Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Khảo sát hệ thống thuật ngữ ngôn ngữ học trong từ điển Bách khoa Việt Nam(4 tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 80 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





BÙI THỊ TUYẾT TRINH



KHẢO SÁT HỆ THỐNG THUẬT NGỮ NGÔN
NGỮ HỌC TRONG TỪ ĐIỂN BÁCH KHOA VIỆT
NAM (4 TẬP)



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC


Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


BÙI THỊ TUYẾT TRINH



KHẢO SÁT HỆ THỐNG THUẬT NGỮ NGÔN
NGỮ HỌC TRONG TỪ ĐIỂN BÁCH KHOA VIỆT
NAM (4 TẬP)

Chuyên ngành:Ngôn ngữ học
Mã số: 602201



LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Thiện Giáp

Hà Nội - 2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 6
1. Lí do chọn đề tài 6
2. Mục đích nghiên cứu và nội dung nghiên cứu 8
2.1. Mục đích nghiên cứu 8
2.2. Nội dung nghiên cứu 8
3. Phƣơng pháp nghiên cứu 8
4. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu 10
5. Bố cục của đề tài 10
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TỪ ĐIỂN BÁCH KHOA
VÀ TỪ ĐIỂN BÁCH KHOA VIỆT NAM 12
1.1.Từ điển bách khoa 12
1.1.1.Khái niệm Từ điển bách khoa 12

1.1.2. Sự ra đời của Từ điển Bách khoa 14
1.2.Phân biệt Từ điển Bách khoa với Từ điển ngôn ngữ và Bách khoa thư 16
1.2.1. Vấn đề cấu trúc của từ điển 16
1.2.1.1. Cấu trúc vĩ mô 16
1.2.1.2. Cấu trúc vi mô 18
1.2.2. Phân biệt Từ điển Bách khoa và Từ điển Ngôn ngữ 22
1.2.3. Phân biệt Từ điển bách khoa và Bách khoa thư 25
1.3. Giới thiệu về “Từ điển Bách khoa Việt Nam” 28
CHƢƠNG 2: HỆ THỐNG THUẬT NGỮ NGÔN NGỮ HỌC TRONG
CẤU TRÚC VĨ MÔ CỦA “TỪ ĐIỂN BÁCH KHOA VIỆT NAM” 31
2.1. Mô tả Bảng từ Thuật ngữ Ngôn ngữ học trong “Từ điển Bách khoa
Việt Nam” 31
2.2. Đánh giá: 34
2.3. Tiểu kết 48


CHƢƠNG 3: HỆ THỐNG THUẬT NGỮ NGÔN NGỮ HỌC TRONG
CẤU TRÚC VI MÔ CỦA “TỪ ĐIỂN BÁCH KHOA VIỆT NAM” 50
3.1. Mô tả cấu trúc vi mô: 50
3.1.1. Các đơn vị chỉ thuần túy mang thông tin kí hiệu 51
3.1.2. Các đơn vị mang thông tin về nội dung 52
3.1.3. Đề cương mục từ 55
3.2. Cách tổ chức các yếu tố của cấu trúc vi mô 61
3.3. Đánh giá: 64
3.4.Tiểu kết 71
KẾT LUẬN 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO 78


BẢNG DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


C.g: Còn gọi
ĐV: Đẳng vận
TV: Từ vựng
TTV: Từ Thuần Việt
V.d: Ví dụ
VNNH: Viện Ngôn ngữ học
X: Xem
Xt: Xem thêm



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ điển là danh sách các từ, ngữ được sắp xếp thành các từ vị chuẩn.
Một từ điển thông thường cung cấp các giải nghĩa các từ ngữ đó hoặc các từ
ngữ tương đương trong một hay nhiều thứ tiếng khác. Ngoài ra còn có thể có
thêm thông tin về cách phát âm, các chú ý ngữ pháp, các dạng biến thể của từ,
lịch sử hay từ nguyên, cách sử dụng hay các câu ví dụ, trích dẫn. Từ điển là nơi
giải thích thông tin về ngôn ngữ của con người một cách dễ hiểu và khách quan
nhất. Từ điển có nhiệm vụ giúp người xem hiểu và vận dụng (sử dụng) chính
xác một từ, ngữ, thuật ngữ, thành ngữ, khái niệm, phạm trù hay một vấn đề cụ
thể trong đời sống xã hội con người. Từ nhiệm vụ này, từ điển đã được hình
thành dưới nhiều dạng thức tồn tại khác nhau, góp phần giải quyết (hay đáp
ứng) một hoặc nhiều nhu cầu khác nhau trong đời sống xã hội loài người.
Có rất nhiều loại từ điển khác nhau. Sự khác nhau giữa các loại từ điển
thể hiện ở nội dung giải thích những điều cần biết, cần hiểu. Việc phân loại từ
điển có nhiều cách khác nhau. William Breght phân loại theo 4 trục chính là: 1.
Đặc điểm của bảng từ, 2. Cách sắp xếp các đơn vị từ điển, 3. Các kiểu thông tin
được đưa ra, 4. Mục đích của cuốn từ điển. Tác giả Vũ Quang Hào (Dẫn theo

Chu Bích Thu) lại chia từ điển thành những 30 loại khác nhau. Theo truyền
thống, người ta chia từ điển thành 2 loại lớn: 1 thứ tiếng và song hoặc đa thứ
tiếng. Từ điển 1 thứ tiếng là từ điển giải thích, còn từ điển song hoặc đa thứ
tiếng là từ điển đối dịch. Trong từ điển giải thích lại được chia nhỏ thành từ điển
ngữ văn và từ điển bách khoa. Từ điển ngữ văn là các từ điển nói về các đơn vị
của ngôn ngữ, từ điển bách khoa là các từ điển giải thích các khái niệm.
Từ thế kỉ 18, loài người đã sáng tạo ra từ điển bách khoa và bách khoa
thư như một loại sách học và tra cứu cung cấp cho mỗi con người một kho tàng
tri thức của loài người. Hiện nay, chúng ta đang sống vào thời đại cách mạng
khoa học – kỹ thuật, thời đại mà cứ 15 - 20 năm đã là một thế hệ khoa học, thời


