Tải bản đầy đủ (.pdf) (163 trang)

Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ( Trên tư liệu truyện ngắn ba nhà văn nữ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 163 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_________________





HOÀNG DĨ ĐÌNH
(HUANG YITING)


NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975
(TRÊN TƯ LIỆU TRUYỆN NGẮN BA NHÀ VĂN NỮ)





LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC










HÀ NỘI – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_________________



HOÀNG DĨ ĐÌNH
(HUANG YITING)

NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975
(TRÊN TƯ LIỆU TRUYỆN NGẮN BA NHÀ VĂN NỮ)

Chuyên ngành : Lý luận ngôn ngữ
Mã số : 62 22 01 01


LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC



Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Đinh Văn Đức








HÀ NỘI - 2012


MỤC LỤC

Phần Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu 3
3. Đóng góp mới của luận án 3
4. Phạm vi nghiên cứu 4
5. Đối tượng nghiên cứu 4
6. Phương pháp nghiên cứu 5
7. Cấu trúc luận án 5
Phần nội dung
Chương 1 Cơ sở lý thuyết về Ngôn ngữ trần thuật 6
1.1 Tổng quan những thành quả nghiên cứu về Ngôn ngữ trần thuật 6
1.2 Quan niệm về "trần thuật" và "ngôn ngữ trần thuật" 14
1.2.1

Quan niệm theo hướng ngôn ngữ học-lý thuyết hành động ngôn
từ
14
1.2.2

Các quan niệm theo hướng văn học 15
1.2.3

Định nghĩa của "ngôn ngữ trần thuật" 21

1.3 Quan niệm về "người trần thuật" và phân loại "người trần thuật" 22
1.3.1

Quan niệm về "người trần thuật" 22
1.3.2

Phân loại "người trần thuật" 28
1.4 Quan niệm về "điểm nhìn" và phân loại "điểm nhìn" 32
1.4.1

Quan niệm về "điểm nhìn" 32
1.4.2

Phân loại "điểm nhìn" và các yếu tố của "điểm nhìn" 39
1.5 Quan niệm về "thời gian" và các yếu tố liên quan 41
Tiểu kết. 51
Chương 2 Người trần thuật trong truyện ngắn các nhà văn nữ
53
2.1 Dẫn nhập 53
2.2 Người trần thuật với cấp bậc trần thuật và trong quan hệ với
truyện kể
55
2.2.1

Cấp bậc trần thuật 55
2.2.2

Người trần thuật đứng bên ngoài truyện – người trần thuật phi
nhân vật
57

2.2.3

Người trần thuật đứng bên trong truyện – người trần thuật nhân
vật
66
2.3 Người trần thuật với mức độ được nhận biết trong truyện 76
2.4 Người trần thuật trong quan hệ với tác giả tiềm ẩn 86
Tiểu kết. 91
Chương 3 Điểm nhìn trong truyện ngắn các nhà văn nữ 97
3.1 Dẫn nhập 97
3.2 Mối quan hệ giữa các yếu tố của điểm nhìn 98
3.2.1

Các yếu tố của điểm nhìn 99
3.2.2

Mối quan hệ giữa các yếu tố của điểm nhìn 103
3.3 Mối quan hệ giữa điểm nhìn và nhân xưng 105
3.3.1

Vai trò của nhân xưng và ngôi trong điểm nhìn 105
3.3.2

Mối quan hệ giữa điểm nhìn với nhân xưng 109
3.3.3

Sự đan xen của cái tôi trần thuật và cái tôi từng trải 135
3.4 Các phương thức làm thay đổi điểm nhìn 142
3.4.1


Ký hiệu ngôn ngữ dùng để thể hiện ngôi – nhân xưng 142
3.4.2

Lời thoại dẫn trực tiếp, gián tiếp hoặc trực tiếp tự do, gián tiếp tự
do
145
3.4.3

Các phương thức khác như nhật ký, thư từ 149
Tiểu kết. 151
Chương 4 Thời gian trong truyện ngắn các nhà văn nữ 153
4.1 Dẫn nhập 153
4.2 Tính chất thời gian “một chiều” 154
4.3 Tính chất thời gian “đa chiều” 161
4.3.1

