
VIỆT NAM HỌC TIẾNG PHÁP 148
4.1. Đặt vấn đề 148
4.1.1. Đối tƣợng khảo sát 148

4.1.2. Mục đích 150
4.1.3. Phƣơng pháp 150
4.1.4. Một số kết quả khảo sát 151
4.1.4.1. Dịch ngôn ngữ hành chính công vụ 151
4.1.4.2. Dịch ngôn ngữ văn học 162
4.1.4.3. Dịch ngôn ngữ báo chí-công luận 172
4.2. Bàn luận 179
4.2.1. Một số lỗi đã gặp trong cách sử dụng dạng bị động 179
4.2.2. Nguyên nhân mắc lỗi trong cách sử dụng dạng bị động 182
4.2.3. Một số gợi ý về hƣớng giải quyết 183
4.2.3.1. Điều chỉnh cách dạy dạng bị động tiếng Pháp 184
4.2.3.2. Tăng cƣờng so sánh đối chiếu giữa tiếng Pháp và tiếng Việt. 186
4.2.3.3. Xác định rõ yêu cầu về tính trung thành trong dịch thuật 187
Tiểu kết 190
KẾT LUẬN 191
NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN 196
TÀI LIỆU THAM KHẢO 197


6
TỪ VIẾT TẮT
Adj à INF
Tính từ + động từ nguyên thể
C
Chủ ngữ
Ctbd
Cấu trúc bị động
d
Giới từ

de + SN
Giới từ DE + danh ngữ
être + PP
Động từ être + phân từ quá khứ
FF
1,2,…7
Cấu trúc bị động tiếng Pháp
N à INF
Danh từ + động từ nguyên thể
ND
Người dịch
P
1
Câu
par + SN
Giới từ PAR + danh ngữ
PPP
phân từ quá khứ bị động
PPR
Mệnh đề bị động
SN
Danh ngữ
SN
1
Danh ngữ tác thể
SN
2
Danh ngữ đích thể
Ts
Tổng số

V
Verbe, động từ
VF
1,2, …7
Cấu trúc bị động tiếng Việt


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1: Tỷ lệ các cấu trúc bị động trong ngữ liệu 67
Bảng 2 : Tỷ lệ các cấu trúc bị động trong tác phẩm Miếng da lừa 73
Bảng 3 : Cấu trúc bị động trong Hiến pháp CH Pháp 1958 74
Bảng 4: Tỷ lệ câu bị động tiếng Pháp trong các bài báo và báo cáo khoa học 76
Bảng 5 : Tỷ lệ câu bị động trong ngôn ngữ nói 78
Bảng 6 : Tỷ lệ các cấu trúc bị động trong các bài báo và các báo cáo khoa học 78
Bảng 7 : Tần số của dạng bị động trong phong cách sinh hoạt hàng ngày 80
Bảng 8 : Tỷ lệ cấu trúc bị động trong ngữ liệu tiếng Việt 113
Bảng 9 : Tần số sử dụng cấu trúc bị động thời kỳ trƣớc 1954 135
Bảng 10 : Tần số sử dụng cấu trúc bị động thời kỳ sau 2000 135
Bảng 11 : Kết quả dịch một số câu từ Hiến pháp CH Pháp 1958 153
Bảng 12 : Kết quả dịch một số câu trích từ Hiến pháp CHXHCNVN 1992 160
Bảng 13 : Kết quả dịch một số câu trích từ một số tác phẩm văn học Pháp 164

7
PHẦN MỞ ĐẦU : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1. Lý do chọn đề tài
Luận án này nghiên cứu một phƣơng tiện ngữ pháp tiếng Pháp đó là dạng bị
động (voix passive) cũng nhƣ những khả năng biểu đạt tƣơng đƣơng ý nghĩa đó ở
tiếng Việt.


1.1. Ý nghĩa lý luận
Dạng bị động là một hiện tƣợng ngữ pháp phổ biến trong các ngôn ngữ châu
Âu nói chung (tức là các ngôn ngữ khuất chiết hoặc ngôn ngữ có biến hình) cũng
nhƣ trong tiếng Pháp
Đây là một hiện tƣợng đặc biệt của động từ giúp ngƣời ta biểu đạt tƣ tƣởng
một cách phong phú hơn, nhất là qua ngôn ngữ viết và làm phong phú thêm các
phƣơng tiện phong cách. Dạng bị động và dạng chủ động làm thành một cặp đối lập
ngữ pháp mà ta gọi là phạm trù dạng. Ví dụ :
- L'agneau a été mangé par le loup. // Le loup a mangé l'agneau.
(Con cừu non bị con sói ăn thịt. // Con sói ăn thịt con cừu non.)
Ví dụ này cho thấy dạng bị động không phải là đơn nhất cho nên ngƣời sử
dụng có quyền chọn lựa và điều đó cũng có nghĩa là bên cạnh đặc trƣng ngữ pháp
thì dạng bị động này còn thể hiện chức năng phong cách của cú pháp.
Trong tiếng Pháp, dạng bị động là một phƣơng tiện biểu đạt xuất hiện muộn
hơn, chủ yếu là trong văn viết và ở một số phong cách nhất định. Việc nghiên cứu
dạng bị động tiếng Pháp trong mối liên hệ so sánh với tiếng Việt sẽ cho phép :
- làm sáng tỏ một số vấn đề về cách ứng xử của ngƣời Pháp.
- việc tìm hiểu về lối nói tiếp thụ-bị động ở tiếng Việt và có thể cũng sẽ làm
sáng tỏ một số vấn đề ngữ pháp tiếng Việt.
- Trong tình hình đó, luận án sẽ góp phần vào kho tàng lý luận tiếng Việt : cụ
thể là nguồn gốc và lai lịch của lối nói bị động trong tiếng Việt; vai trò và

8
ảnh hƣởng của tiếng Pháp đối với tiếng Việt trong cách diễn đạt ý nghĩa bị
động.
- Luận án này cũng sẽ góp phần củng cố quan điểm cho rằng cùng một ý nghĩa
ngữ pháp nhƣng có thể đƣợc biểu đạt bằng những phƣơng thức khác nhau ở
các ngôn ngữ khác nhau.