đại “bùng nổ” thông tin khoa học… Nhu cầu hiểu biết về kho tàng tri thức của
nhân loại ngày càng trở nên bức thiết. Bộ “Từ điển Bách khoa Việt Nam” (bốn
tập) đã ra đời trước những đòi hỏi bức thiết ấy.
“Từ điển Bách khoa Việt Nam” được xuất bản lần đầu tiên ở Việt Nam
(1995-2005) có thể coi là một công trình văn hóa, khoa học lớn của nước ta hiện
nay. Bộ từ điển gồm là bốn tập, một tập Index và một đĩa CD-ROM, bao gồm
khoảng bốn vạn mục từ thuộc gần 40 chuyên ngành văn hóa, khoa học, kĩ thuật
của Việt Nam và thế giới. Lời nói đầu của bộ từ điển này có viết: Đây là “bộ từ
điển bách khoa tổng hợp nhiều chuyên ngành, cỡ trung bình, có tính chất thông
dụng, dùng cho đông đảo bạn đọc, chủ yếu cho những người có trình độ trung
học trở lên. Từ điển có mục đích giới thiệụ những tri thức cơ bản nhất về đất
nước con người, lịch sử xã hội, văn hóa, khoa học, công nghệ Việt Nam xưa và
nay; giới thiệu những tri thức văn hóa, khoa học và kỹ thuật của thế giới, chú ý
những tri thức cần cho độc giả Việt Nam.”
Đối với một quốc gia, một dân tộc thì việc biên soạn những bộ từ điển
bách khoa không chỉ có ý nghĩa về mặt sử dụng mà đó còn là niềm tự hào của
quốc gia đó, dân tộc đó. Chẳng thế mà Anh, Pháp… luôn rất tự hào về dân tộc
họ bởi những bộ bách khoa thư vô cùng đồ sộ của mình.

Bộ “Từ điển Bách khoa Việt Nam” hoàn thành và ra mắt bạn đọc là một
thành tựu to lớn của ngành ngữ văn Việt Nam, cũng là niềm tự hào của người
dân Việt Nam. Bộ sách này chiếm nhiều kỉ lục quốc gia về Quy mô tổ chức bộ
máy điều hành, về Quy mô tổ chức bộ máy biên soạn, về Quy mô tổ chức bộ
máy biên tập và thành sách.
Tuy nhiên, do đây là lần đầu tiên biên soạn nên bộ từ điển bách khoa
này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Thiết nghĩ, tìm hiểu khảo sát và đánh
giá những đóng góp và những tồn tại của bộ từ điển này sẽ góp phần không nhỏ
vào việc xây dựng thực tiễn biên soạn từ điển nói chung và từ điển bách khoa
nói riêng. Tuy nhiên, do sức lực có hạn, và đồng thời không muốn bài viết dàn


trải và tràn lan, chúng tôi xin đi vào khảo sát một lĩnh vực nhỏ trong bộ từ điển
này đó là hệ thống thuật ngữ Ngôn ngữ học. Vì vậy, trong luận văn thạc sĩ của
mình, chúng tôi xin chọn đề tài này để nghiên cứu, những mong phần nào thấy
được “diện mạo” của ngành Ngôn ngữ học được thể hiện trong “Từ điển Bách
khoa Việt Nam” .
2. Mục đích nghiên cứu và nội dung nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nguồn ngữ liệu khảo sát được, chúng tôi đưa ra những phân
tích đánh giá việc xây dựng, biên soạn các mục từ Thuật ngữ ngôn ngữ học
trong Bộ “Từ điển Bách khoa Việt Nam”.
Trong luận văn này, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát, phân loại hệ thống
thuật ngữ Ngôn ngữ học đặt trong toàn bộ cấu trúc của “Từ điển Bách khoa Việt
Nam”. Tuy nhiên, luận văn này chỉ dừng lại ở việc nêu vấn đề và nhận xét, giải
thích ở mức gợi mở mà thôi. Mong muốn chân thành của chúng tôi là nhận
được nhiều góp ý để có dịp tiếp tục đào sâu nghiên cứu hơn nữa.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Để có thể đạt được một kết quả khả quan cho đề tài, việc đầu tiên của
chúng tôi trong khóa luận này là tiến hành tìm, thống kê và phân tích số liệu

toàn bộ các mục từ thuộc ngành Ngôn ngữ học.
Dựa trên lí luận về từ điển học và từ điển bách khoa, chúng tôi tìm hiểu,
phân tích cấu trúc vi mô và cấu trúc vĩ mô của hệ thống các thuật ngữ này đặt
trong tương quan với các ngành khoa học khác và với toàn bộ bộ từ điển.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi đã vận dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp miêu tả, với các thủ pháp sau:


+ Thủ pháp thống kế toán học: Trong bất kì một công trình nghiên cứu
nào có sử dụng một khối lượng tư liệu lớn, người ta không thể bỏ qua việc xử lí
các số liệu về mặt thống kê toán học. Ở luận văn này, chúng tôi phải khảo sát
bốn tập của “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, phải xem xét khoảng bốn vạn mục
từ của các ngành khoa học để tìm và lọc ra các mục từ Thuật ngữ Ngôn ngữ
học. Do đó, thủ pháp thống kê toán học là thủ pháp nghiên cứu đầu tiên chúng
tôi sử dụng.
+ Thủ pháp vận dụng khái niệm “tập hợp” trong miêu tả ngôn ngữ: Tập
hợp là “cái gồm những đối tượng được liệt kê ra hoặc được mô tả bằng một đặc
trưng nào đó”. Như chúng ta đã biết, phân loại là một việc hết sức quan trọng
trong nghiên cứu ngôn ngữ học. Phân loại chính là phân hoạch các tập hợp
thành những tập hợp con không giao nhau. Sau khi thống kê toàn bộ các mục từ
Thuật ngữ Ngôn ngữ học, việc thứ hai mà chúng tôi phải làm là phân loại bộ hệ
thống ấy thành những nhóm, những tập hợp nhỏ (theo từng tiêu chí) để tiện cho
việc xử lí tư liệu và để có thể rút ra những nhận xét xác đáng.
- Phương pháp so sánh: Trong luận văn này, chúng tôi không chỉ
thống kê, miêu tả và phân tích hệ thống mục từ Thuật ngữ Ngôn ngữ học đơn
thuần mà còn có sự so sánh – đối chiếu với các ngành khoa học khác để thấy
được vị trí của ngành ngôn ngữ học trong “Từ điển Bách khoa Việt Nam”.
Không dừng lại ở đó, chúng tôi còn tiến hành so sánh các thuật ngữ Ngôn ngữ

học được biên soạn trong bộ từ điển này với cùng thuật ngữ ấy trong một số
cuốn từ điển bách khoa chuyên ngành ngôn ngữ học để thấy cái được và cái
chưa được trong cách định nghĩa, giải thích các thuật ngữ này. Do đó, phương
pháp so sánh được chúng tôi vận dụng một cách tối đa.
- Ngoài ra, phân tích tổng hợp cũng là một thủ pháp chúng tôi sử
dụng, trên cơ sở những tư liệu, tài liệu đã thu thập được để có thể có được cái
nhìn tổng thể và khách quan về bộ từ điển nói chung và về hệ thống mục từ
Thuật ngữ Ngôn ngữ học nói riêng.


4. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu
Bộ “Từ điển bách khoa Việt Nam” là một công trình tương đối đồ sộ,
gồm bốn tập với khoảng hơn 40 nghìn từ của gần 40 chuyên ngành khoa học. Vì
vậy, khảo sát toàn bộ công trình này là một tham vọng quá lớn. Trong khuôn
khổ của luận văn thạc sĩ này, chúng tôi chỉ xin được khảo sát Hệ thống các Mục
từ Thuật ngữ ngôn ngữ học được biên soạn trong bộ từ điển. Như vậy, đối
tượng đề tài của chúng tôi chính là các mục từ thuộc ngành Ngôn ngữ học có
trong “Từ điển Bách khoa Việt Nam”. Khảo sát hệ thống mục từ Ngôn ngữ học
đặt trong mối tương quan với cấu trúc vĩ mô và cấu trúc vi mô của bộ từ điển
chính là phạm vi nghiên cứu của đề tài mà chúng tôi muốn theo đuổi.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về Từ điển Bách khoa và Từ điển Bách
khoa Việt Nam
1.1. Từ điển bách khoa
1.1.1. Khái niệm Từ điển Bách khoa
1.1.2. Sự ra đời của Từ điển Bách khoa
1.2. Phân biệt Từ điển Bách khoa với Từ điển Ngôn ngữ và Bách khoa
thư

1.2.1.Vấn đề cấu trúc của từ điển
1.2.1.1. Cấu trúc vĩ mô
1.2.1.2. Cấu trúc vi mô
1.2.2. Phân biệt Từ điển Bách khoa với Từ điển Ngôn ngữ


1.2.3. Phân biệt Từ điển Bách khoa với Bách khoa thư
1.3. Giới thiệu về “Từ điển Bách khoa Việt Nam”
Chương 2: Hệ thống Thuật ngữ Ngôn ngữ học trong cấu trúc vĩ mô của
“Từ điển Bách khoa Việt Nam”
2.1. Mô tả Bảng từ Thuật ngữ Ngôn ngữ học
2.2. Đánh giá
2.3. Tiểu kết
Chương 3: Hệ thống Thuật ngữ Ngôn ngữ học trong cấu trúc vi mô của
“Từ điển Bách khoa Việt Nam”
3.1. Mô tả cấu trúc vi mô
3.1.1. Các đơn vị thuần túy mang thông tin kí hiệu
3.1.2. Các đơn vị mang thông tin về nội dung
3.1.3. Đề cương mục từ
3.2. Cách tổ chức các yếu tố của cấu trúc vi mô
3.3. Đánh giá
3.4. Tiểu kết




CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TỪ ĐIỂN BÁCH KHOA
VÀ TỪ ĐIỂN BÁCH KHOA VIỆT NAM
1.1.Từ điển bách khoa
1.1.1.Khái niệm Từ điển bách khoa

Từ điển bách khoa là một bộ sách tra cứu hàng ngày nhằm giải đáp
những thắc mắc, thường không phức tạp lắm, của người đọc, về những khái
niệm khoa học, kĩ thuật, văn hóa, nghệ thuật hoặc về những tri thức khác… Từ
điển bách khoa có thể có tính toàn diện song cũng có thể có tính chất chuyên
ngành hay liên ngành.
Cũng giống như Từ điển nói chung, Từ điển bách khoa mang những đặc
tính cơ bản sau đây:
- Tính chuẩn mực:
Từ điển là nơi cung cấp thông tin hoặc giải thích một sự vật hay hiện
tượng một cách ngắn gọn và chính xác nhất. Trừ phương pháp định nghĩa theo
lối hàn lâm, bác học (phương pháp này sử dụng phổ biến trong từ điển triết học
hay những từ điển chuyên ngành khác), phương pháp kiến giải của hầu hết từ
điển là luôn dùng những ngôn từ đơn giản và phổ biến nhất trong xã hội. Thông
tin trong từ điển luôn được kiểm chứng và thừa nhận rộng rãi trong cộng đồng
xã hội.
- Tính tương đối
Từ điển chứa đựng những thông tin đã có, đã được kiểm chứng - do đó,
nó luôn bị thay đổi hoặc bổ sung theo thời gian, cùng với sự thăng trầm của sự
vật hoặc hiện tượng mà nó đã đề cập. Từ điển luôn đi sau những thay đổi hoặc
tiến bộ của xã hội loài người.
Hiện nay đã có rất nhiều loại từ điển khác nhau. Chúng gần như hoàn
toàn độc lập với nhau. Nhưng, như Ladislav Zgusta đã nhận xét ngay ở lời mở
đầu công trình về từ điển học của mình [30, tr.5], một trong những đặc điểm lạ


lùng nhất của từ điển học là các nhà từ điển rất ít trao đổi kinh nghiệm với nhau.
Sự phân lập này có thể dẫn đến hiện tượng mâu thuẫn về nội dung của cùng một
vấn đề trong các từ điển khác nhau. Như vậy, tính tương đối của tự điển có thể
phát sinh khi xem xét về cùng một vấn đề ở hai từ điển khác nhau.
Từ điển mang đậm phong cách của nhóm tác giả biên soạn ra nó. Tính

