Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 108 trang )



















































ĐẠI HỌC QUỐC GIA HA NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC















HOÀNG THỊ HÀ


NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU PHÉP TỈNH LƯỢC
HỒI CHỈ TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT




LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC

















Hà Nội - 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HA NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA NGÔN NGỮ HỌC
 






HOÀNG THỊ HÀ


NGHIÊN CỨU ĐỐI CHIẾU PHÉP TỈNH LƯỢC
HỒI CHỈ TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT


LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Khóa: 2005-2008



Hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Hồng Cổn














Hà Nội - 2008




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU Trang
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
3. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu 4
4. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn 5
5. Bố cục của luận văn 6
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG 7
1.1 Chỉ xuất và hồi chỉ 7
1.1.1 Chỉ xuất và các biểu thức chỉ xuất 7
1.1.2. Hồi chỉ và các phương tiện hồi chỉ 9
1.1.2.1 Khái niệm hồi chỉ 9
1.1.2.2 Các phương tiện hồi chỉ (Anaphoric Devices) 11

a. Đại từ nhân xưng (Pronouns) 11
b. Chỉ định từ (Determiners) 12
c. Liên hệ từ vựng ( Lexical Relationship) 13
d. Tỉnh lược (Ellipsis) 14
e. Thay thế (Substitution) 15
f. Đồng vị ngữ (Apposition) 16
1.2 Tỉnh lược và các chức năng của Tỉnh lược 17
1.2.1 Khái niệm Tỉnh lược 17
1.2.2 Các chức năng của tỉnh lược 19
1.2.2.1 Tỉnh lược có chức năng rút gọn 20
1.2.2.2 Tỉnh lược có chức năng thay thế 22 1.2.2.3 Tỉnh lược có chức năng trực chỉ 24

1.2.2.4 Tỉnh lược có chức năng khứ chỉ 26
1.2.2.5 Tỉnh lược có chức năng hồi chỉ 27
1.3 Tỉnh lược hồi chỉ là gì? 29
1.3.1 Quan điểm về tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh 29
1.3.2 Quan điểm về tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Việt 32
1.3.3 Quan điểm của luận văn về Tỉnh lược hồi chỉ 37
CHƯƠNG 2:
TỈNH LƯỢC HỒI CHỈ CHỦ NGỮ TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT 40
2.1 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Anh 41
2.1.1 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu đơn 41
2.1.2 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép đẳng lập (co- ordinated
clauses) 43
2.1.3 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong các câu ghép chính phụ (Subordinated
clauses) 47
2.2 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng Việt 50
2.2.1 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu đơn 50
2.2.2 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép đẳng lập 53
2.2.3 Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong câu ghép chính phụ 54

2.3 Đối chiếu và Chuyển dịch 55
2.3.1 Đối chiếu 55
2.3.2 Chuyển dịch 59
2.3.2.1 Tương đồng 59
2.3.2.2 Khác biệt 60
2.4 Tiểu kết 69
CHƯƠNG 3:
TỈNH LƯỢC HỒI CHỈ VỊ NGỮ TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT 71
3.1 Tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ trong tiếng Anh 72
3.1.1 Tỉnh lược hồi chỉ một phần của vị ngữ 72
3.1.1.1 Chỉ tỉnh lược hồi chỉ thành phần động từ chính của vị ngữ 72

3.1.1.2 Tỉnh lược hồi chỉ động từ chính (hoặc động từ tobe) + bổ
ngữ………………………………………………………………………… 74
3.1.1.3 Tỉnh lược hồi chỉ thành phần bổ ngữ trong vị ngữ 75
3.1.2 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ 78
3.1.2.1 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ trong câu đơn 79
3.1.2.2 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ trong câu ghép đẳng lập 80
3.1.2.3 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ trong câu ghép chính phụ 81
3.1.2.4 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ trong câu bị động 82
3.2 Tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ trong tiếng Việt 83
3.2.1 Tỉnh lược hồi chỉ một phần của vị ngữ 83
3.2.1.1 Tỉnh lược hồi chỉ động từ chính của vị ngữ 83
3.2.1.2 Tỉnh lược hồi chỉ thành phần bổ ngữ trong vị ngữ 84
3.2.2 Tỉnh lược hồi chỉ toàn phần vị ngữ 85
3.3 Đối chiếu và Chuyển dịch 87
3.3.1. Đối chiếu 87
3.3.2 Chuyển dịch 89
3.3.2.1 Tương đồng 89
3.3.1.2 Khác biệt 91

3.4 Tiểu kết 95
KẾT LUẬN 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101

CÁC QUY ƯỚC VIẾT TẮT

TLHC: Tỉnh lược hồi chỉ
TLHC CN: Tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ
TLHC VN: Tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ
: rêzô
TA: Tiếng Anh
TV: Tiếng Việt
NXB: Nhà xuất bản
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trước sự phát triển mạnh mẽ và xu thế hội nhập toàn cầu của đất nước,
ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng ngày càng chứng tỏ vị trí quan
trọng trong xã hội. Do vậy, việc nắm vững những đặc điểm tương đồng và dị
biệt giữa tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt và tiếng Anh là điều hết sức cần thiết để có
thể truyền tải đầy đủ và chính xác nội dung thông điệp khi thực hiện chuyển
dịch từ Anh sang Việt hay ngược lại. Chúng ta có thể nhận diện những đặc
điểm tương đồng hay dị biệt này giữa hai ngôn ngữ này qua nhiều khía cạnh
như ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng Tuy nhiên, ít ai biết rằng có một hiện tượng
ngữ pháp xảy ra khá phổ biến có thể giúp ta nhận thấy rất rõ những đặc điểm
khác nhau và giống nhau giữa hai ngôn ngữ trong quá trình chuyển dịch, đó là

hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ.
Tỉnh lược hồi chỉ là một hiện tượng khá phức tạp. Như ta đã biết, tỉnh
lược là phương thức liên kết quan trọng trong hệ thống liên kết văn bản. Nó
đã vượt qua giới hạn của một phát ngôn để thể hiện sự duy trì liên kết ở mức
độ giữa các phát ngôn khác nhau trong văn bản. Hơn thế nữa, nó cũng góp
phần tạo cho văn bản tính hệ thống chặt chẽ và chính xác mà lại tiết kiệm
được ngôn từ. Tỉnh lược hồi chỉ là một dạng đặc biệt của phương thức tỉnh
lược. Nó không những đem lại những hiệu quả ngữ dụng cũng như tính mạch
lạc cao hơn cả các phương thức liên kết thông thường mà còn được đánh giá
là một trong những biện pháp rút gọn và liên kết tối ưu nhất. Bàn về vấn đề
này, tác giả Cao Xuân Hạo [5, 198] đã sử dụng thuật ngữ "hồi chỉ rê rô" và có
nhận xét trong cuốn Sơ thảo ngữ pháp chức năng (quyển 1) như sau: “Một
câu không có yếu tố hồi chỉ thì tính độc lập của nó cao hơn và do đó ít gắn bó
với văn cảnh hơn một câu có yếu tố hồi chỉ, trong đó có cả hồi chỉ