1.2. Ý nghĩa thực tiễn
Theo các nhà nghiên cứu, ý nghĩa bị động tồn tại ở hầu hết các ngôn ngữ, sự
khác biệt là ở cách biểu đạt ý nghĩa này. Đối với các ngôn ngữ châu Âu thì dạng bị
động là một hiện tƣợng quen thuộc, còn ở tiếng Việt thì đây là một hiện tƣợng ngữ
pháp đang phát triển. Vì vậy, khi học tiếng Pháp, do quen diễn đạt theo lối chủ
động, ngƣời Việt Nam ít dùng dạng bị động khi diễn đạt bằng tiếng Pháp. Về phần
mình, các dịch giả không tránh khỏi một số băn khoăn khi phải chuyển một ý nào
đó đƣợc thể hiện dƣới dạng một câu bị động trong tiếng Pháp sang tiếng Việt.

Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đối chiếu cách biểu đạt ý nghĩa
bị động ở tiếng Việt với nhiều thứ tiếng khác mà chúng tôi có thể đơn cử ra ở đây
nhƣ luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học "Analyse contrastive du passif en français et en
vietnamien" của Nguyễn Văn Hoàng [106], "So sánh ngữ nghĩa, ngữ pháp của
được, bị, phải trong tiếng Việt với ban, t'râw trong tiếng Khmer." của Vũ Đức
Nghiệu [39], "Một số nhận xét loại câu bị động của tiếng Việt và tiếng Nhật" của
Nguyễn Thị Việt Thanh [49], luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học "Câu bị động tiếng
Anh và cấu trúc tương đương trong tiếng Việt" của Bùi Thị Diên [19], v.v… Tất cả
các công trình nghiên cứu này đều rút ra một nhận xét chung là : tuy có nhiều khác
biệt về mặt loại hình với nhiều ngôn ngữ, tiếng Việt vẫn có đủ phƣơng tiện để biểu
đạt ý nghĩa bị động. Điều này đã đƣợc tác giả Vƣơng Toàn khẳng định lại trong một
phạm vi rộng hơn :"[…] tiếng Việt và tiếng Pháp là hai ngôn ngữ khác biệt về loại
hình, do vậy mỗi ngôn ngữ có những nét đặc thù riêng biệt. Là một ngôn ngữ đơn
lập, tiếng Việt không có hệ thống các biến tố chỉ giống, số, thời, thể … như trong

9
tiếng Pháp nhưng cần lưu ý rằng không phải nó không có những hình thức ngôn
ngữ biểu hiện thích hợp các phạm trù khi cần." [59] Trong bối cảnh đó, luận án này
sẽ đi theo hƣớng đối chiếu hai ngôn ngữ Pháp và Việt về vấn đề dạng bị động. Để
không lặp lại điều khá phổ biến trƣớc đây, theo nhƣ nhận xét của tác giả Đƣờng
Công Minh là "Những công trình của họ thường dừng lại ở cấp lý thuyết, vĩ mô,

mang mục đích so sánh cơ bản, chưa quan tâm nhiều đến địa hạt sư phạm của ngôn
ngữ học đối chiếu." [37], luận án này sẽ đi sâu vào phân tích thực tiễn cách biểu đạt
ý nghĩa bị động trong hai ngôn ngữ ở trên bình diện ngôn ngữ nói chung cũng nhƣ
trên góc độ ngƣời học nói riêng để làm nổi rõ không chỉ những nét dị biệt mà cả
những nét tƣơng đồng giữa tiếng Việt và tiếng Pháp trong những vấn đề liên quan
đến việc biểu đạt ý nghĩa bị động.

Luận án này, sẽ góp phần :
- nâng cao chất lƣợng dạy và học tiếng Pháp ở ngƣời Việt Nam, giúp nắm
vững cách sử dụng dạng bị động tiếng Pháp theo phong cách của ngƣời
Pháp;
- làm sáng tỏ thêm một vài vấn đề có tính thực tiễn trong thực hành dịch, đặc
biệt là các cách chuyển dịch dạng bị động từ tiếng Pháp sang tiếng Việt.
- Nghiên cứu khả năng chuyển tải dạng bị động từ tiếng Pháp sang tiếng Việt
sẽ góp phần vào việc khai thác những khả năng tiềm tàng của tiếng Việt để
thực hiện các sắc thái ý nghĩa khác nhau của hiện tƣợng ngữ pháp này, làm
cho tiếng Việt có thể tiếp tục phát triển mà vẫn giữ đƣợc những nét đẹp riêng
vốn có của nó trong quá trình tiếp xúc với các ngôn ngữ khác.

2. Mục đích của luận án
- Mục đích của luận án này là nghiên cứu một hiện tƣợng ngữ pháp của tiếng
Pháp trong mối liên hệ so sánh với tiếng Việt đó là dạng bị động.

10
- Luận án sẽ xem xét một cách cụ thể các vấn đề về cấu trúc, ý nghĩa và vai trò
của dạng bị động.
- Luận án sẽ nhấn mạnh vào những nét tƣơng đồng vì cho dù cả hai ngôn ngữ
đều có những cấu trúc tƣơng đối giống nhau để biểu đạt ý nghĩa bị động,
nhƣng chính những nét tƣơng đồng này đã gây cho ngƣời học không ít
những điều ngộ nhận và khó khăn, nhất là khi trong tiếng Việt có sự khác

biệt trong việc sử dụng các từ bị/đƣợc. Vả lại điều này cũng đúng nhƣ nhận
xét của tác giả Vƣơng Toàn :"Hiểu và tiếp thu cái khác biệt đã khó nhưng
đối với những cái tương đồng cũng chẳng phải lúc nào cũng dễ dàng, bởi
mỗi ngôn ngữ thường phải tuân thủ những quy tắc riêng của nó, cái khiến
cho chúng không phải là đồng nhất : trong tương đồng có chỗ khác biệt và
trong khác biệt cũng có lúc tương đồng." [59]
- Tất cả mọi công việc sẽ đƣợc tiến hành dựa trên một cơ sở ngữ liệu là những
câu có thực. Với cách làm nhƣ vậy, luận án này có thể góp phần giải quyết
một số vấn đề liên quan đến dạng bị động trong tiếng Pháp cũng nhƣ trong
tiếng Việt.