tương đối của từ điển còn có nguyên nhân từ sự khác biệt của mỗi nền văn hóa -
văn minh, ngôn ngữ, dân tộc, quốc gia trên thế giới. Mỗi thành tố trên có thể lý
giải về cùng một hiện tượng xã hội theo nhiều quan điểm, tư tưởng hay chính
kiến khác nhau. Do đó, có thể cùng một khái niệm, nhưng tùy theo mỗi nền văn
hóa khác nhau, có thể có cách sử dụng (vận dụng) khác nhau.
Như vậy, tính tương đối của từ điển có thể xuất phát từ sự chậm trễ khi
cập nhật, sự phân lập của các nhà từ điển học hoặc sự khác biệt của các nền văn
hóa trên Trái Đất.
- Tính đa dạng
Thông tin trong từ điển ghi nhận tất cả sự nhìn nhận, đánh giá, sử dụng
hay vận dụng một khái niệm (phạm trù) theo nhiều hướng khác nhau. Sự đa
dạng này có nguồn gốc từ sự khác biệt giữa các nền văn hóa, văn minh và tiến
bộ của các cộng đồng, dân tộc hoặc các quốc gia trên thế giới.
- Tính trung lập
Tính đa dạng của từ điển bắt buộc nó phải thể hiện quan điểm trung lập
trong tất cả các vấn đề mà nó đã đề cập. Bản thân sự đa dạng luôn hàm chứa
nhiều mâu thuẫn hay đối lập nhau. Do đó, tính trung lập của từ điển còn nhằm
tránh các xung đột có thể xảy ra giữa các nền văn hóa, văn minh trên Trái đất.
Trừ từ điển của các nước có mô hình một đảng chính trị lãnh đạo, hầu hết các từ
điển khác đều tôn trọng nguyên tắc trung lập này.
- Tính lịch sử


Trong từ điển luôn chứa đựng đầy đủ sự hình thành và phát triển của
một khái niệm hay phạm trù mà nó lưu giữ. Ở đó, người xem tiếp cận được cả
cách sử dụng (vận dụng) từ ngữ từ lúc sơ khai cho đến hiện tại.
Thông thường, chúng ta gọi chung các loại bách khoa thư và từ điển
bách khoa là “từ điển bách khoa”. Song, ở nước ngoài, từ lâu, các nhà khoa học
đã phân biệt bách khoa thư và từ điển bách khoa.
Bách khoa thư tiếng Anh gọi là Encyclopaedia, tiếng Pháp gọi là

Encyclopédie có nguồn gốc Hi Lạp: en “trong” kyklios hoặc kuklios “vòng, chu
trình”, paideia “giáo dục” nghĩa đen có nghĩa là “giáo dục trong một chu trình”
(tức là giảng dạy tất cả các tri thức). Người ta thường cho rằng, những kiến
thức bách khoa đã được trình bày đầu tiên trong các tác phẩm đa dạng của
Aritxtốt (Hi Lạp) và của Varô (một nhà khoa học ở Rôma) nói về những tri thức
của bảy môn học đương thời: ngữ pháp, phép biện chứng (tức lôgich), tu từ học,
âm nhạc, số học, hình học, thực vật học và một số kiến thức về y học, kiến
trúc…. Song chỉ từ khi Điđơrô, Đalămbe (Pháp, thế kỉ 18) cùng cộng tác viên
xuất bản Bách khoa toàn thư hay Từ điển duy lí các khoa học, nghệ thuật và
nghề nghiệp (1751-1772), mới thật sự có bách khoa thư theo nghĩa ngày nay.
1.1.2. Sự ra đời của Từ điển Bách khoa
Sự phát triển của ngôn ngữ học thế kỉ 19 đã tạo cơ sở lí luận cho việc
hoàn thiện và hiện đại hóa từ điển ngôn ngữ. Những cuộc cách mạng công
nghiệp thế kỉ 18 và đầu thế kỉ 19 cũng có những tác động quan trọng đế sự phát
triển của từ điển ngôn ngữ. Cuộc cách mạng công nghiệp sau khi hoàn thành, đã
sản sinh ra một lượng lớn các từ ngữ, các thuật ngữ, khái niệm khoa học và kĩ
thuật mới. Trước tình hình đó, trong giới ngôn ngữ học đương thời có hai
khuynh hướng đối lập nhau. Khuynh hướng thứ nhất đại diện là nhóm “Từ điển
tiếng Anh Oxford” chủ trương duy trì thuần ngữ. Khuynh hướng thứ hai, đại
diện là nhóm “Từ điển tiếng Anh của Mĩ” đi đầu là Noah Webster (1758-1843),


nhà ngôn ngữ học Mĩ, chủ trương đưa các từ có tính bách khoa vào từ điển ngôn
ngữ và khi định nghĩa từ có phát triển các nội dung bách khoa.
Với sự ra đời của các từ điển tiếng Anh của trường phái Hoa Kì, các từ
điển ngôn ngữ xích gần đến bách khoa toàn thư và cuối cùng mang tên từ điển
bách khoa.
Cho đến năm 1866 – 1876, P. Larousse biên soạn và xuất bản “Đại từ
điển bách khoa” và năm 1899 ở Hoa Kì xuất bản trọn bộ “Từ điển bách khoa
thế kỉ” thì diện mạo từ điển bách khoa mới thực sự chính thức xuất hiện.

Tóm lại, có thể kết luận: từ điển bách khoa xuất hiện do quan hệ ảnh
hưởng lẫn nhau giữa bách khoa toàn thư và từ điển ngôn ngữ, là sự xích lại gần
nhau giữa bách khoa toàn thư và từ điển ngôn ngữ.
Từ điển bách khoa được thiết kế, xây dựng dựa trên cơ sở của bộ phận
giao thoa giữa bách khoa toàn thư và từ điển ngôn ngữ, nhưng không phải chỉ
hạn chế dừng lại ở bộ phận giao thoa này.
Về phương diện nội dung, từ điển bách khoa còn vươn sang khu vực
bách khoa toàn thư, chủ yếu ở chỗ thể hiện nội dung các từ có tính khái niệm
(từ có tính bách khoa), không chỉ định nghĩa mà còn có phần diễn giải tính bách
khoa của từ. Đồng thời còn vươn sang khu vực từ điển ngôn ngữ, thu thập cả
những từ mang tính ngôn ngữ.
Về hình thức, có xu hướng thiên về phương pháp biên soạn từ điển ngôn
ngữ, ví dụ dùng từ để lập đầu mục từ. Khác hẳn với bách khoa toàn thư, từ điển
bách khoa không yêu cầu cao về tính hoàn chỉnh, tính hệ thống. Trong bài viết,
mục từ không thiết kế tầng bậc, tiêu đề, không ghi thư mục tham khảo, vì số
lượng mục từ nhiều, dung lượng nhỏ nên cũng không có nhu cầu biên soạn sách
dẫn nội dung, và không có phần hướng dẫn học tập, bảng cấu trúc phân loại
mục từ…