(Tỉnh
lược)”.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
2
Ta có thể thấy rằng vấn đề này đã được đề cập đến tương đối nhiều
trong nghiên cứu ngôn ngữ học với nhiều thuật ngữ khác nhau: hồi chỉ zê rô,
tỉnh lược hồi chỉ, thế bằng zê rô Sở dĩ chưa có sự thống nhất về tên gọi là do
những khác biệt về quan điểm và góc độ nhìn nhận từ nhiều cách tiếp cận
khác nhau của các nhà nghiên cứu. Hơn thế nữa, phương thức tỉnh lược hồi
chỉ trong hai ngôn ngữ Anh và Việt có những đặc điểm khác biệt nhau về
hình thức cấu trúc và tần số xuất hiện trong quá trình dịch thuật. Do vậy, khi
chuyển dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt, các câu có chứa phương thức tỉnh
lược hồi chỉ không phải lúc nào cũng tương ứng hoàn toàn về cấu trúc cũng

như dạng thức liên kết. Sau đây là một ví dụ về hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ:
(1) The King was so charmed with his address that he ordered a little chair to
be made, in order that Tom might sit upon his table, and

also a palace of
gold, a span high, with a door an inch wide, to live in.
(Đức vua rất vui thích vì sự khôn ngoan của chú. Ngài ra lệnh thuê làm một
chiếc ghế tựa nhỏ và đặt lên trên bàn của ngài cho Tôm ngồi. Ngài cũng sai
làm một chiếc lâu đài bằng vàng cao một gang tay, với một cái cửa ra vào
rộng một insơ để chú ở.)
(Truyện chú Tôm tí hon, Tr18, Truyện cổ tích Anh, NXB Giáo dục 2003)
Xét ví dụ trên, ta có thể thấy rằng câu nguyên bản tiếng Anh là một câu
ghép nhiều vế lại với nhau. Trong đó có một chuỗi quy chiếu hồi chỉ đến một
chủ thể làm chủ ngữ lần lượt là: “the King” (Đức vua) - “he” (ngài) - “”.
Trong câu này, chủ ngữ cuối cùng là , nghĩa là chủ thể đã được tỉnh lược
hồi chỉ, thay vì lặp lại từ "he". Tuy nhiên khi câu tiếng Anh này được chuyển
dịch sang tiếng Việt thì đã có sự khác biệt rõ ràng. Mặc dù khi chuyển dịch
sang tiếng Việt, ý nghĩa nội dung của câu không thay đổi nhưng rõ ràng đã có
sự khác biệt về cấu trúc và phương thức sử dụng để liên kết hồi chỉ. Lúc này
câu ghép tiếng Anh đã được chuyển dịch sang thành ba câu đơn riêng biệt và
có chuỗi quy chiếu hồi chỉ giữa các câu đơn là: “Đức vua” - “ngài” - “ngài”.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
3
Như vậy, trong câu tiếng Việt đã không còn sử dụng phương thức liên kết tỉnh
lược hồi chỉ như trong câu gốc tiếng Anh nữa mà thay thế bằng phương thức
liên kết lặp từ vựng “ngài”. Như vậy ta thấy có sự khác biệt rõ ràng về cấu
trúc ngữ pháp cũng như cách sử dụng phương thức liên kết khi chuyển dịch
bản tiếng Anh sang tiếng Việt nhưng nội dung thông báo thì vẫn không thay

đổi.
Mặc dù có một vai trò quan trọng trong liên kết văn bản nhưng trên
thực tế tỉnh lược hồi chỉ vẫn là một vấn đề hết sức phức tạp, gây ra nhiều ý
kiến tranh luận khác nhau. Đặc biệt, theo hiểu biết của chúng tôi, hiện nay
chưa có công trình khoa học nào đi nghiên cứu sâu về hiện tượng tỉnh lược
hồi chỉ, nhất là trên bình diện đối chiếu trên cứ liệu hai ngôn ngữ Anh - Việt.
Để góp phần tìm hiểu thêm phương thức tỉnh lược hồi chỉ cũng như để thấy
được những đặc điểm tương đồng và dị biệt giữa tiếng Anh và tiếng Việt
thông qua việc đối chiếu ngữ liệu Anh - Việt có hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ,
luận văn của chúng tôi nhằm đến hai mục đích cụ thể sau:
(1) Mô tả và tìm hiểu những đặc điểm tương đồng và dị biệt của
phương thức tỉnh lược hồi chỉ trong quá trình dịch thuật giữa hai ngôn ngữ
Anh và Việt.
(2) Khảo sát các cách chuyển dịch phương thức tỉnh lược hồi chỉ trong
tiếng Anh sang tiếng Việt.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng khảo sát của chúng tôi là các dạng thức biểu hiện của tỉnh
lược hồi chỉ các thành phần của nòng cốt câu là: Chủ ngữ, vị ngữ trong tiếng
Anh và dạng thức tương ứng trong tiếng Việt ở cấp độ câu và chuỗi câu.
Tuy nhiên, tỉnh lược hồi chỉ là một vấn đề rất rộng và phức tạp. Chúng
tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu hiện tượng này trong khuôn khổ đối chiếu
tiếng Anh và tiếng việt trên bình diện dịch thuật và tần số xuất hiện trên ngữ
liệu song ngữ Anh - Việt.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
4
3. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu chung
là phương pháp quy nạp.