3. Đối tƣợng và nội dung nghiên cứu
Trên nguyên tắc, việc nghiên cứu của luận án này phải tính tới toàn bộ các
kiểu câu tiếng Pháp có sử dụng dạng bị động. Nhƣng nếu đi vào nghiên cứu sâu tất
cả các cấu trúc tiếng Pháp có thể biểu đạt ý nghĩa bị động thì sẽ là quá lớn nên luận
án chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu chi tiết một số cấu trúc phổ biến nhất.
Luận án sẽ không có tham vọng đi sâu nghiên cứu để tìm lời giải cho bài
toán trong tiếng Việt có câu bị động hay không mà chỉ dừng lại ở việc mô tả, ghi
nhận những cấu trúc hiện có trong tiếng Việt có khả năng biểu đạt ý nghĩa bị động.
Luận án này cũng sẽ dựa trên một số văn bản đã đƣợc dịch từ tiếng Pháp
sang tiếng Việt để có thể phát hiện những phƣơng tiện tƣơng đƣơng cho phép
chuyển dạng bị động từ tiếng Pháp sang tiếng Việt.

11

4. Giả thuyết nghiên cứu
Với luận án này, chúng tôi có những giả thuyết sau :
- Trong tiếng Pháp cũng nhƣ trong tiếng Việt đều có những phƣơng tiện cần
thiết để thể hiện ý nghĩa bị động. Song, dạng bị động của động từ là một hiện
tƣợng phổ biến trong tiếng Pháp còn trong tiếng Việt thì không hẳn nhƣ vậy.

- Vì mỗi ngôn ngữ đều có những cách riêng để thể hiện ý nghĩa bị động nên
nếu không có sự so sánh đối chiếu giữa hai ngôn ngữ thì ngƣời học khó có
thể làm chủ đƣợc ngoại ngữ với tƣ cách là một phƣơng tiện giao tiếp hữu
hiệu.
- Vì lối nói tiếp thụ - bị động của tiếng Việt chịu ảnh hƣởng ít nhiều của dạng
bị động tiếng Pháp, nhất là thông qua con đƣờng dịch thuật nên nếu dịch giả
hiểu rõ đặc điểm của từng ngôn ngữ thì sẽ hạn chế đƣợc những chuyển di
tiêu cực.
- Nếu áp dụng phƣơng pháp tiếp cận về ngữ nghĩa cũng nhƣ làm rõ những nét
tƣơng đồng và những nét dị biệt giữa hai ngôn ngữ chứ không chỉ dừng lại ở
việc rèn luyện cấu trúc thì sẽ nâng cao đƣợc chất lƣợng dạy và học tiếng
Pháp nói chung và khắc phục đƣợc những khó khăn trƣớc dạng bị động tiếng
Pháp nói riêng.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án này sẽ có các nhiệm vụ sau :
1- Tìm hiểu lịch sử vấn đề dạng bị động và quan niệm lý luận của một số tác
giả có uy tín về dạng bị động nói chung và về dạng bị động trong tiếng
Pháp nói riêng;
2- Mô tả và khảo sát các cấu trúc cú pháp biểu thị ý nghĩa bị động trong
tiếng Pháp;

12
3- Tìm hiểu các chức năng của dạng bị động trong tiếng Pháp;
4- Nghiên cứu việc diễn đạt ý nghĩa bị động trong tiếng Việt sử dụng một số
từ nhƣ "bị, được, do, v.v ";
5- Tìm những cách dạy có hiệu quả để giúp cho ngƣời Việt Nam khi học
tiếng Pháp có khả năng sử dụng đƣợc hiện tƣợng ngữ pháp này trong các
quá trình hiểu (nghe - đọc) và nhất là trong diễn đạt (nói - viết).
6- Nghiên cứu những khả năng chuyển tải dạng bị động với những ý nghĩa

chức năng khác nhau từ tiếng Pháp sang tiếng Việt và ngƣợc lại để có thể
đƣa ra những đề nghị hữu ích cho công tác dịch thuật Pháp-Việt, Việt-
Pháp khi gặp hiện tƣợng ngữ pháp này.

6. Phƣơng pháp và tƣ liệu nghiên cứu
6.1. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp trình bày của luận án là quy nạp. Luận án đã sử dụng một loạt
các phƣơng pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học nhƣ mô tả, phân tích, so sánh, đối
chiếu, và các thao tác cụ thể nhƣ lƣợc, thế, chêm xen, để tìm hiểu hiện tƣợng dạng bị
động trong tiếng Pháp và trong các lối nói tiếp thụ của ngƣời Việt Nam.
Vì phải có sự liên hệ giữa hai ngôn ngữ, nên quá trình thực hiện luận án này
cũng phải dựa vào các phƣơng pháp nghiên cứu liên văn hoá nhằm tìm hiểu các
giao thoa văn hoá thông qua việc khảo sát một số bản dịch từ tiếng Pháp sang tiếng
Việt và theo chiều ngƣợc lại để tìm hiểu những cái thoả đáng, cái chƣa thoả đáng
trong quá trình chuyển dịch dạng bị động sang tiếng Việt.
6.2. Tƣ liệu nghiên cứu
- Nguồn tƣ liệu phục vụ cho việc nghiên cứu dạng bị động trong tiếng Pháp, sẽ
đƣợc thu thập từ các văn bản viết có phong cách khác nhau (báo chí, báo cáo
khoa học, văn học, chính luận); một số kiểu hội thoại.
- Việc nghiên cứu khả năng chuyển dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt sẽ đƣợc
tiến hành dựa trên một số bản dịch của một số báo cáo khoa học, một số bài

13
báo, cũng nhƣ của một số tác phẩm văn học Pháp quen thuộc đối với ngƣời
Việt Nam.
- Cơ sở để nghiên cứu cách giảng dạy dạng bị động của tiếng Pháp cho ngƣời
Việt Nam là các dạng bài tập đã và đang đƣợc sử dụng cũng nhƣ các câu thu
thập đƣợc qua các bài viết và nói của ngƣời học ở các trình độ khác nhau.