Tính chất thời gian “vô tuần tự” 161
4.3.2

Tính chất thời gian “vô thời” 180
4.4 Các phương thức biểu hiện thời gian trong văn bản 186
4.4.1

Các từ ngữ chỉ xuất niên đại và mùa màng 187
4.4.2

Những danh từ chỉ thời gian 187
4.4.3

Các ký hiệu khác dùng biểu thị tuần tự 188

4.4.4

Những từ ngữ mang tính chất lịch sử - thời đại 188
4.4.5

Những ngữ đoạn miêu tả về thời gian 188
Tiểu kết. 189
Kết luận và kiến nghị 191
Chú thích. 194
Danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan đến luận án. 195
Tài liệu tham khảo. 196






PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Thể loại truyện ngắn trong suốt thế kỷ 20 là một dòng chảy liên tục, thời nào cũng
có nhiều thành tựu. Đặc biệt từ sau 1975, trong sự đổi mới văn học, truyện ngắn đã đóng
vai trò quan trọng với sự đóng góp của các nhà văn thuộc nhiều thế hệ.
Nếu như văn học Việt Nam trước năm 1975 mang tính chất sử thi, là tiếng nói của
dân tộc của quốc gia, thì văn học Việt Nam sau 1975 lại mang tính chất thế sự, là tiếng
nói của người dân của đời tư. Năm 1975 là cái mốc phân chia giai đoạn phát triển lịch
sử cũng như văn học ở Việt Nam. Sau 1975, nhất là sau 1986, với làn gió đổi mới mở
cửa, văn học Việt Nam thật sự đã mới hơn giai đoạn trước rất nhiều: không những mới
ở ý thức sáng tác, tư duy nghệ thuật, mà còn mới ở hiện thực được phản ánh trong các
thiên truyện cũng như các phương thức nghệ thuật, trong đó, có ngôn ngữ trần thuật là

những yếu tố cấu trúc lên một văn bản văn học.
Khi mở đầu bài viết Tiểu thuyết Việt Nam những năm đổi mới, Giáo sư Phan Cự
Đệ đã khẳng định một biến đổi lớn lao là "trong tiểu thuyết những năm đầu thời kỳ đổi
mới, nhà văn cũng như nhân vật, cả hai đều hướng về người đọc". [12, tr. 277] Một điều
dễ nhận thấy và không thể chối cãi được là trong tiểu thuyết giai đoạn sau 1975, "cái dấu
ấn của chủ thể nhà văn, cái 'tôi' của người cầm bút hiện lên rõ nét qua từng trang sách"
[12, tr. 277] bằng những hình thức ngôn ngữ vừa đa dạng - góc cạnh, lại vừa khẩu ngữ -
đời thường, kể (nhiều khi là tâm sự) về những mảnh vụn trong đời sống hiện thực sau
một thời chinh chiến miên man với giọng kể gần gũi hơn, thẳng thắn hơn và tràn đầy
kinh nghiệm cá nhân.
Khám phá đời sống muôn vẻ muôn mặt đã trở thành một trong những khuynh
hướng sáng tác của nhiều cây bút tiêu biểu. Tác phẩm của họ không còn rập khuôn bởi
một người kể duy nhất hoặc chỉ có một quan điểm đúng đắn nhất mà trở nên đa thanh,
phức điệu vì phương thức kể chuyện đã được cách tân, điểm nhìn đã được chuyển dịch
vào nhiều người (người kể chuyện hoặc nhân vật trong truyện) khác nhau. Hàng loạt sự
kiện mới, nhân vật mới, phong cách mới trong tác phẩm văn học đã thu hút sự chú ý của
đông đảo độc giả cũng như của các nhà nghiên cứu.
Văn đàn Việt Nam những năm đổi mới tràn đầy không khí cởi mở, sôi nổi, trong
sáng, tươi tỉnh và phóng khoáng. Đội ngũ sáng tác cũng có bước đột phá lớn, lần lượt
xuất hiện những gương mặt tươi mới, đặc biệt là các nhà văn nữ như Nguyễn Thị Thu
Huệ, Y Ban, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh, Lê Minh Khuê, Trần Thanh Hà, Nguyễn
Thị Phước, Trần Thị Trường Và làng văn trở thành một văn đàn "văn học đang mang
gương mặt nữ." [85, tr. 5] Đó là các nhà văn nữ trẻ trung có sức viết dồi dào, mạnh mẽ
với nội dung tác phẩm văn học, khía cạnh sáng tác và góc nhìn sự thực hoàn toàn mới
mẻ, nhẹ nhàng, độc đáo so với những năm trước. Nhiều tác phẩm truyện ngắn của ba
nhà văn nữ Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo và Phan Thị Vàng Anh đã từng đoạt giải
các loại trên văn đàn Việt Nam những năm 80-90, minh chứng "họ thực sự làm khởi sắc
văn chương, khởi sắc truyện ngắn với ý nghĩa là một thể loại văn học mang hồn cốt dân
tộc " [85, tr. 5] Vậy nên, nghiên cứu ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn ba nhà văn
nữ trên có thể cho thấy được phần nào đặc điểm ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn

Việt Nam sau 1975.
Số lượng truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam rất phong phú. Những nghiên
cứu, phê bình về tác phẩm cũng như về vấn đề phụ nữ được phản ánh qua tác phẩm từ
khía cạnh tác giả - ý nghĩa tác phẩm dễ tìm thấy từ các trang báo, các tạp chí. Nhưng,
các bình luận, ý kiến bàn sâu về ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn các nhà văn nữ
trên bình diện ngôn ngữ học với các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học thì vẫn còn
khiêm tốn. Đi sâu nghiên cứu đề tài Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn các nhà văn
nữ Việt Nam, sẽ góp phần tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ trần thuật (từ người trần thuật,
điểm nhìn, thời gian ) trong truyện ngắn của các nhà văn nữ, qua đó, rút ra những khám
phá lí luận về ngôn ngữ trần thuật của các nhà văn nữ và phương pháp nghiên cứu mới
về truyện ngắn của các nhà văn nữ.
Đây là một đề tài nghiên cứu chủ yếu dựa trên các lí thuyêt cơ sở của Ngôn ngữ
học để triển khai khảo sát và nghiên cứu. Đồng thời, cũng là một đề tài nghiên cứu
xuyên ngành. Những lí thuyết về Hành động ngôn từ, Ngữ pháp học, Ngữ nghĩa học,
Ngữ dụng học, Văn bản học, Tự sự/Trần thuật học đã cung cấp khung lí luận hữu quan
cho chúng tôi tiếp cận kết quả nghiên cứu của luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu: Giới thuyết khái niệm Ngôn ngữ trần thuật, những yếu
tố, những vấn đề liên quan, và xem đó là công cụ then chốt, chiếu ứng với đối tượng
nghiên cứu, nhận diện nó trong loại hình ngôn ngữ trần thuật của tác phẩm truyện ngắn
nữ.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu: Vận dụng khái niệm Ngôn ngữ trần thuật vào nghiên
cứu các tác phẩm truyện ngắn nữ. Khảo sát, phân tích và miêu tả đặc điểm các phương
diện/cấp độ ngôn ngữ trong lời trần thuật. Trên cơ sở đó, chỉ ra những nét nổi bật trong
phong cách ngôn ngữ của từng tác giả được biểu hiện qua tác phẩm truyện ngắn.
2.3 Đi sâu tìm hiểu
- Đặc điểm, phong cách ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn các nhà văn nữ;
- Phân tích chiến lược trần thuật của các nhà văn nữ.
3. Đóng góp mới của luận án
3.1 Về giá trị lý luận