Ngoài ra chúng tôi còn áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu chuyên
ngành cụ thể như phương pháp miêu tả, phương pháp phân tích đối chiếu và
phương pháp thống kê.
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp miêu tả được sử dụng nhằm khảo
sát và mô tả các đặc điểm ngữ nghĩa của các dạng tỉnh lược hồi chỉ và phân
loại chúng trên tư liệu hai ngôn ngữ trước khi tiến hành phân tích đối chiếu.
- Phương pháp phân tích - đối chiếu: Luận văn sử dụng phương pháp
phân tích đối chiếu với quan điểm lấy tiếng Anh làm xuất phát điểm để đối
chiếu với tiếng Việt. Qua đó, chúng tôi xem xét tính tương ứng hay không
tương ứng, hay nói cách khác là những tương đồng hay dị biệt giữa tỉnh lược
hồi chỉ trong văn bản tiếng Anh và dạng thức tương ứng trong văn bản dịch
tiếng Việt. Để tiến hành phân tích, đối chiếu sự giống nhau và khác nhau của
hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ một cách thuận lợi và chính xác, chúng tôi sẽ
trích dẫn những tư liệu bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt.
- Phương pháp thống kê: Trong luận văn, chúng tôi sử dụng phương
pháp thống kê để thu thập tư liệu về tần số xuất hiện của phương thức liên kết
tỉnh lược hồi chỉ trong các văn bản song ngữ Anh - Việt.
Về tư liệu nghiên cứu, chúng tôi tiến hành nghiên cứu và thống kê tư
liệu trong những văn bản song ngữ Anh - Việt có độ tin cậy cao về mặt dịch
thuật. Chúng tôi đã thu thập được 204 phiếu (trong đó mỗi phiếu là phần trích
dẫn tiếng Anh và đi kèm theo là phần tiếng Việt đối dịch tương ứng), được
chọn lọc ra từ 1.484 câu của 6 văn bản song ngữ Anh – Việt. Các tác phẩm
được trích dẫn bao gồm:
(1) Cái chết trắng (White Death), Tim Vicary, Thôn Bạch Hạc
dịch, Nhà Xuất bản Kim Đồng, Hà Nội, 1999.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
5
(2) Chú mèo đi hia (Puss in boots), Trần Bích Thoa dịch, truyện

cổ tích Anh, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003.
(3) Đích Uýtingtơn - Ngài thị trưởng thành phố Luân Đôn (Dick
Whittington), Trần Bích Thoa dịch, truyện cổ tích Anh, Nhà xuất bản Giáo
dục, 2003.
(4) Truyện chú Tôm tí hon (The history of Tom Thumb), Trần
Bích Thoa dịch, truyện cổ tích Anh, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003.
(5) Cô bé mặc áo choàng mũ đỏ (Red Riding Hood), Trần Bích
Thoa dịch, truyện cổ tích Anh, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003.
(6) Cậu Giắc và cây đậu (Jack and the Beanstalk), Trần Bích
Thoa dịch, truyện cổ tích Anh, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003.
4. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lí luận: Theo những tài liệu mà chúng tôi có được thì cho đến
nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu đối chiếu hiện tượng
tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt một cách có hệ thống và đầy
đủ. Do vậy chúng tôi mong muốn đưa ra những tìm hiểu ban đầu về tỉnh lược
hồi chỉ cũng như những nét tương đồng và dị biệt của hiện tượng này giữa hai
ngôn ngữ, góp phần vào việc nghiên cứu vấn đề này cùng với các nhà Anh
ngữ và Việt ngữ học.
- Ý nghĩa thực tiễn: Phương thức liên kết tỉnh lược hồi chỉ được đánh
giá là một trong các phương thức đem lại hiệu quả liên kết và ngữ dụng tối ưu
nhất. Do vậy, chúng tôi mong rằng kết quả nghiên cứu của luận văn này sẽ
đóng góp phần vào việc phát hiện những điểm giống nhau và khác nhau giữa
hai ngôn ngữ và kiến giải vấn đề để nâng cao hiệu năng trong sử dụng và
nghiên cứu, nhất là nâng cao chất lượng dịch thuật, giảng dạy tiếng Việt cho
người Việt và cho người nói tiếng Anh học tiếng Việt. Từ đó, giúp cho người
học có thể phân tích và tiếp thụ văn bản song ngữ Anh - Việt một cách hiệu
quả. Đặc biệt, khi hiện nay tiếng Anh ngày càng có vị thế quan trọng trong xã
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà

6
hội chúng ta và tiếng Việt đã và đang trở thành một ngoại ngữ thực sự và có
phạm vi ứng dụng rộng rãi.
5. Bố cục của luận văn
Trong khuôn khổ luận văn này, ngoài phần mở đầu và phần kết luận,
chúng tôi sẽ trình bày phần nội dung gồm các chương sau đây:
- Chương 1: Cơ sở lí luận chung
- Chương 2: Đối chiếu hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ trong tiếng
Anh và tiếng Việt và khảo sát khả năng chuyển dịch.
- Chương 3: Đối chiếu hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ trong tiếng
Anh và tiếng Việt và khảo sát khả năng chuyển dịch.
Ngoài ra, luận văn còn có phần phụ lục bao gồm 204 phiếu tư liệu tiếng
Anh có chứa hiện tượng tỉnh lược hồi chỉ chủ ngữ, tỉnh lược hồi chỉ vị ngữ và
phần đối dịch tiếng Việt được trích dẫn từ các văn bản song ngữ Anh - Việt
hiện đại.


Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG

1.1 Chỉ xuất và hồi chỉ
1.1.1 Chỉ xuất và các biểu thức chỉ xuất
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn Đại cương Ngôn ngữ học (Tập
II: Ngữ dụng học) thì chỉ xuất (dexis) là phương thức chiếu vật dựa trên hành
động chỉ trỏ. Quy tắc điều khiển chỉ trỏ là: sự vật được chỉ trỏ phải ở gần

(trong tầm với của người chỉ và trong tầm nhìn của cả người chỉ lẫn người
được chỉ) đối với một vị trí được lấy làm mốc. Điểm lấy làm mốc để chỉ trỏ
thường là cơ thể của người chỉ tính theo hướng nhìn thẳng của người này.
Quy tắc này sẽ giải thích sự chiếu vật bằng chỉ xuất trong ngôn ngữ. [2, 72]
Tất cả các ngôn ngữ đều có hệ thống từ chuyên chiếu vật theo phương
thức chỉ xuất. Trong đó có thể liệt kê ra ba phạm trù chỉ xuất trong các ngôn
ngữ là phạm trù ngôi (nhân xưng), phạm trù chỉ xuất không gian, phạm trù chỉ
xuất thời gian.
- Phạm trù ngôi (tức nhân xưng): Phạm trù ngôi hay phạm trừ xưng hô
bao gồm những phương tiện chiếu vật nhờ đó người nói tự quy chiếu, tức tự
đưa mình vào diễn ngôn (tự xưng) và đưa người giao tiếp với mình (đối xưng)
vào diễn ngôn. Như thế, phạm trù ngôi thuộc quan hệ vai giao tiếp ngay trong
cuộc giao tiếp đang diễn ra với điểm gốc là người nói. Khi vai trò người nói
luân chuyển thì ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai cũng thay đổi theo: ở lời nói của
Sp1 thì Sp1 là tôi (I), còn Sp2 là anh (you). Đến khi Sp2 nói thì Sp2 sẽ là tôi
(I) còn Sp1 sẽ là anh (you). [2, 72]
- Phạm trù chỉ xuất không gian: Là phương thức chiếu vật bằng cách
chỉ ra sự vật (sự kiện) theo vị trí tương đối của nó trong không gian theo một
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
8
điểm mốc để định vị không gian của sự vật, sự việc. Hoặc người ta lấy một
điểm không gian làm điểm mốc định vị sự vật, sự việc.
- Phạm trù chỉ xuất thời gian: Là phương thức chiếu vật bằng cách lấy
lấy thời điểm nói năng làm điểm gốc. Hiện tại, quá khứ, tương lai là so với
thời gian nói - điểm gốc đó. Đó là các từ như: now (bây giờ), then (bấy giờ),
Trong chỉ xuất có sự phân biệt giữa nội chỉ (endophoric) và ngoại chỉ
(exophoric). Biểu thức chỉ xuất ngoại chỉ khi sự vật - nghĩa chiếu vật của nó
nằm ngoài diễn ngôn, trong thế giới thực tại. Biểu thức chiếu vật nội chỉ khi

sự vật - nghĩa chiếu vật cuả nó đã nằm trong diễn ngôn (tức nằm trong nhận
thức của người nói, người nghe). [2, 74]
Trong phạm vi khoá luận này, chúng tôi chỉ bàn về vấn đề nội chỉ,
nghĩa là vấn đề chỉ xuất trong diễn ngôn (chỉ xuất trong văn bản) và cụ thể là
phương thức tỉnh lược hồi chỉ trong văn bản. Nội chỉ là phương thức chỉ xuất
sự vật đang được nói đến trong một lời nói, một phát ngôn theo việc nó đã
được nói đến trong tiền văn hay nó sẽ được nói tới trong hậu văn hay không.
Biểu thức chiếu vật đang nói tới trong phát ngôn được dùng để thay thế cho
sự vật đã được nói trước trong tiền văn hoặc sẽ được nói tới trong hậu văn.
Xét ví dụ sau đây:
(2) "Lớp bàn về khuyết điểm của Quân trong học tập. Về điều ấy tôi có ý kiến
như thế này: Quân đã tỏ ra không tôn trọng tập thể”.
Trong ví dụ trên, biểu thức "điều ấy” thay thế cho biểu thức chiếu vật
“khuyết điểm của Quân trong học tập” đã được nói tới ở tiền văn; biểu thức
“như thế này” thay thế cho điều sẽ được nói tới ở sau: “Quân đã tỏ ra …”.
biểu thức chiếu vật trong diễn ngôn "điều ấy” có tính chất hồi chỉ (anaphoric)
còn biểu thức “như thế này” có tính chất khứ chỉ (cataphoric).
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
9
1.1.2. Hồi chỉ và các phương tiện hồi chỉ
1.1.2.1 Khái niệm hồi chỉ
Trong văn bản cũng như trong quá trình giao tiếp, con người có thể lựa
chọn những yếu tố ngôn ngữ và cách diễn đạt phù hợp để tổ chức phát ngôn
nhằm phục vụ cho ý đồ thông báo riêng của mình. Thực tế, khi viết cũng như
khi nói, người ta có xu hướng lựa chọn cách diễn đạt tối ưu nhất, vừa tiết
kiệm ngôn từ mà vẫn đảm bảo tính hiệu quả trong khi diễn đạt ngữ nghĩa của
người nói theo các ý đồ thông báo khác nhau. Các nhà ngôn ngữ đã chỉ ra
rằng hồi chỉ là một trong những phương thức liên kết văn bản tối ưu góp phần

tạo nên tính mạch lạc trong văn bản và có phạm vi sử dụng khá phổ biến. Hầu
như trong ngôn ngữ nào cũng sử dụng hồi chỉ để liên kết. Do tầm quan trọng
như vậy, đã có không ít các công trình trong nước và ngoài nước xem xét vấn
đề này với phạm vi và mức độ khác nhau. Vậy hồi chỉ là gì?
Bàn về khái niệm hồi chỉ, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều thuật ngữ
khác nhau như: hồi chỉ, hồi chiếu, liên kết hồi quy… Có thể liệt kê các quan
điểm của các tác giả: Trần Ngọc Thêm, Nguyễn Thiện Giáp, Diệp Quang
Ban, Cao Xuân Hạo và các tác giả nước ngoài như: Geogre Yule, Halliday,
David Nunan…Theo đó, ta thấy thuật ngữ “hồi chiếu” được sử dụng trong các
sách như “Dụng học” của George Yule; “Dẫn nhập phân tích diễn ngôn” của
David Nunan; Văn bản và liên kết trong tiếng Việt của Diệp Quang Ban.
Trong đó khái niệm “hồi chiếu ” mà Diệp Quang Ban đưa ra như sau:
"Hồi chiếu là trường hợp yếu tố giải thích xuất hiện trước, yếu tố được
giải thích xuất hiện sau. Vì vậy muốn hiểu yếu tố được giải thích thì phải quay
trở lại với yếu tố giải thích nằm trong phần lời đã nói trước đó, tức tham
khảo ở phần lời đã có trước yếu tố được giải thích." [1, 178].
Trong khi đó các tác giả Trần Ngọc Thêm, Võ Văn Chương, Nguyễn
Thị Việt Thanh… lại gọi đây là liên kết hồi quy. Tiêu biểu là ý kiến do Trần
Ngọc Thêm đưa ra trong cuốn “Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt ”.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
10
"Trong phần lớn các liên kết hiện diện, kết ngôn đứng sau chủ ngôn, nó
chỉ ra sự liên kết với phần văn bản đã qua. Loại liên kết này, ta sẽ gọi là liên
kết hồi quy. Các phát ngôn có liên kết hồi quy không bao giờ đứng đầu văn
bản". [15, 81] .
Tuy nhiên, phần đông các tác giả dùng thuật ngữ hồi chỉ (Anaphora)
như: Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thiện Giáp, Halliday, Đường Công Minh…
Tiêu biểu phải kể đến quan niệm mà tác giả Cao Xuân Hạo đã đưa ra trong