7. Bố cục của luận án

Phần mở đầu : Những vấn đề chung
Phần nội dung :
Chƣơng 1 : Những nội dung lý luận liên quan đến đề tài
Những quan niệm chung về dạng bị động
Những lý luận phổ biến liên quan đến dạng bị động của tiếng Pháp
Vấn đề "bị động" trong tiếng Việt
Phong cách học và dạng bị động
Chƣơng 2 : Những phƣơng diện cơ bản của dạng bị động trong tiếng Pháp
2.1. Dạng bị động nhìn từ phƣơng diện cấu trúc hình thức
2.1.1. Một số nhận xét và miêu tả dạng bị động trong tiếng Pháp
2.1.2. Các kiểu cấu trúc bị động có trong ngữ liệu
2.1.3. Tần số sử dụng của dạng bị động trong các dạng văn bản tiếng Pháp
2.2. Dạng bị động nhìn từ phƣơng diện ngữ nghĩa
2.2.1. Những ràng buộc về mặt ngữ nghĩa của dạng bị động
2.2.2. Chức năng của dạng bị động trong tiếng Pháp
Chƣơng 3 : Việc chuyển dịch cấu trúc bị động từ tiếng Pháp sang tiếng Việt
3.1. Một số miêu tả việc chuyển dịch cấu trúc bị động tiếng Pháp sang tiếng
Việt
3.1.1. Việc chuyển dịch cấu trúc bị động tiếng Pháp sang tiếng Việt
3.1.2. Việc diễn đạt ý nghĩa bị động trong tiếng Việt
3.2. Bàn luận

14
3.2.1. Những nét tƣơng đồng giữa dạng bị động của tiếng Pháp với việc diễn
đạt ý nghĩa bị động của tiếng Việt
3.2.2. Những nét dị biệt giữa dạng bị động của tiếng Pháp với lối nói tiếp
thụ-bị động của tiếng Việt
Chƣơng 4 : Thực trạng của việc sử dụng dạng bị động ở ngƣời Việt Nam học
tiếng Pháp
4.1. Đặt vấn đề

4.2. Bàn luận
4.2.1. Một số lỗi thƣờng gặp trong cách sử dụng dạng bị động
4.2.2. Nguyên nhân mắc lỗi trong cách sử dụng dạng bị động
4.2.3. Một số đề xuất về hƣớng giải quyết
Kết luận
Tài liệu tham khảo

15

CHƢƠNG 1 : NHỮNG NỘI DUNG LÝ LUẬN LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI

Chƣơng này nhằm giới thiệu những vấn đề mang tính lý luận làm cơ sở cho
luận án. Trƣớc tiên sẽ là các quan điểm cơ bản về dạng bị động nói chung. Phần tiếp
theo sẽ đƣợc dành riêng để trình bày những lý luận phổ biến có liên quan đến dạng
bị động của tiếng Pháp. Một số quan niệm cơ bản về vấn đề "bị động" trong tiếng
Việt sẽ là nội dung chính của phần thứ 3 của chƣơng này. Phần thứ 4 của chƣơng sẽ
đƣợc dành cho những lý luận liên quan đến vấn đề phong cách.
1.1. Những quan niệm chung về dạng bị động
Ở phần này, đề tài sẽ điểm qua các cách quan niệm cơ bản về dạng bị động
nói chung để có thể có đƣợc một bức tranh chung về hiện tƣợng ngữ pháp này.
Trƣớc tiên, chúng ta sẽ điểm qua một số khái niệm cơ bản có liên quan đến dạng bị
động nhƣ : dạng, dạng bị động, kết cấu bị động, câu bị động, sau đó sẽ là quan niệm
về dạng bị động trong các trƣờng phái ngữ pháp khác nhau.
1.1.1. Dạng và dạng bị động
1.1.1.1. Dạng là gì ?
Có nhiều tác giả đã đƣa ra các định nghĩa về "dạng của động từ". Nhìn
chung, dạng đƣợc coi là một phạm trù ngữ pháp phổ biến của động từ, giống nhƣ
giống, số, cách, ngôi, v.v… Theo Maurice Grévisse, "Dạng thể hiện mối quan hệ
giữa một bên là động từ, với một bên là chủ ngữ (hoặc bổ ngữ chỉ tác nhân) và bổ

ngữ trực tiếp." [100:1121]. Theo quan niệm này, trong tiếng Pháp có dạng chủ
động, dạng bị động và dạng phản thân.
- Dạng chủ động : khi chủ ngữ chính là chủ thể hành động, còn bổ ngữ trực
tiếp của động từ chính là đối tƣợng của hành động : "Les spectateurs ont
piétiné la pelouse."(Khán giả giẫm lên thảm cỏ.);

16
- Dạng bị động : khi câu có một ngoại động từ và có thể cải biến sao cho
nghĩa sâu (sens profond) không thay đổi nhƣng có thể cho phép đối tƣợng
của hành động lên giữ vị trí chủ ngữ, chủ thể của hành động nếu xuất hiện
trong câu thì sẽ xuống giữ vai trò bổ ngữ chỉ tác nhân, còn động từ thì sẽ có
một dạng đặc biệt đó là sự kết hợp giữa trợ động từ être và phân từ quá khứ:
"La pelouse a été piétinée par les spectateurs." (Thảm cỏ bị khán giả giẫm lên.);
- Dạng phản thân : khi động từ có bổ ngữ chỉ đối tƣợng hình thức là một đại
từ có quy chiếu là chủ ngữ (G. Mauger, 117: 291) : Les vendanges se font à
la fin de l'été. (Vụ thu hoạch nho diễn ra vào mùa thu.)