1.2.Phân biệt Từ điển Bách khoa với Từ điển ngôn ngữ và Bách
khoa thư
Về nguyên tắc, người ta có thể phân biệt từ điển bách khoa với từ điển
ngôn ngữ và bách khoa thư một cách khá dễ dàng nhưng trong thực tế, việc xây
dựng cấu trúc bảng từ và biên soạn nội dung các từ của 3 loại từ điển này lại
không hề đơn giản. Sự khác biệt giữa Từ điển Bách khoa với Từ điển Ngôn ngữ
và Bách khoa thư chính là sự khác biệt về cấu trúc. Để có thể phân biệt tốt ba
loại sách này, trước hết chúng ta phải tìm hiểu về cấu trúc của từ điển nói

chung.
1.2.1. Vấn đề cấu trúc của từ điển
1.2.1.1. Cấu trúc vĩ mô
Từ điển là một loại sách tra cứu, ở đó thu thập và cung cấp những thông
tin về kí hiệu ngôn ngữ. Các thông tin trong từ điển có tính chất khách quan,
thường được coi như là một chân lí. Từ điển không phải là một công trình sáng
tác nhằm trình bày những kiến giải cá nhân mà là một công trình biên soạn, dựa
vào tư liệu ngôn ngữ mà tổng hợp, đúc rút và soạn thảo ra.
Do đặc điểm của mình, mỗi quyển từ điển là một văn bản có cấu trúc đôi:
cấu trúc vĩ mô (macrostructure) và cấu trúc vi mô (microstructure). Hai thuật
ngữ này được dùng trong từ điển học lần đầu tiên ở công trình của J. Rey
Debove (1971).
Cấu trúc vĩ mô là cấu trúc bao gồm toàn thể các mục từ được sắp xếp
trong từ điển theo một trật tự xác định; còn có thể gọi là cấu trúc tổng thể hay
cấu trúc bảng từ. Cấu trúc vi mô là cấu trúc toàn bộ những thông tin được trình
bày một cách hệ thống trong mỗi mục từ, có thể gọi là cấu trúc mục từ.
Có thể nói, việc nghiên cứu, khảo sát một cuốn từ điển theo cấu trúc của
nó (vĩ mô và vi mô) là cách nhìn mới áp dụng quan điểm hệ thống – cấu trúc


vào việc nghiên cứu từ điển. Trước đây, do nhiều lí do mà việc tổ chức trong
một cuốn từ điển thường bị phi cấu trúc hóa. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Trâm
trong “Một số vấn đề từ điển học” [24; tr.27] thì trước hết, đó là sự cắt đoạn,
biệt lập tương đối của mỗi mục từ đối với những mục từ khác. Nhiều khi, những
yếu tố nằm trong lời giải thích của mục từ nào đó lại không có mặt trong bảng
từ; tức là thành phần của cấu trúc vi mô lại không nằm trong cấu trúc vĩ mô.
Thứ hai, do số lượng rất lớn của các mục từ được sắp xếp theo một trật tự
hình thức nào đó (thường là theo vần a, b, c) kéo dài dọc suốt cuốn từ điển cho
nên những mô tả về hình thức, cấu tạo của các đơn vị, tính chất và mức độ khác
nhau về phạm vi, sắc thái cuả các đơn vị… dễ dàng thiếu nhất quán, rời rạc và

tùy tiện.
Thứ nữa, từ vựng của ngôn ngữ là một tập hợp mở, có số lượng đơn vị rất
lớn và thường xuyên biến động, liên tục được bổ sung những từ ngữ mới, đồng
thời những từ ngữ cũ lại bị lãng quên. Quan niệm cấu trúc hóa bảng từ của từ
điển xuất phát từ đặc điểm trên. Cấu trúc bảng từ cơ bản phản ánh cấu trúc từ
vựng của ngôn ngữ. Đó là một tập hợp chứa trong mình nhiều mối quan hệ của
nhiều hệ thống nhỏ, chúng có thể đan xen và chồng chéo nhau. Từng hệ thống
nhỏ có những mối quan hệ riêng, hoạt động theo những quy luật riêng. Nhìn
chung, các mối quan hệ có tính quy luật trong hệ thống từ vựng thể hiện không
dứt khoát, rõ ràng, và đôi khi rất khó nhận ra. Cấu trúc bảng từ cần phản ánh
được các quan hệ có tính quy luật, trong đó hệ thống từ vựng, tránh tình trạng
tùy tiện, thiếu nhất quán hoặc đơn giản, sơ lược hóa.
Và theo tác giả L.Zgusta (dẫn theo tác giả Nguyễn Ngọc Trâm) thì khi
nghiên cứu cấu trúc bảng từ, người ta thường quan tâm tới hai mặt: Thứ nhất là
hình thức của đơn vị trong bảng từ và thứ hai là số lượng các đơn vị, xét toàn bộ
hay từng bộ phận cấu thành.



1.2.1.2. Cấu trúc vi mô
a. Khái niệm cấu trúc vi mô
Thuật ngữ “Cấu trúc vi mô” được dùng trong từ điển học trong mối
quan hệ với thuật ngữ “Cấu trúc vĩ mô”. Cấu trúc vi mô hay còn gọi là cấu trúc
mục từ. J. Rey Debove coi mỗi mục từ trong từ điển có cấu trúc như một câu,
trong đó đơn vị mục từ là chủ ngữ, các thông tin là vị ngữ; L. Zgusta gọi hai
thành phần chính của cấu trúc vi mô là phần đề (mục từ) và phần chính (các
thông tin). Hai quan niệm này cùng nêu lên một đặc tính cơ bản của cấu trúc
mục từ, đó là tính "đề - thuyết". A.Bulleg-Schramm và H.Schumacher định
nghĩa cụ thể hơn: “Cấu trúc vi mô (mikrostruktura) được chúng tôi hiểu là cách
tổ chức và danh sách những thông tin được sử dụng trong những mục từ cụ thể”