cuốn “Cơ sở ngữ pháp chức năng (q.1)” như sau:
"Các câu làm thành một tổ hợp câu hay một đoạn văn có thể gồm có
những sở chỉ chung. Trường hợp đó sở chỉ của những danh ngữ, động ngữ
trong một câu hay của cả câu đó có thể biểu thị bằng những yếu tố hồi chỉ
(anaphoric) trong các câu kế tiếp theo…" [7, 195].
Nhìn chung, “hồi chỉ” có nhiều cách gọi khác nhau nhưng hầu như các
nhà nghiên cứu đều có chung quan điểm là yếu tố hồi chỉ chỉ ra một đối tượng
bên ngoài nhờ vào mối quan hệ đồng sở chỉ với một yếu tố có mặt ở tiền biểu
thức (hoặc tiền từ). Muốn xác định được quy chiếu của yếu tố hồi chỉ phải
dựa vào các phát ngôn chứa tiền từ đứng ở phía trước. Trên cơ sở tiếp thu các
ý kiến cuả các nhà nghiên cứu đi trước, tác giả Võ Văn Chương đã đề ra ba
điều kiện để xác định một liên kết hồi quy trong bài báo “Liên kết hồi quy
trong ngôn ngữ học văn bản - Vài kiến nghị về cách xác định và phân loại”
(Ngôn ngữ số 7, 2004).
(1) Sự phụ thuộc vào ngôn cảnh của kết tố: tức là đòi hỏi sự giải nghĩa
của kết tố hồi quy phải dựa vào ngôn cảnh mà nó xuất hiện.
(2) Chủ tố phải hiện diện trong ngôn cảnh đặt trước kết tố và được xác
định một cách rõ ràng.
(3) Bắt buộc phải có sự lặp lại của chủ tố.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
11
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi thống nhất sử dụng thuật ngữ
“hồi chỉ” và lấy khái niệm mà tác giả Diệp Quang Ban đưa ra làm cơ sở
nghiên cứu của luận văn.
1.1.2.2 Các phương tiện hồi chỉ (Anaphoric Devices)
Theo tìm hiểu của chúng tôi, mặc dù hồi chỉ là vấn đề phổ quát, thế
nhưng các phương tiện hồi chỉ (Anaphoric Devices) vẫn còn là vấn đề khá
mới mẻ đối với các nhà ngôn ngữ, đặc biệt là trong giới Việt ngữ học. Qua

tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy rằng nhà ngôn ngữ học người Anh Richard
Hudson (hay còn gọi là Dick Hudson) là một trong số ít những nhà ngôn ngữ
xem xét đến vấn đề này trong cuốn “Coherence: Anaphora and Reference”
(Liên kết: Hồi chỉ và Quy chiếu). Theo quan điểm của Richard Hudson [30],
hồi chỉ là một dạng của liên kết vì nó kết nối bằng cách quy chiếu một từ
ngược trở lại với một từ khác đứng trước có cùng sở chỉ với nó. Theo nhà
ngôn ngữ học người Anh này thì có 5 phương tiện hồi chỉ như sau:
a. Đại từ nhân xưng (Pronouns)
Đại từ là lớp từ được sử dụng phổ biến nhất để tạo nên chuỗi quy chiếu
về người hoặc vật dù trong cùng một câu hoặc câu đi trước là sử dụng đại từ
nhân xưng và hình thức sở hữu (chẳng hạn “she- cô ấy”; “her - cuả cô ấy”, “it
- nó”, “they - họ”, “them- họ”, “their - cuả họ”…). Ta xét ví dụ sau:
(3) "Once upon a time there was an old woman who had a lazy son. She was
forever scolding him, but it made no difference - he spent all his time lying in
the sunshine, ignoring her. His main job was to look after her goats, but he
preferred to sleep in the sun".
(Ngày xưa có một bà già có một người con trai rất lười. Bà ta luôn luôn rầy
la hắn, nhưng điều đó chẳng có ảnh hưởng gì cả - hắn dành tất cả thời gian
để nằm sưởi nắng, phớt lờ bà mẹ. Công việc chủ yếu của hắn là trông coi đàn
dê của mẹ nhưng mà hắn lại thích nằm ngủ sưởi nắng hơn. )
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
12
Hồi chỉ (anaphora) là cách gọi tên cho mối quan hệ giữa hai chuỗi quy
chiếu trong đoạn văn trên là:
An old woman (một bà già)- she (bà ta) - her (bà ta) - her (của bà)
An lazy son (một người con trai lười) - him (hắn ta)- he (hắn ) - his
(của hắn) - his (của hắn) - he (hắn)
Ta thấy trong ví dụ trên, các đại từ đã thực hiện chức năng hồi chỉ và