Trong cuốn sách: “Dẫn luận ngôn ngữ học” của Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn
Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết [26:238] có định nghĩa nhƣ sau : "Dạng (thái):
là phạm trù ngữ pháp của động từ, biểu thị quan hệ giữa hành động với các sự vật
nói ở chủ ngữ và bổ ngữ của động từ ấy. Nếu dạng thức của động từ nói lên rằng sự
vật nêu ở chủ ngữ là đối tƣợng mà hành động hƣớng vào, còn kẻ thực hiện hành
động là sự vật nêu ở bổ ngữ, thì đó là dạng bị động của động từ."

Trong A Dictionary of Linguistics & Phonetics của David Crystal, dạng đƣợc
định nghĩa nhƣ sau :"Dạng là một phạm trù được dùng trong việc mô tả cấu trúc
câu hoặc mệnh đề chủ yếu liên quan đến động từ, để thể hiện cách mà các câu có
thể lựa chọn mối quan hệ giữa chủ ngữ và bổ ngữ của động từ, mà không làm thay
đổi nghĩa của câu." [130]


Phạm trù dạng đƣợc thể hiện bằng những hình thức khác nhau tùy theo từng
ngôn ngữ. Chẳng hạn nhƣ ở tiếng La-tinh, dạng đƣợc thể hiện bằng hình thái của
động từ. Ví dụ nhƣ với động từ "yêu, thƣơng", cùng đƣợc chia ở thức chỉ định, thì
hiện tại nhƣng có hình thức khác nhau ở dạng chủ động và ở dạng bị động :



17
Dạng chủ động
Dạng bị động
amo
amor
amas
amaris
amat
amatur
amamus
amamur
amatis
amamini
amant
amantur

Trong khi đó ở tiếng Pháp hoặc tiếng Anh thì lại không có hình thái riêng
biệt cho dạng bị động, dạng này đƣợc thể hiện bằng sự kết hợp giữa trợ động từ
être, trong tiếng Pháp, to be, trong tiếng Anh, với phân từ quá khứ. Ví dụ :
- …, Jacques a surpris le voleur. (Jacques đã bắt gặp tên trộm.)
- Un voleur a été surpris par la police… (Tên trộm đã bị công an bắt gặp.)
- Millions of people have read that book. (Hàng triệu người đã đọc cuốc sách này.)
- That book has been read by millions of people.(Cuốn sách này đã được hàng

triệu người đọc.)
1.1.1.2. Kết cấu là gì ?
Trong ngôn ngữ, nhìn chung, "kết cấu" có thể đƣợc hiểu là sự kết hợp của
nhiều đơn vị ngữ pháp với nhau theo quan hệ ngữ đoạn và có một chức năng nhất
định. Theo định nghĩa trong Dictionnaire de l'Académie française thì "Kết cấu là sự
kết hợp của các từ theo các quy tắc và cách dùng của từng ngôn ngữ" [85]. Vậy,
một kết cấu có thể là một từ, một ngữ, một mệnh đề hoặc một câu. Một kết cấu bị
động có thể là :
- một động từ ở dạng bị động : amor – trong tiếng La tinh
- một động ngữ : a été supris par la police – trong tiếng Pháp
- một mệnh đề : (il craint d'être tué,) alors qu'il a été arrêté à deux reprises
par les autorités ivoiriennes et qu'il a été relâché.
1
(ông ta sợ bị giết, trong khi
đó ông ta đã từng bị nhà cầm quyền Bờ Biển Ngà bắt hai lần và sau đó đã được thả.)

18
- Một câu : Il a ensuite été convoqué par la Police de Bizerte le 4 mai
2005. (Anh ta đã bị cảnh sát của Bizerte triệu tập hôm 4-5-2005).
1.1.1.3. Dạng bị động là gì ?
Theo từ điển Le Trésor de la Langue Française [84], Le passif là tập hợp
của các hình thái động từ bị động (L'ensemble des formes verbales passives.). Le
passif đã đƣợc dịch sang tiếng Việt theo nhiều cách khác nhau : dạng bị động, thái
bị động, cấu trúc bị động hay câu bị động. Trong luận án này, khái niệm le passif sẽ
đƣợc hiểu theo định nghĩa trên đây của từ điển Le Trésor de la Langue Française và
đƣợc dịch theo một trong những cách nói phổ biến đó là dạng bị động.
Dạng bị động là một hiện tƣợng ngữ pháp phổ biến ở các ngôn ngữ Ấn-Âu.
Song, có thể nói là mỗi trƣờng phái ngữ pháp đều có cách quan niệm riêng của
mình về hiện tƣợng ngữ pháp này. Sau đây, chúng ta sẽ lần lƣợt tìm hiểu xem dạng
bị động đƣợc quan niệm nhƣ thế nào trong các trƣờng phái ngữ pháp truyền thống,

cải biến-tạo sinh, loại hình học cú pháp, ngữ nghĩa-chức năng.
1.1.2. Dạng bị động trong ngữ pháp truyền thống
Có thể là do chịu ảnh hƣởng của cách quan niệm ở các ngôn ngữ nhƣ tiếng
La-tinh hoặc Hy-lạp mà các tác giả của ngữ pháp truyền thống thƣờng quan niệm
rằng dạng bị động là một phạm trù hình thái học thuần tuý. G. Mauger [117:199] đã
xếp dạng bị động vào mục chia động từ của tiếng Pháp. Tuy nhiên, ngay cả trong
các ngôn ngữ có phạm trù dạng rõ ràng, khi đề cập đến phạm trù này, các nhà
nghiên cứu, ngoài việc phân biệt dạng chủ động (voix active) với dạng bị động
(voix passive) của động từ ra, còn phải nói đến sự thay đổi vị trí giữa chủ ngữ và bổ
ngữ trực tiếp của động từ. Cụ thể là trong một câu có động từ ở dạng chủ động, chủ
ngữ của câu đồng thời là chủ thể thực hiện hành động và bổ ngữ trực tiếp của câu là
đối tƣợng chịu tác động của hành động. Sau đây là ví dụ do Maurice Grévisse đƣa
ra trong cuốn Le Bon Usage [100], một trong những cuốn cẩm nang ngữ pháp tiếng
Pháp.