(Dẫn theo Nguyễn Ngọc Trâm).
Như vậy, cấu trúc vi mô là cấu trúc của mỗi mục từ, có quan hệ ngang
(được sắp xếp theo hình tuyến); phân biệt với cấu trúc vĩ mô là cấu trúc của các
mục từ được sắp xếp theo trật tự nhất định, làm thành quan hệ dọc xuyên suốt
cuốn từ điển.
Như vậy, ranh giới của cấu trúc vi mô tưởng như đã rõ ràng, nhưng vẫn
còn có những ý kiến khác nhau. Đơn vị của cấu trúc vĩ mô là các mục từ. Còn
đơn vị của cấu trúc vi mô là gì? Hay nói cách khác, cấu trúc vi mô bắt đầu được
tính từ đâu, trừ đầu mục được coi là bộ phận hiển nhiên?
Tác giả L.Zgusta [30; tr.50] gọi đầu mục là “phần đề” và phần còn lại là
“phần chính”. Cũng theo tác giả này thì, phần đề không chỉ có đầu mục từ, đầu
mục chỉ là “bộ phận quan trọng nhất của phần đề”, ngoài ra còn có thể có các
chỉ dẫn về lớp từ pháp, cú pháp hoặc lớp kết hợp của đầu mục; hoặc thông tin
có liên quan chủ yếu đến hình thức của đơn vị từ vựng, đó là chỉ dẫn về cách
phát âm, hình thức chữ viết; hoặc một thông tin rất ngắn về từ nguyên.


Còn tác giả Rey Debove [29; tr.2] coi một mục từ trong từ điển là một
câu, trong đó, đầu mục là chủ ngữ, toàn bộ phần nói rõ nội dung của đầu mục là
vị ngữ. Hệ từ “là” nối giữa đầu mục là danh từ với định nghĩa để thiết lập sự
đồng nhất. Còn hệ từ “biểu đạt” hoạt động với các đầu mục thuộc từ loại khác.
Có thể thấy rằng, coi đầu mục là phần đề (hoặc chủ ngữ), còn toàn bộ
phần còn lại trong một mục từ là phần thuyết (hoặc vị ngữ) là hợp lí. Nhưng
như vậy, thì đầu mục và phần còn lại này không phải làm thành chỉ một câu mà
thành nhiều câu. Nối giữa chủ ngữ (phần đề) và vị ngữ (hoặc phần thuyjết)
không phải là môt mà là một số hệ từ. Những hệ từ này có thể hiển ngôn hoặc
không hiển ngôn, nhưng rất dễ được khôi phục ở dạng hiển ngôn.
Có thể nói rằng, mục từ là đơn vị của cấu trúc toàn thể cuốn từ điển –
cấu trúc vĩ mô – còn các thông tin về đầu mục làm thành các đơn vị của cấu trúc
từng mục từ - cấu trúc vi mô; nhưng đầu mục luôn có chức năng, có vị trí riêng.

Như vậy, tìm hiểu cấu trúc vi mô của từ điển, chúng ta cần xem xét hai
vấn đề: thứ nhất là danh sách những thông tin trong mục từ, đó chính là các yếu
tố cấu thành cấu trúc vi mô ; thứ hai là cách tổ chức những thông tin này để làm
thành văn bản từ điển.
b. Các yếu tố cấu thành trúc vi mô
Theo tác giả Chu Bích Thu trong “Một số vấn đề từ điển học” Nhà xuất
bản khoa học xã hội [24; tr.78] thì “các yếu tố của cấu trúc vi mô gồm đầu mục
và các thông tin mọi mặt của đầu mục, sao cho các thông tin này làm thành một
tập hợp đẳng nghĩa với đầu mục”. (Tác giả dùng khái niệm đẳng nghĩa để chỉ
mối quan hệ ngang bằng về nghĩa giữa đầu mục và các thông tin của cấu trúc vi
mô. Đây là sự ngang bằng tối đa, để cho các thông tin của cấu trúc vi mô có thể
thay thế cho đầu mục về mục về mọi mặt).


Văn bản từ điển có một đặc tính đặc biệt đó là tính ngắt đoạn. Mỗi đơn
vị, một yếu tố có sự độc lập tương đối. Mỗi mục từ là một đơn vị độc lập tương
đối với các đơn vị mục từ khác toàn toàn bộ cuốn từ điển. Mỗi thông tin về đầu
mục lại có sự độc lập tương đối với các thông tin khác trong mục từ. Mỗi mục
từ có thể tách thành nhiều câu khác nhau có cùng chủ ngữ. Nghĩa là các câu
khác nhau ấy làm thành những thông tin khác nhau của mục từ. Tuy nhiên, mỗi
thông tin chỉ được coi là yếu tố cấu thành cấu trúc vi mô khi nó là thông tin trực
tiếp về đầu mục. Từ là thông tin ấy phải có quan hệ trực tiếp với đầu mục. Điều
này thể hiện ở chỗ thông tin ấy có khả năng trực tiếp là vị ngữ (phần thuyết)
trong câu mà đầu mục làm chủ ngữ (hay phần đề) hay không.
Tóm lại, mỗi thông tin tách rời, có quan hệ trực tiếp với đầu mục được
coi là một yếu tố cấu thành cấu trúc vi mô của từ điển.
Mỗi yếu tố của cấu trúc vi mô mang một thông tin, được diễn đạt bằng
một phương tiện nào đó. Mỗi phương tiện có thể diễn đạt một hoặc hơn một
thông tin về đầu mục, có thể là thông tin về từ vựng, ngữ pháp…
c. Cách tổ chức các yếu tố của cấu trúc vi mô

Các yếu tố cấu thành một cuốn từ điển được tổ chức liên kết theo hai
chiều: chiều dọc và chiều ngang. Liên kết dọc của cuốn từ điển là tính hệ thống
của các đầu mục và tính quy ước khi lựa chọn các đầu mục. Đó là phạm vi, ranh
giới các đơn vị được thu thập, là cách sắp xếp, xử lí các đơn vị được thu thập,
làm thành cấu trúc vĩ mô. Liên kết dọc xuyên qua từng cấu trúc vi mô. Các liên
kết này, nếu xem xét tách rời nhau theo từng mục từ thì tưởng như không tồn
tại. Điều này làm nên tính ngắt đoạn tương đối của cấu trúc vĩ mô. Liên kết
ngang là mối liên kết giữa các thông tin về đầu mục để tạo thành một mục từ.
Nếu xem xét một mục từ trong từ điển là một văn bản , thì mỗi mục từ
trong từ điển là một văn bản nhỏ nhờ sự thống nhất nội dung và sự hoàn chỉnh