tạo nên mối liên kết, mạch lạc cho cả đoạn văn một cách rõ ràng, dễ hiểu.
Trong đoạn văn trên, nhờ có các đại từ nhân xưng và đại từ sở hữu được sử
dụng một cách thích hợp, ta biết được chính xác có hai nhân vật được đề cập
đến, một là “he”- đàn ông và hai là “she” - đàn bà, và cụ thể là hai nhân vật:
bà mẹ và người con trai.
b. Chỉ định từ (Determiners)
Các từ chỉ định (this- cái này, that - cái kia, these - những cái này, those
- những cái kia) cũng có chức năng hồi chỉ tương tự. Về nguồn gốc có lẽ
chúng giống với các hình thức ngôi thứ ba nhưng chúng giữ lại được những
đặc điểm chỉ trỏ mạnh mẽ hơn các yếu tố nhân xưng, và đã tiến hóa thành các
chức năng hồi chỉ khu biệt riêng của chúng.
Nét nghĩa cơ bản của “this/these” và “that / those” là nét nghĩa chỉ sự
kề cận. “this/ these ” chỉ một cái gì đó ở gần, “that/ those” chỉ một cái gì đó
không ở gần. Ta có các ví dụ minh họa sau:
(4) People are beginning to realize the true scale of the problem facing them.
Some of these are Germany’s alone, though with powerful European side -
effects (“these” = “these problems”).
(Người ta bắt đầu nhận ra mức độ đúng đắn cuả vấn đề họ gặp. Một vài vấn
đề ấy của riêng nước Đức, mặc dầu có tác động mạnh mẽ của châu Âu ).
(5) A century earlier, Messina had had a famous architechural seafront, lined
with elegant palaces. Only remmants of that remained.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
13
(Thế kỷ trước, Messina đã có một công trình kiến trúc nổi tiếng hướng ra
biển, với nhiều toà lâu đài tao nhã. Chỉ có một số tàn dư của công trình đó là
còn tồn tại.)
Các yếu tố chỉ định chỉ địa điểm “here” và “there” cũng được sử dụng
làm phương thức hồi chỉ nơi chốn đã được đề cập hoặc hàm ẩn trong văn bản.

(6) The house stood near a quiet sandy beach facing across the vast distances
of the lake of Oulu; here she could wander and imagine herself on the edge of
a great sea.
(Ngôi nhà nằm cạnh bãi cát biển yên tĩnh đối mặt với khoảng không bao la
của hồ Oulu; ở đây cô ấy có thể bách bộ và hình dung mình đang bên bờ đại
dương)
(7) My father expects to land at Portsmouth within the portnight. It would
mean so much to me to be there on the dock, waiting for him.
(Bố tôi mong cập cảng Portsmouth trong vòng nửa tháng nữa. Được có mặt ở
đấy, tại bến tàu để đợi ông, đối với tôi rất có nhiều ý nghĩa)
Ngoài ra, do tiếng Anh là ngôn ngữ biến hình, nên còn có một phương tiện
hồi chỉ khác là mạo từ “the”. Mạo từ “the” thông thường được sử dụng để
chỉ ra một nhân vật hay đặc điểm đã được đề cập đến trước đó, hoặc ít nhất đã
được người đọc biết đến, để đối lập với mạo từ không xác định như “a”, “an”
hay “some”, là những từ thể hiện một nhân vật hay đặc điểm mới. Ví dụ:
(8) Once upon a time there was an old woman who had a lazy daughter. The
woman used to scold the daughter all day long.
(Ngày xưa có một người đàn bà già nua có một cô con gái lười biếng. Người
đàn bà thường mắng nhiếc cô con gái suốt ngày)
c. Liên hệ từ vựng ( Lexical Relationship)
Liên kết hồi chỉ có thể được thể hiện bằng cách thiết lập trong ngôn bản
mối liên hệ từ vựng. Đó là cách lựa chọn một từ ngữ có mối quan hệ nào đó
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
14
với từ ngữ khác trước đó về ngữ nghĩa. Liên kết từ vựng có thể được duy trì
qua các phát ngôn hoặc chuỗi phát ngôn dài bằng sự hiện diện của các đơn vị
ngôn ngữ mà ở một khía cạnh nào đó có liên hệ với các đơn vị đã xuất hiện ở
trước đó. Cách đơn giản nhất để hồi chỉ là lặp lại một đơn vị từ vựng. Ví dụ:

(9) Algy met a bear. The bear was bulgy.
(Algy đã gặp một con gấu. Con gấu là bulgy)
(10) Sports cars are beautiful. Small cars are very practical.
(Những xe ô tô thể thao đều rất đẹp. Những xe con thì rất thiết thực)
Trong một vài trường hợp nhất định thì việc lặp lại như vậy là có hiệu
quả, nhưng điều này nhanh chóng trở nên nhàm chán nếu như chuỗi câu được
mở rộng tiếp. Một sự lựa chọn đưa ra là thay thế một danh từ hoặc ngữ danh
từ trước đó bằng một từ đồng nghĩa mà nghĩa của từ này có thể rộng hơn hoặc
hẹp hơn so với từ được thay thế. Ví dụ:
(11) Once upon a time an old king was very ill. The old man sent for his
councillors. When they came before him, their ruler told them that he wanted
to divide his kingdom.
(Ngày xưa có một ông vua già rất ốm yếu. Người đàn ông già nua ấy cho gọi
triều thần của ông ta đến. Khi họ đến trước ông, người cai trị của họ nói với
họ rằng ông ta muốn chia vương quốc của ông.)
(12) Con chó run rẩy bước vào. Con vật đáng thương ấy ướt như chuột lột.
d. Tỉnh lược (Ellipsis)
Một hình thức liên kết hồi chỉ khác trong ngôn bản được thông qua là
tỉnh lược (ellipsis), nơi mà chúng ta tiền giả định một thành phần nào đó bằng
thành phần bị bỏ ngỏ. Đó là cách sử dụng phổ biến nhất nhằm tránh sự lặp lại
và có thể coi đây như là một dạng của phép thế. Ta có thể thấy rõ hơn qua các
ví dụ sau:
(13) She might sing, but I don't think she will

(

= sing)
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà

15
(Cô ấy có thể hát, nhưng tôi không nghĩ là cô ấy sẽ hát)
Ở đây, động từ “sing” (hát) đã bị tỉnh lược đi để tránh sự lặp lại
(14) They didn't want to go into the water, and he didn't force them