19
- Un chauffard a renversé un piéton.
(Một lái xe đi ẩu đã làm ngã một người đi bộ.)


- Un piéton a été renversé par un chauffard.
(Một người đi bộ đã bị làm ngã bởi một lái xe đi ẩu.)
Trong ví dụ này, câu thứ nhất có chủ ngữ ngữ pháp đồng thời là chủ thể hành
động, bổ ngữ trực tiếp là đối tƣợng của hành động, động từ thì ở dạng chủ động; câu
thứ hai, theo quan niệm của ngữ pháp truyền thống, có cùng một nghĩa sâu với câu
thứ nhất, nhƣng quan hệ của chủ thể và đối tƣợng hành động với động từ đã thay
đổi ở chỗ chủ ngữ của câu thứ hai là đối tƣợng của hành động, còn chủ thể hành
động lúc này lại trở thành bổ ngữ chỉ tác nhân, còn động từ thì đã đƣợc chuyển
thành dạng bị động. Câu thứ nhất có động từ ở dạng chủ động, đƣợc gọi là câu chủ

động, câu thứ hai có động từ ở dạng bị động đƣợc gọi là câu bị động.

Nhƣ vậy, dạng bị động không chỉ đơn thuần là một phạm trù hình thái học
mà còn thể hiện mối quan hệ cú pháp của các thành tố trong câu. Cách quan niệm
này của ngữ pháp truyền thống coi dạng bị động nhƣ một phạm trù hình thái học
của động từ, chủ yếu là của động từ ngoại động không hoàn toàn thỏa đáng trên
nhiều phƣơng diện. Theo cách quan niệm này, dạng bị động chỉ có thể đƣợc biểu
hiện bằng hình thái của động từ, trong khi đó nhƣ ta đã thấy thì dạng bị động còn
đƣợc thể hiện cả bằng các phƣơng tiện cú pháp. Mặt khác, cũng theo quan niệm này
thì mỗi động từ ngoại động đều có thể tồn tại ở 2 dạng chủ động và bị động. Trong
thực tế thì nhƣ ở tiếng Pháp chẳng hạn, có nhiều động từ nhƣ avoir, peser, … chỉ có
thể tồn tại ở dạng chủ động mà không có dạng bị động tƣơng ứng :
- J'ai 20 ans. (Tôi 20 tuổi.)(Là một câu đúng)
- * 20 ans ont été eus par moi. (*20 tuổi đã có bởi tôi.)(Là một câu đúng ngữ
pháp nhƣng không tồn tại trong tiếng Pháp)
- Je pèse 70 kilos. (Tôi nặng 70 kg.)

20
- * 70 kilos ont été pesés par moi. (*70 kg đã cân nặng bởi tôi.)
Mặt khác, ở một số ngôn ngữ, chẳng hạn nhƣ trong tiếng La-tinh, có những
động từ chỉ tồn tại ở dạng bị động mà thôi mặc dù chúng có nghĩa chủ động (verbes
déponents):
- imitor, imitaris, imitari, (có nghĩa là "bắt chƣớc").
Ngoài ra, theo ngữ pháp truyền thống thì chủ ngữ của động từ ở dạng bị
động luôn là đối tƣợng chịu tác động của động từ. Nhƣng trong nhiều trƣờng hợp,
nhất là với những động từ chỉ tình cảm, bổ ngữ chỉ đối tƣợng của động từ ngoại
động trong câu chủ động tức là chủ ngữ của động từ đó ở dạng bị động không hề
chịu tác động của hành động mà chỉ là nguồn tạo tình cảm. Ví dụ nhƣ với động từ
"aimer" (yêu) trong tiếng Pháp :
- La souris est aimée par Marie. (Con chuột được Marie yêu quý.)

Trong câu này, khó có thể nói rằng "La souris – con chuột" đã chịu tác động
của tình cảm của Marie.
1.1.3. Dạng bị động trong ngữ pháp cải biến-tạo sinh
Trong ngữ pháp cải biến-tạo sinh, dạng bị động đƣợc coi là một hiện tƣợng
ngữ pháp phổ quát gắn liền với phép cải biến bị động (passive transformation) hay
quá trình bị động hóa (passivization). Trong cuốn "Structures syntaxiques" của N.
Chomsky [81:88], câu bị động đƣợc coi nhƣ là kết quả của sự cải biến từ các câu
chủ động tƣơng ứng: "Khi cố gắng xây dựng một cuốn ngữ pháp tiếng Anh đơn
giản nhất bao gồm một phần về cú pháp và một phần về cải biến, chúng tôi nhận
thấy rằng cốt lõi (của ngôn ngữ - ND) bao gồm các câu đơn, trần thuật và chủ
động (rất có thể là với số lượng hữu hạn) và rằng tất cả các câu khác có thể dễ
dàng được mô tả như là những câu đã được chuyển đổi.".

Theo quan niệm của ngữ pháp cải biến-tạo sinh giai đoạn đầu thì cấu trúc chủ
động gần với cấu trúc sâu còn cấu trúc bị động thì đƣợc tạo nên từ cấu trúc chủ
động bằng phép cải biến bị động (passive transformation). Chomsky đã khẳng định:

21
"[…] chúng tôi đã chứng minh rằng ngữ pháp sẽ vô cùng phức tạp khi nó phải chứa
đựng trong phần cốt lõi của mình cả câu chủ động lẫn câu bị động. Tình hình sẽ trở
nên đơn giản hơn rất nhiều khi câu bị động được đưa ra khỏi phần cốt lõi của ngữ
pháp và rồi sẽ được đưa trở vào bằng một thao tác cải biến cho phép đổi chỗ giữa
chủ ngữ và bổ ngữ của câu và thay động từ V bằng [is + V + en + by]." (81:85).
Phép cải biến có các đặc điểm sau :
- Chủ ngữ của câu chủ động bị cải biến thành bổ ngữ chỉ tác nhân trong
câu bị động, xuất hiện sau một giới từ (by, par = bởi), có khi bổ ngữ tác
nhân này có thể bị tỉnh lƣợc;
- Bổ ngữ trực tiếp của câu chủ động biến thành chủ ngữ trong câu bị động;
- Động từ của câu chủ động đƣợc cải biến thành phân từ quá khứ đi sau
một trợ động từ (to be, être).