Đây là công trình đầu tiên của nhà nghiên cứu Trung Quốc nghiên cứu ngôn ngữ
trần thuật trong truyện ngắn của các tác giả nữ Việt Nam dưới ánh sáng Ngôn ngữ học,
Ngữ nghĩa học, Ngữ dụng học, Trần thuật/tự sự học Qua đó, làm sáng tỏ ra một số vấn
đề về phong cách sử dụng ngôn ngữ trong truyện ngắn các nhà văn nữ tiêu biểu.
3.1.1 Cố gắng đưa ra một hệ thống lí luận về Ngôn ngữ trần thuật của tác giả nữ.
3.1.2 Lấy hệ thống đó như là một công cụ để tìm hiểu ngôn ngữ tự sự, cụ thể là các
nhà văn nữ, trong thi pháp tự sự.
3.1.3 Tìm ra các tiêu chí ngôn ngữ của ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn các
nhà văn nữ.
3.2 Về giá trị thực tiễn
3.2.1 Nghiên cứu này sẽ có những đóng góp mới cho việc nghiên cứu văn học nữ
(qua truyện ngắn) dưới góc độ ngôn ngữ với những phương pháp nghiên cứu Ngôn ngữ
học, theo hướng văn học kết hợp hướng nghiên cứu hệ thống và cấu trúc văn bản văn
học trên cơ sở kết hợp các bình diện Kết học, Nghĩa học và Dụng học.
3.2.2 Đề tài sẽ đóng góp vào việc tìm kiếm và đổi mới phương pháp và xu hướng
nghiên cứu văn học nữ nói chung và truyện ngắn nữ nói riêng qua các tiêu chí ngôn
ngữ đã được sử dụng trong truyện ngắn.
3.2.3 Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được ứng dụng vào việc nghiên cứu
phong cách học các truyện ngắn nữ cũng như khảo sát, cảm thụ và đánh giá tác phẩm
văn học một cách khách quan và có tính thuyết phục.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chọn một số tác phẩm truyện ngắn của các nhà văn nữ sáng tác từ sau
năm 1975 để làm đối tượng nghiên cứu. Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi sẽ chỉ
khảo sát từ nhiều khía cạnh khác nhau (liên quan đến vấn đề ngôn ngữ trần thuật) các
tác phẩm truyện ngắn được giải, cũng như được dư luận quan tâm theo dõi của các cây
bút nữ, trong đó, có:
- Phan Thị Vàng Anh với tập truyện Khi người ta trẻ, Hội chợ;
- Nguyễn Thị Thu Huệ với tập truyện Hậu thiên đường, tập truyện Nào, ta cùng
lãng quên;
- Võ Thị Hảo với tập truyện Truyện ngắn chọn lọc Võ Thị Hảo, Biển cứu rỗi

- Các tập truyện có liên quan đến các tác giả trên như Bốn cây bút nữ của Bùi Việt
Thắng,
5. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về Đặc điểm ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn các nhà
văn nữ Việt Nam từ những khía cạnh như Người trần thuật, Điểm nhìn, Thời gian, Hình
thức ngôn ngữ đặc biệt
- Ở cấp độ Người trần thuật, luận án nghiên cứu về Người trần thuật với cấp bậc
trần thuật và trong quan hệ với truyện kể, Người trần thuật với trình độ được nhận biết
trong truyện và Người trần thuật trong quan hệ với tác giả tiềm ẩn;
- Ở cấp độ Điểm nhìn, luận án nghiên cứu về Mối quan hệ giữa các yếu tố của
điểm nhìn, Mối quan hệ giữa điểm nhìn và nhân xưng và Các phương thức làm thay đổi
điểm nhìn;
- Ở cấp độ Thời gian, luận án nghiên cứu về Tính chất thời gian “một chiều”,
Tính chất thời gian “đa chiều” và Các phương thức biểu hiện thời gian trong văn bản.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận án này được thực hiện theo hướng nghiên cứu của Ngôn ngữ học, đặc biệt là
theo hướng nghiên cứu của lý thuyết về tính hệ thống và cấu trúc. Trước một đối tượng
như vậy, luận án sẽ áp dụng một số phương pháp nghiên cứu như phương pháp miêu tả
ngôn ngữ, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp phân
tích ngữ nghĩa-ngữ dụng, phương pháp phân tích diễn ngôn trên cơ sở thu tập, phân
tích ngữ liệu nắm được để tìm ra đặc điểm Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn các
nhà văn nữ Việt Nam nói chung cũng như đặc điểm ngôn ngữ trần thuật của từng nhà
văn nữ đã nêu ỏ trên nói riêng. Hướng xử lí tư liệu và những khái quát của luận án sẽ cố
gắng tuân thủ tối đa những phương pháp khoa học này.
7. Cấu trúc của luận án
Tương ứng với nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt ra, ngoài phần Mở đầu và phần Kết
luận, nội dung luận án sẽ đươc triển khai trong 4 chương:
Chương 1. Cơ sở lý thuyết của Ngôn ngữ trần thuật
Chương 2. Người trần thuật trong truyện ngắn các nhà văn nữ
Chương 3. Điểm nhìn của ngôn ngữ trần thuật trong các truyện ngắn các nhà

văn nữ
Chương 4. Thời gian của ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn các nhà văn
nữ
Sau cùng là phần Tài liệu tham khảo.










PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT

1.1 Tổng quan những thành quả nghiên cứu về Ngôn ngữ trần thuật.
Tất cả mọi người chúng ta không nhiều thì ít đều đã từng đến với tác phẩm văn học,
trong đó, có tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ ca và chắc chắn cũng đã từng được cuốn hút
bởi sự rực rỡ và phong phú của các màu sắc tỏa ra từ những tác phẩm văn học đó. Sức
hấp dẫn của văn học ở chỗ, ngoài những truyện kể có tình tiết phong phú phức tạp, hình
tượng nhân vật sinh động chân thực, nó còn cuốn hút độc giả bằng một thứ ngôn ngữ
văn học đặc biệt, mang sắc thái rất riêng của từng người (theo cách hiểu truyền thống là
“tác giả”, theo cách hiểu văn chương học thuật là “người trần thuật/người kể chuyện).
Đã nói đến tự sự, thì không thể không nói đến ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một chủ đề
không thể tránh khỏi bởi vì ngôn ngữ với phương thức trần thuật có quan hệ mật thiết
trong tự sự. Nó đóng vai trò quan trọng đối với tác phẩm văn học, là vỏ vật chất của văn
bản tự sự và đã cấu trúc lên phương thức trần thuật. Tất cả mọi văn bản hư cấu đều gồm
hai loại hình ngôn ngữ: ngôn ngữ của người trần thuật và ngôn ngữ của nhân vật. Trong

luận án, chúng tôi sẽ chỉ nghiên cứu ngôn ngữ của người trần thuật. Ngôn ngữ đã cấu
trúc lên phương thức trần thuật. Đối với một tiểu thuyết, cái quan trọng là nó được viết
như thế nào, bằng một hệ thống ngôn từ gì và hình thức câu như thế nào để làm cho câu
chuyện/sự kiện xảy ra trước mắt người đọc. Tất cả những thứ trên có liên quan đến cấu
tạo nội bộ trên bình diện ngôn ngữ của tác phẩm văn học/văn bản tự sự được tổng hợp
lại trong một khái niệm Ngôn ngữ trần thuật. Như vậy, muốn hiểu thấu đáo một văn bản
tự sự nào đó, cần tìm hiểu về Ngôn ngữ trần thuật.
Ngôn ngữ trần thuật (Narrative discourse trong tiếng Anh, Discours naratif trong
tiếng Pháp) là một khái niệm hết sức trừu tượng, phức tạp, liên quan đến rất nhiều yếu tố
trong việc trần thuật. Nếu tiếp cận khái niệm Ngôn ngữ trần thuật từ khía cạnh khác
nhau, tức là, nếu xuất phát từ Ngôn ngữ học, Văn học, Tự sự học hay là Văn bản học
thì sẽ có những nhận xét và đánh giá khác nhau về yếu tố cấu thành, nội hàm, ngoại diên,
tác dụng hay vai trò của nó. Tuy nhiên, cũng có phần trùng hợp hoặc đan xen nhau.
Trong các tài liệu chúng tôi nắm được, hầu như không một ai tập trung nêu ra, hoặc định
nghĩa cụ thể về Ngôn ngữ trần thuật. Vậy, có thể nói, Ngôn ngữ trần thuật là một tập hợp
thể của những yếu tố liên quan.
Bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ 20, khái niệm Ngôn ngữ trần thuật được
nhiều ngành, nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến và luận bàn một cách đa dạng từ nhiều
khía cạnh khác nhau với nội dung ngày một phong phú hơn. Những công trình nổi tiếng
liên quan đến vấn đề Ngôn ngữ trần thuật thời kỳ này của các nhà nghiên cứu Trần thuật
học/Tự sự học, Ngôn ngữ học, Văn học cũng lần lượt ra mắt công chúng với một số
lượng đáng kể.
Ở phương Tây có: Lý luận tự sự đương đại (Recent Theories of Narrative) của
Wallace Martin (1986), Nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể (Introduction to the
Structural Analysis of Narratives) của Roland Barthes (1977), Ngôn ngữ trần thuật –
ngôn ngữ trần thuật mới (Narrative Discourse – New Narrative Discourse) của G.
Genette (1986), Trần thuật học: Dẫn luận lý luận tự sự (Narratology: Introduction to the
Theory of Narrative) của Mieke Bal (1985, 1997). Kết cấu của thời gian trong tự sự hư
cấu (La Configuration Du Temps Dans Le Récit De Fiction) của Paul Ricoeur
(1983-1985), Quyền uy của sự hư cấu (Fictions ò Authority) của Susan S. Lanser