hình thức của nó. Sự thống nhất về nội dung của một mục từ thể hiện ở chỗ toàn
bộ các thông tin của nó có một chủ đề duy nhất – nội dung của đầu mục, cung
cấp thông tin mọi mặt về đầu mục. Đồng thời, đó còn là sự phù hợp với nhau
theo mối quan hệ nhất định giữa các thông tin. Quan hệ tồn tại giữa các thông
tin – yếu tố của cấu trúc vi mô là quan hệ thứ tự. Các thông tin thường được sắp
xếp theo trật tự từ chung đến riêng, từ hệ thống, khái quát đến cụ thể, cá biệt. Vì
vậy các thông tin về ngữ âm, chính tả giúp cho việc nhận diện các đơn vị đầu
mục về mặt hình thức được được xếp liền sau đầu mục.
Ở từ điển bách khoa, do đặc thù của mình mà vắng mặt nhiều yếu tố của
cấu trúc vi mô. Những yếu tố mang thông tin về ngữ âm, chính tả hầu như
không xuất hiện trong từ điển bách khoa.
Ở văn bản từ điển nói chung, các yếu tố của cấu trúc vi mô có thể được
coi là đơn vị cấu thành văn bản. Mỗi yếu tố của cấu trúc vi mô làm thành một
đơn vị cấu thành văn bản vì mỗi yếu tố khi được khôi phục ở dạng bằng lời có
giá trị nội dung nhất định.
Ví dụ: Trong Từ điển giải thích tiếng Việt [17; tr.790], mục từ “phát lưu
đg.cn.phát vãng. Đày đi nơi xa (một hình phạt). Bị phát lưu trung thân”. Có thể
được tách thành các đơn vị sau:

1. Phát lưu là một động từ
2. Phát lưu còn nói phát vãng, nhưng phát lưu thường dùng hơn nên
được coi là chuẩn.
3. Phát lưu là đầy đi nơi xa
4. Phát lưu là một hình phạt đối với thành viên của xã hội
5. Phát lưu thường được dùng như sau: Bị phát lưu chung thân



1.2.2. Phân biệt Từ điển Bách khoa và Từ điển Ngôn ngữ
Về mặt lí thuyết, bảng từ của Từ điển Bách khoa và Từ điển Ngôn ngữ
là khác nhau. Nếu như các mục từ của Từ điển Bách khoa là các thuật ngữ, khái
niệm thuộc các ngành khoa học khác nhau thì mục từ của Từ điển Ngôn ngữ
chính là hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ. Tùy từng loại từ điển ngôn ngữ
khác nhau mà lựa chọn những lớp từ vựng khác nhau để định nghĩa và giải
thích. Từ điển từ đồng nghĩa thì có mục từ là các từ đồng nghĩa, từ điển từ
nguyên thì lại giải thích những hình thức và ý nghĩa gốc của các từ…
Từ điển bách khoa thuộc vào loại từ điển khái niệm, ít liên quan đến
ngôn ngữ học. Từ điển khái niệm thì không giải thích các từ đơn thuần mà chủ
yếu giải thích nội dung các khái niệm, các hiện tượng, sự vật do từ biểu hiện.
Trong khi giải thích các thuật ngữ, người ta có thể trình bày những quan điểm
khác nhau đối với nội dung của thuật ngữ, lịch sử khoa học nghiên cứu nội dung
ấy, các giả thiết hiện đại đối lập nhau trong khoa học ấy. Tóm lại, từ điển khái
niệm cung cấp một số kiến thức nhất định không phải về các từ mà là về các
khái niệm do từ biểu hiện, về các sự vật, hiện tượng mà các khái niệm phản ánh.
Bảng từ của Từ điển Bách khoa là các từ ngữ, thuật ngữ khái niệm khoa học.
Do đó, trong Từ điển Bách khoa, không có sự xuất hiện của các thán từ, trợ từ,
trạng từ, động từ, tính từ vì các từ loại này không phải là các khái niệm, các
thuật ngữ chuyên môn.
Còn từ điển ngôn ngữ có nhiệm vụ định nghĩa, giải thích các từ chứ

không giải thích các khái niệm, hiện tượng, sự vật tiềm ẩn trong từ và được biểu
thị bằng từ ấy. Do đó, bảng từ của từ điển ngôn ngữ phong phú hơn nhiều so
với Từ điển Bách khoa. Có thể nói, từ điển ngôn ngữ phản ánh hệ thống ngôn
ngữ, lời ăn tiếng nói của một quốc gia, một dân tộc trong từng thời điểm, thời
kì. Theo thời gian, bảng từ của các từ điển ngôn ngữ cũng được bổ sung và thay
đổi rất nhiều.


Tuy nhiên, không phải lúc nào người ta cũng có thể phân biệt rạch ròi
các loại từ trong từ điển ngôn ngữ và các mục từ trong từ điển bách khoa, giữa
nội dung biên soạn các từ trong từ điển ngôn ngữ và nội dung các mục từ trong
từ điển bách khoa. Ranh giới giữa chúng tưởng như rõ ràng nhưng lại trở nên tù
mù và phụ thuộc vào quan điểm của người biên soạn. Có những từ chỉ có thể
đưa vào từ điển ngôn ngữ như: “hoa hậu”, “cây cối”, “trai gái”… Lại có những
mục từ về khái niệm, thuật ngữ chuyên ngành chỉ có thể đưa vào từ điển bách
khoa như: “cơ cấu kinh tế” , “đường kinh tuyến”, “thềm lục địa”… Đồng thời,
lại có cả một loại thứ ba vừa có thể đưa vào từ điển ngôn ngữ, lại vừa có thể
xuất hiện trong từ điển bách khoa. Chẳng hạn như “chụp X quang”, là một thuật
ngữ thuộc chuyên ngành Y học, nhưng lại khá phổ biến trong đời sống. Do đó,
có thể xuất hiện ở cả hai loại hình từ điển ngôn ngữ và từ điển bách khoa.
Nhìn ở góc độ cấu trúc vi mô, sự khác biệt giữa Từ điển Bách khoa và
Từ điển Ngôn ngữ thể hiện ở các yếu tố của cấu trúc vi mô cũng như cách định
nghĩa, cách diễn đạt của 2 loại từ điển này. Như trên chúng tôi đã trình bày, cấu
trúc vi mô của từ điển bao gồm Từ đầu mục và toàn bộ những thông tin về mọi
mặt của đầu mục được định nghĩa, giải thích phía sau Từ đầu mục. Những
thông tin về đầu mục có thể là những thông tin về từ vựng, ngữ pháp, phong
cách, chính tả… Người ta có thể chia các yếu tố thuộc cấu trúc vi mô của từ
điển thành hai loại: loại mang thông tin nội dung (lời định nghĩa) và loại mang
thông tin kí hiệu (các thông tin về từ vựng, chính tả, ngữ pháp…).
Nếu như ở Từ điển Ngôn ngữ, các mục từ bao gồm cả hai loại thông tin