Theo quan niệm này, tuy có sự khác biệt về cấu trúc cú pháp, song giữa câu
chủ động và câu bị động tƣơng ứng không hề có sự khác biệt về nghĩa vì chúng
cùng chung một cấu trúc sâu. Cách lập luận này không thỏa đáng ở chỗ trong nhiều
trƣờng hợp giữa câu chủ động và câu bị động có sự khác biệt về nghĩa.
Ví dụ :
- Le site présente plusieurs rubriques pratiques : culture, social,
restauration, international, aides financières, logement et vie
pratique.
2
(Trang web này có nhiều chuyên mục hấp dẫn : văn hóa, xã hội, nhà hàng, quốc
tế, hỗ trợ về tài chính, nhà ở, sinh hoạt hàng ngày.)
- Cette rubrique vous est présentée par le site DroitDuNet.fr.
3
(Chuyên mục
này do trang web DroitDuNet.fr giới thiệu với quý vị.)
Trong ví dụ này, chúng tôi đã tìm đƣợc hai câu có thực chứ không phải
những câu đƣợc xây dựng theo mô hình ngữ pháp để minh họa cho nội dung đang
trình bày, nhƣng nếu theo quan niệm chung về dạng bị động thì chúng ta vẫn có thể
tìm ra đƣợc câu bị động tƣơng ứng cho câu thứ nhất trên đây hoặc câu chủ động cho
câu thứ hai. Để bảo đảm tính khách quan, chúng tôi dựa vào hai ví dụ trên đây để
phân tích. Rõ ràng là thông tin câu thứ nhất đƣợc trình bày theo góc độ của các tác

22
giả của website, tức là những ngƣời đã xây dựng lên cũng nhƣ đang tiếp tục cập
nhật thông tin cho website này. Trong khi đó câu thứ hai lại đƣợc trình bày dƣới góc
độ của ngƣời sử dụng dịch vụ, đang truy cập vào website này để lấy thông tin và
các thông tin đang lần lƣợt trôi qua dƣới cặp mắt của ngƣời truy cập.

Mặt khác, cách quan niệm này vẫn không khắc phục đƣợc hạn chế của ngữ
pháp truyền thống trƣớc hiện tƣợng một số câu chủ động không thể chuyển đƣợc

thành câu bị động và ngƣợc lại một số câu bị động không có câu chủ động tƣơng
ứng.
Ví dụ :
- 100.000 réfugiés irakiens qui ont gagné la frontière iranienne.
4
(100.000
người tỵ nạn Irắc đã đến được biên giới Iran.)
- * La frontière iranienne a été gagnée par 100.000 réfugiés irakiens.
- Cette grande salle peut contenir 800 personnes.
5
(Phòng lớn này có thể chứa tới
800 người.)
- * 800 personnes peuvent être contenues par cette grande salle.
- Mais cette affaire regarde ta mère, […].(Vụ này có liên quan đến mẹ con, […])
- * Mais ta mère est regardée par cette affaire […].

Sau này, Chomsky có phát triển thêm Lý thuyết chuẩn (Standard Theory,
1965) và Lý thuyết chuẩn mở rộng (Extended Standard Theory, 1977). Song nhìn
chung, các tác giả của ngữ pháp cải biến-tạo sinh đều cho rằng câu bị động là kết
quả của phép cải biến bị động và đây là một phổ niệm hình thức có ở tất cả các
ngôn ngữ; các lý thuyết này vẫn không thể giải quyết một cách triệt để những vấn
đề nêu trên của dạng bị động.
1.1.4. Dạng bị động trong loại hình học cú pháp
Theo quan niệm loại hình học cú pháp thì sự tồn tại của dạng bị động gắn
liền với sự phân biệt về loại hình học cú pháp điển hình giữa các ngôn ngữ "thiên

23
chủ ngữ" (subject prominent) và các ngôn ngữ "thiên chủ đề" (topic prominent). Sự
phân biệt này do Ch. N. Li và S. A. Thompson đề ra lần đầu tiên năm 1976 trong
công trình "Subject and topic: a new typology of language" [136]. Dựa vào sự có

mặt của chủ ngữ hoặc chủ đề trong câu, hai tác giả này đã chia các ngôn ngữ thành
2 nhóm cơ bản là các ngôn ngữ thiên chủ ngữ (La-tinh, Hy Lạp, Nga, Anh, …) và
các ngôn ngữ thiên chủ đề (Hán, Việt, …). Các tác giả này cho rằng bị động là một
hiện tƣợng ngữ pháp điển hình của ngôn ngữ thiên chủ ngữ. Vậy đến đây, chúng ta
thấy có một sự phân biệt khá rõ nét giữa ngữ pháp cải biến-tạo sinh với loại hình
học cú pháp trong quan niệm về dạng bị động : trong khi ngữ pháp cải biến-tạo sinh
coi bị động là một phổ niệm ngôn ngữ, loại hình học cú pháp lại cho rằng hiện
tƣợng này chỉ có ở các ngôn ngữ thiên chủ ngữ, còn ở các ngôn ngữ thiên chủ đề thì
đây là một hiện tƣợng hiếm gặp.
1.1.5. Dạng bị động trong ngữ pháp ngữ nghĩa-chức năng
Các công trình nghiên cứu theo hƣớng ngữ nghĩa-chức năng có khuynh
hƣớng kết hợp cả hai cách quan niệm của ngữ pháp cải biến-tạo sinh và loại hình
học cú pháp để phân tích hiện tƣợng bị động : các tác giả thuộc trƣờng phái này
(Givón, Dixon, Palmer) cho rằng bị động là một hiện tƣợng ngữ pháp vừa có tính
phổ quát vừa có tính loại hình. Theo Palmer :"Nếu bị động là một phạm trù có giá
trị về mặt hình thái học, thì cũng như các phạm trù khác, nó phải được nhận diện
qua (1) ý nghĩa hoặc chức năng mà nó có chung ở các ngôn ngữ, và (2) qua các
dấu hiệu hình thức của nó trong các ngôn ngữ cụ thể." (Palmer, 1994, trích theo
Nguyễn Hồng Cổn [11]). Nhƣ vậy, theo tác giả này thì tính phổ quát của dạng bị
động đƣợc thể hiện qua các đặc điểm ngữ nghĩa-chức năng, còn tính loại hình đƣợc
thể hiện qua các đặc điểm hình thái cú pháp. Do cách quan niệm nhƣ vậy, trong
trƣờng phái ngữ pháp này, dạng bị động đƣợc đƣợc phân tích trên cả ba phƣơng
diện chức năng dụng học, cấu trúc ngữ nghĩa và đặc điểm hình thái cú pháp.