. (

=
to go into the water)
(Chúng không muốn đi xuống nước, và anh ta cũng không bắt buộc chúng)
Trong trường hợp trên, cụm từ “to go to the water” sau từ “force”
trong câu thứ hai đã được tỉnh lược để tránh lặp lại. Người đọc vẫn hiểu được
bằng cách tự khôi phục lại cụm từ đó dựa vào sự hiện diện của nó ở phía
trước.
e. Thay thế (Substitution)
Trong tiếng Anh có một số từ (ngoài đại từ) cũng có chức năng thay thế
cho những từ ngữ khác, ngữ hoặc mệnh đề. Ta có thể thấy ví dụ rõ ràng nhất
là trong câu hỏi “Yes” và “No” (có/không). Ví dụ:
(15) Do you love me? (Em có yêu anh không?)
- Yes (Có)
Rõ ràng là ý nghĩa của từ “Yes” (có) dựa vào liên kết hồi chỉ, theo ý
nghĩa này thì nó quy chiếu trở lại cụm từ phía trước trong văn bản và trong
trường hợp này đó chính là câu: “Do you love me?” (Em có yêu anh không).
Đây chính là trường hợp điển hình của hồi chỉ: một từ thể hiện nghĩa của cả
câu.
Sau đây chúng ta có thể liệt kê một số từ cơ bản có thể được sử dụng
trong việc thay thế như sau: Thay thế cho cả câu trước: Yes và No (có /
không); Thay thế cho các mệnh đề phía trước: So và Not; Thay thế sử dụng
“do”; Thay thế sử dụng trạng từ “so” và “nor”; Thay thế sử dụng đại từ
“one”; Thay thế sử dụng trạng từ “such” nghĩa là “như thế”.

Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
16
f. Đồng vị ngữ (Apposition)
Đồng vị ngữ là tên gọi cho chuỗi quy chiếu ngắn, trong đó hai danh từ
hoặc hai ngữ danh từ có cùng quy chiếu đặt cạnh nhau trong cùng một câu,
danh từ/ ngữ danh từ đứng sau có trách nhiệm giải thích từ/ngữ đứng trước rõ
ràng hơn, cụ thể hơn. Hay nói cách khác, đồng vị ngữ là một phương tiện của
phương thức hồi chỉ. Xét ví dụ sau:
(16) Benjamin, an elderlyfarmer who was afraid of flying.
(Benjamin, một người nông dân già, rất sợ đi máy bay)
Trong ví dụ trên, danh từ “Benjamin” và danh ngữ “một người nông
dân già” đều có cùng sở chỉ, nghĩa là cùng chỉ đến một người duy nhất. Hay
nói cách khác, “Benjamin” cũng chính là “người nông dân già”. Đây chính
là một trường hợp của đồng vị ngữ. Chúng ta cần chú ý rằng kiểu sử dụng
đồng vị ngữ để hồi chỉ này không giống các kiểu hồi chỉ khác, thành phần thứ
hai (giống như “một người nông dân già”) không cần phải xác định.
Một vài đồng vị ngữ cũng có thể được mở rộng bằng cách thêm vào
cách viết tắt. Ví dụ:
(17) The two brothers, i.e Benjamin and Lewis, like listening to music.
(Hai anh em, đó là Benjamin và Lewis, thích nghe nhạc)
Nếu như xem xét nghiêm khắc thì đồng vị ngữ không đóng góp nhiều vào liên
kết văn bản bởi vì nó chỉ được tìm thấy trong những câu đơn. Nghĩa là ta chỉ
có thể thiết lập mối liên kết hồi chỉ trong phạm vi một câu đơn mà thôi. Tuy
nhiên vấn đề này rất gần gũi với vấn đề chúng ta đang xem xét đến (tức là các
phương tiện hồi chỉ) nên không thể không bàn đến nó.
Tóm lại, hệ thống phương tiện để liên kết hồi chỉ trong văn bản rất
phong phú đa dạng và có phạm vi sử dụng rộng rãi, góp phần tạo cho văn bản
có tính chặt chẽ, mạch lạc. Trên đây chúng tôi chỉ nêu sơ lược về những

phương tiện hồi chỉ thông dụng nhất trong các ngôn ngữ, chủ yếu là ở tiếng
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
17
Việt và tiếng Anh. Có thể nói các phương tiện hồi chỉ không những có tác
dụng liên kết văn bản, tiết kiệm ngôn từ, tránh sự lặp lại nhàm chán đơn điệu
mà còn duy trì chủ đề của văn bản. Tuy nhiên có một dạng hồi chỉ đặc biệt,
thậm chí, còn đem lại hiệu quả liên kết cao hơn các phương tiện hồi chỉ thông
thường. Đó là phương thức hồi chỉ zê rô hay còn gọi là phương thức tỉnh lược
hồi chỉ mà luận văn này sẽ đi sâu nghiên cứu.
1.2 Tỉnh lược và các chức năng của tỉnh lược
1.2.1 Khái niệm tỉnh lược
Là một hiện tượng phổ quát ở nhiều ngôn ngữ, trong đó có tiếng Anh
và tiếng Việt, tính đến nay tỉnh lược đã được các nhà ngôn ngữ nghiên cứu và
xem xét khá kỹ dưới những góc độ khác nhau và mức độ khác nhau. Trong
tiếng Việt, tỉnh lược (ellipsis) còn được các nhà Việt học sử dụng với các
thuật ngữ khác nhau như: hiện tượng tỉnh lược, phép tỉnh lược, sự tỉnh lược
Theo tác giả Cao Xuân Hạo, “Tỉnh lược là bỏ một ngữ đoạn mà sự có
mặt không cần thiết. Nói một cách khác, đó là một phép thay thế một ngữ
đoạn bằng đại từ hồi chỉ zê rô. Cũng như hồi chỉ, tỉnh lược không phải chỉ có
tác dụng tiết kiệm. Tác dụng chủ yếu của hai biện pháp này là thực hiện tính
mạch lạc trong câu và trong một tổ hợp câu. Tác dụng thứ hai của nó là tránh
sự lặp lại nặng nề của các ngữ đoạn cùng một sở chỉ, thường có hại cho tính
mạch lạc của văn bản: một câu không có yếu tố hồi chỉ thì tính độc lập của nó
cao hơn và do đó ít gắn bó với văn cảnh hơn một câu có yếu tố hồi chỉ, trong
đó có cả đại từ hồi chỉ