nêu trên thì ở Từ điển Bách khoa các mục từ ít xuất hiện các yếu tố mang thông
tin kí hiệu. Chẳng hạn, ở từ điển bách khoa những yếu tố mang thông tin kí hiệu
về phong cách (trang trọng hay xuồng xã), ngữ pháp (từ loại danh từ, động từ
hay tính từ…) là không hề có. Bởi vì đã là những thuật ngữ khái niệm thì hoàn
toàn là khách quan và mang tính khoa học cao. Hơn nữa, nhu cầu của người sử


dụng Từ điển Bách khoa là tra cứu, tìm hiểu thông tin về các thuật ngữ, khái
niệm khoa học, các tri thức khoa học chứ không phải là tra cứu, tìm hiểu nghĩa
và cách sử dụng của một từ, một ngữ nào đó.
Nói một cách ngắn gọn thì Từ điển Bách khoa chỉ giải thích nội hàm
khái niệm của các mục từ, các thuật ngữ khoa học mà từ biểu hiện chứ không
giải thích bản thân các từ. Do đó, Từ điển Bách khoa không quan tâm tới việc từ
này có biến thể ngữ âm, từ vựng nào khác không; cũng không quan tâm tới
thông tin ngữ pháp của từ đó thuộc từ loại nào, phong cách sử dụng là trang
trọng hay xuồng xã… Do đó, những yếu tố mang thông tin kí hiệu ở Từ điển
Bách khoa là không nhiều.
Việc phân định hai loại từ điển nói trên còn gặp phải một khó khăn nữa
thuộc về sự tách bạch về nội dung biên soạn của 2 loại từ điển. Từ điển ngôn
ngữ chỉ định nghĩa, giải thích từ, không phát triển gì thêm những nội dung có
tính bách khoa của từ. Nhưng trên thực tế, tình hình lại khá phức tạp. Bởi vì,
nếu chỉ giải thích một từ mà không đề cập đến bản chất nội dung mà từ đại diện,
sẽ dẫn đến một định nghĩa khô khan, không đầy đủ, không gây ấn tượng. Vấn
đề là sẽ phát triển đến đâu thì đúng mức, nếu viết quá nhiều thì biến thành từ
điển bách khoa mất. Vì vậy, ở nhiều quốc gia trên thế giới, đã xuất bản những
loại sách công cụ phối hợp từ điển ngôn ngữ với từ điển bách khoa, nghĩa là đối
với mỗi từ, ngoài định nghĩa và giải thích từ đều có thêm phần phát triển bổ
sung nội dung có tính bách khoa của từ. Ví dụ như cuốn “Từ điển Larousse
minh họa nhỏ” của nhà xuất bản Larousse là một từ điển ngôn ngữ, tiếng Pháp,
nhưng trong lời nói đầu lại giới thiệu đây là một cuốn từ điển bách khoa. Cuốn

từ điển này rất nổi tiếng trên thế giới, hàng năm tái bản hàng triệu bản. Hay
cuốn “Từ điển bách khoa Larousse” của nhà xuất bản Larousse (xuất bản năm
1979), tuy có tên gọi là từ điển bách khoa nhưng trong lời nói đầu lại khẳng
định là cuốn sách cung cấp thông tin, định nghĩa, giải thích các từ tiếng Pháp và


các “sự vật” mà từ này thể hiện. Nội dung của cuốn sách vừa thỏa mãn nhu cầu
của độc giả muốn hiểu biết và sử dụng tốt hơn tiếng Pháp, vừa đáp ứng mong
muốn được trang bị những kiến thức bách khoa về mọi lĩnh vực tri thức. Như
vậy, đây vừa là 1 cuốn từ điển ngôn ngữ vừa là một cuốn từ điển bách khoa.
Về lời định nghĩa, giải thích, sự khác biệt giữa từ điển bách khoa và từ
điển ngôn ngữ thể hiện ở chỗ: lời định nghĩa, giải thích các mục từ trong từ điển
bách khoa mang tính khoa học, hàn lâm hơn so với từ điển ngôn ngữ. Điều này
cũng hoàn toàn dễ hiểu do cấu trúc bảng từ của hai loại từ điển là khác nhau.
Một bên là hệ thống các thuật ngữ của các ngành khoa học (từ điển bách khoa)
còn một bên là hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ (từ điển ngôn ngữ).
1.2.3. Phân biệt Từ điển bách khoa và Bách khoa thư
Mục tiêu, quy mô, đối tượng phục vụ, nội dung, bảng cấu trúc mục từ,
kết cấu mục từ, bảng chỉ dẫn tra cứu, phương pháp biên soạn của từ điển bách
khoa và bách khoa toàn thư là khác nhau. Tuy đều là sách công cụ nhưng chức
năng của hai loại sách này có phần giống lại có phần khác nhau.
Bách khoa toàn thư rất đa dạng, loại hình cũng rất phong phú, có nhiều
mô hình biên soạn khác nhau và đang ở trong giai đoạn vận động, thay đổi liên
tục, chưa hình thành được những hình mẫu cố định. Có loại được biên soạn theo
chủ đề, có loại lại được biên soạn theo mục từ, độ dài cũng khác nhau. Từ điển
bách khoa cũng vậy, rất nhiều chủng loại, có loại gắn kết hữu cơ với từ điển
ngôn ngữ, có loại chủ yếu thu thập những mục từ mang tính bách khoa… Như
vậy, trên thực tế, việc phân biệt hai loại hình từ điển này là rất khó khăn, vì phổ
của mỗi loại rất rộng. Phổ ở đây là muốn nói về cấu trúc mục từ, thành tố cơ
bản của từ điển bách khoa hay bách khoa toàn thư.

Từ điển bách khoa là loại sách dùng để tra cứu, tìm kiếm thông tin
nhanh và thuận tiện. Còn bách khoa toàn thư là loại sách giúp cho việc tra cứu,

×