24
1.1.5.1. Dạng bị động xét trên phƣơng diện chức năng dụng học
Theo các tác giả của trƣờng phái này (Dixon, 1992, Palmer,1994), việc sử
dụng dạng bị động có những nguyên nhân về dụng học. Trƣớc hết, vì nhiều lý do
khác nhau mà ngƣời ta sử dụng dạng bị động để tránh phải nêu chủ thể của hành

động (tác thể). Thứ hai là do ngƣời nói muốn tập trung mô tả kết quả của hành động
chứ không muốn mô tả quá trình diễn ra của hành động. Thứ ba là do dạng bị động
giúp cho việc thiết lập liên kết chủ đề. Ngoài ra, dạng bị động còn cho phép nhấn
mạnh vào chủ thể hành động khi nó xuất hiện ở vị trí bổ ngữ chỉ tác nhân.
1.1.5.2. Dạng bị động xét trên phƣơng diện cấu trúc ngữ nghĩa
Xét trên phƣơng diện này, khi thay một cấu trúc chủ động bằng một cấu trúc
bị động thì sẽ có một sự thay đổi về ý nghĩa do có một sự thay đổi của các tham tố
ngữ nghĩa cơ bản là tác thể (tức là chủ thể hành động), bị thể/đích thể (đối tƣợng
chịu sự tác động của hành động) và động từ. Cụ thể là trong câu bị động, tác thể
không nằm ở vị trí chủ ngữ của câu mà hoặc là nằm ở vị trí bổ ngữ tác nhân hoặc bị
tỉnh lƣợc hoàn toàn; bị thể lên giữ vị trí chủ ngữ; động từ ngoại động của câu chủ
động bị biến thành một dạng mới thể hiện trạng thái.
1.1.5.3. Dạng bị động xét trên phƣơng diện hình thái cú pháp
Xét trên phƣơng diện này, câu bị động có đặc điểm sau: chủ ngữ của câu
không còn biểu hiện tác thể mà biểu hiện bị thể, hay nói cách khác thì tác thể không
còn làm chủ ngữ của câu mà chỉ làm bổ ngữ chỉ tác nhân, nếu có xuất hiện thì
thƣờng đi sau một giới từ (by, par, bởi, …); bị thể lên làm chủ ngữ của câu; động từ
thì biến từ hình thái diễn đạt hành động ngoại động thành hình thái thể hiện trạng
thái của bị thể chủ ngữ.

1.2. Những lý luận phổ biến liên quan đến dạng bị động của tiếng Pháp
Trong phần này, chúng tôi sẽ trình bày những quan điểm cơ bản và phổ biến
nhất về dạng bị động của tiếng Pháp. Trong số đó có các tác giả thuộc các trƣờng

25
phái ngữ pháp khác nhau. Có thể nói rằng hầu hết các tác giả đều coi dạng bị động
nhƣ là kết quả của một sự chuyển đổi từ một câu chủ động tƣơng ứng; tất cả các yếu
tố của câu chủ động (nhƣ chủ ngữ, bổ ngữ chỉ đối tƣợng và động từ ngoại động) đều
đƣợc duy trì trong câu bị động; chỉ có điều là ở câu bị động, chủ ngữ và bổ ngữ đối
tƣợng đổi chỗ cho nhau, còn dạng thức của động từ thì bị thay đổi.

Nhìn chung, dạng bị động đƣợc định nghĩa là sự đối lập với dạng chủ động
trên ba khía cạnh:
- Sự hoán đổi vị trí giữa chủ ngữ và bổ ngữ trực tiếp;
- Sự thay đổi của động từ : ở dạng bị động, động từ đƣợc chia với trợ động
từ "être";
- Sự hiện diện của một giới từ (PAR hoặc DE) trƣớc bổ ngữ chỉ tác nhân.
Thƣờng thì bổ ngữ chỉ tác nhân bị tỉnh lƣợc.
Ví dụ :
- Dạng chủ động : Pierre aime Marie. (Pierre yêu Marie.)
- Dạng bị động : Marie est aimée de (ou par) Pierre. (Marie được Pierre yêu.)

Cho đến nay, có ít nhất là năm cách định nghĩa khác nhau về dạng bị động
dựa trên : nghĩa; hình thái; cú pháp; cả nghĩa lẫn hình thái; cả hình thái lẫn cú pháp.
1.2.1. Định nghĩa dựa trên ngữ nghĩa
Theo quan niệm truyền thống, các nhà ngữ pháp thƣờng đối lập dạng chủ
động, khi chủ ngữ thực hiện hành động, với dạng bị động, khi chủ ngữ chịu sự tác
động của hành động. Theo Wagner R. L. et J. Pinchon :"Dạng bị động là dạng có
chủ ngữ của động từ thể hiện đối tượng của hành động (tức là bổ ngữ chỉ đối tượng
ở dạng chủ động).". Và chỉ trong phần chú thích thêm thì các tác giả này mới đề cập
đến hình thái của động từ :
"Lưu ý
Cái mà người ta gọi là dạng bị động được thực hiện về mặt hình thái trong
một ngữ đoạn kiểu : être + dạng tính động từ) (phân từ quá khứ - ND)" [126:246].

×