(tỉnh lược). Sự lặp lại không có mục đích tạo nên
tính mạch lạc, mà thường dùng với mục đích tu từ riêng”. [7, 19]

Nhà ngôn ngữ học Halliday cũng đưa ra quan điểm về tỉnh lược trong
cuốn “Dẫn luận Ngữ pháp chức năng” như sau: “Một cú, hay một phần của
cú, hay một phần (thường bao gồm thành phần từ vựng) của một cụm động từ
hay một cụm danh từ có thể được tiền giả định ở một ví trí sau trong ngôn bản
bằng thủ thuật lược bỏ tích cực (possitive omission) – nghĩa là bằng cách
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
18
không nói gì cả ở nơi cần phải nói để tạo nghĩa, hoặc cấu trúc bị bỏ ngỏ như
trong “not I so”, hiện tượng này dược gọi là tỉnh lược chính danh của câu “I
will not wake him”; hoặc một thành phần chiếm chỗ (thay thế) được thêm vào
để thể hiện khoảng trống như “do” trong “for If I do”. Hiện tượng này được
gọi là “thay thế” (Substitution). [6, 493].
Phạm Văn Tình, một trong những nhà ngôn ngữ học đã đưa hiện tượng
tỉnh lược vào nghiên cứu một cách có hệ thống và bài bản trong tiếng Việt, đã
đưa ra khái niệm về tỉnh lược như sau: "Tỉnh lược là một hiện tượng lược bỏ
các ngữ đoạn ở cấp độ phát ngôn trong giao tiếp. Nó có thể xảy ra ngay trong
nội bộ bản thân mỗi phát ngôn hoặc giữa các phát ngôn với nhau". Từ đó,
trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu của mình, ông đã đưa ra định nghĩa về
phép tỉnh lược trong văn bản là: "Phép tỉnh lược trong văn bản là dạng tỉnh
lược xảy ra giữa các phát ngôn, là sự lược bỏ các yếu tố mà người đọc có thể
hiểu được nhờ mối liên hệ giữa các phát ngôn trong phạm vi một ngữ cảnh
xác định (ngữ cảnh cần và đủ)." [21, 31].
Từ đây, tác giả Phạm Văn Tình đã tìm ra những nhân tố điều kiện của
Tỉnh lược. Ông cho rằng, "ngoại trừ các yếu tố thuộc lĩnh vực văn hóa giao
tiếp (không thể tỉnh lược và phải nói đầy đủ, nếu không sẽ bị coi là xách mé,
thiếu lễ phép ), có thể chỉ ra một số điều kiện cho phép thực hiện phép tỉnh
lược trên văn bản như: 1. Ngữ cảnh giao tiếp; 2. Có mối liên hệ logic-ngữ
nghĩa (mạch lạc trong văn bản); 3. Ý đồ và chiến lược giao tiếp". Như vậy,

theo tác giả Phạm Văn Tình, để miêu tả và phân tích vai trò cũng như giá trị
biểu hiện của phép tỉnh lược, việc nghiên cứu hiện tượng tỉnh lược văn bản
phải kết hợp nghiên cứu đồng thời các nhân tố tham gia vào quá trình tạo lập
phát ngôn bằng phép tỉnh lược. Ví dụ:
(18) Bà ấy mệt quá.

Không lê được một bước.

Không kêu được một
tiếng.

Cơ chừng tiếc của.

Cơ chừng hết sức.

Cơ chừng hết hơi.
Nghiên cứu đối chiếu phép tỉnh lược hồi chỉ trong tiếng Anh và tiếng Việt

Hoàng Thị Hà
19
(Nguyễn Công Hoan)
Trong trường hợp này, phát ngôn đầu tiên giữ vai trò là chủ ngôn, làm
tiền đề cho sự xuất hiện của hàng loạt những câu bị tỉnh lược chủ thể. Các
phát ngôn phía sau chủ ngôn đều không có thành phần chủ ngữ "bà ấy". Sự
vắng mặt yếu tố chủ thể này nhằm tránh sự lặp đi lặp lại của chủ ngữ "bà ấy"
trong hàng loạt câu tiếp theo của câu chủ ngôn, đồng thời có mục đích là
hướng cho người đọc chú đến sự thay đổi trạng thái liên tục của nhân vật chủ
thể trong đoạn văn này.
Hiện tượng tỉnh lược trong tiếng Anh cũng tương tự như vậy. Ta có
thể hiểu được điều này qua ví dụ sau:

(19) - Can you speak Spanish? Bạn có thể nói được tiếng Tây Ban Nha
không?
+ Yes, I can

Vâng, tôi có (nói được tiếng Tây Ban Nha)
Trong ví dụ này, câu trả lời ngắn ngọn "Yes, I can" chính là một dạng
của tỉnh lược, có thể phục hồi thành câu đầy đủ như sau: "Yes, I can speak
Spanish" (Tôi có thể nói được tiếng Tây Ban Nha). Trong trường hợp này,
thành phần "speak Spanish" đã xuất hiện trong câu hỏi trước đó và lược bỏ
trong câu trả lời nhằm tránh sự lặp lại không cần thiết. Thông tin này được cả
người hỏi và người trả lời hiểu ngầm.
Trong quá trình thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng định nghĩa
về phép tỉnh lược trong văn bản của tác giả Phạm Văn Tình làm cơ sở nghiên
cứu. Đó là: "Phép tỉnh lược trong văn bản là dạng tỉnh lược xảy ra giữa các
phát ngôn, là sự lược bỏ các yếu tố mà người đọc có thể hiểu được nhờ mối
liên hệ giữa các phát ngôn trong phạm vi một ngữ cảnh xác định (ngữ cảnh
cần và đủ)”. [21, 32]
1.2.2 Các chức năng của tỉnh lược
Như ta đã biết, tỉnh lược được coi là một trong những thủ pháp tạo
dựng phát ngôn. Chính vì vậy nó có phạm vi ứng dụng rất rộng rãi và có

×