(1992),Tự sự như là một phương pháp tu từ (Narrative as Rhetoric) của James Phelan
(1996), Lý luận tự sự của hậu hiện đại (Postmodern Narrative Theory) của Mark Currie
(1998), Tân tự sự học (Narratologies) do David Herman chủ biên (1999), Hướng dẫn lí
luận tự sự đương đại (A Companion to Narative Theory) do James Phelan và Peter J.
Rabinowitz chủ biên (2005)…
Ở Trung Quốc có Tự sự học nghiên cứu do Zhang YinDe tuyển chọn (1989), Dẫn
luận tự sự học của Luo Gang (1994), Trung Quốc tự sự học của Yang Yi (1997), Nghiên
cứu về trần thuật học và phong cách học tiểu thuyết của Shen Dan (2004), Trần thuật
học của Dong Xiaoying (2001), Lý luận tự sự và văn hóa thẩm mỹ của Tan
Junqiang(2002), Mỹ học tự sự của Geng Zhanchun (2002), Sự chuyển biến của mô thức
tự sự của tiểu thuyết Trung Quốc của Chen Pingyuan (2003), Sơ khảo về mẫu/
paradigm của ngôn ngữ tự sự trong tiểu thuyết đương đại của Wu Peixian (2003),Con
đường Trung Quốc của Tự sự học do Zu Guosung chủ biên (2007).
Ở Việt Nam có: Nguyễn Đức Dân với Lôgic và Tiếng Việt (1996), Đặng Anh Đào
với Đổi mới tiểu thuyết phương Tây hiện đại (1995), Nguyễn Thái Hòa với Những vấn
đề thi pháp của truyện (2000), Nguyễn Lai với Ngôn ngữ với sáng tạo và tiếp nhận văn
học (1998), Lê Thị Tuyết Hạnh với cuốn Thời gian nghệ thuật trong cấu trúc văn bản tự
sự (qua các truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975-1995)(2003), Nguyễn Thị Thu Thủy
với Luận án Tiến sĩ Ngữ văn về đề tài Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt Nam
sau 1975 (điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện) (2003), Lê Thời Tân với bài Tự sự học:
tên gọi, lược sử và một số vấn đề lí thuyết, Thái Phan Vàng Anh với Ngôn ngữ trần
thuật trong truyện ngắn Việt Nam đương đại, Cao Kim Lan với Người kể chuyện và mối
quan hệ giữa người kể chuyện với tác giả, vân vân, là những công trình đã nghiên cứu
ngôn ngữ kể chuyện, điểm nhìn cũng như thời gian từ khía cạnh ngôn ngữ học và văn
học. Trong cuốn Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử do Trần Đình Sử chủ biên
(2004), đã tập hợp được rất nhiều bài viết của các nhà phê bình có liên quan đến lĩnh
vực điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện trong văn xuôi nghệ thuật.
Dưới đây, xin điểm qua nội dung chính của một số công trình được nêu ở trên, để
sẽ góp phần làm rõ khái niệm Ngôn ngữ trần thuật.
1.1.1 Ngôn ngữ trần thuật – ngôn ngữ trần thuật mới (Narrative Discourse – New

Narrative Discourse) của G. Genette.
Genette đã vận dụng lý thuyết Trần thuật học để khảo sát và bàn luận về bộ tiểu
thuyết nổi tiếng Đi tìm thời gian đã mất của nhà văn trứ danh Pháp Marcel Proust.
Trong dẫn luận của Ngôn ngữ trần thuật, Genette đã khu biệt ba hàm nghĩa của tự sự (la
recit), định nghĩa ba khái niệm truyện, tự sự và trần thuật. Đồng thời, Genette cũng
vận dụng cả lý thuyết ngôn ngữ học của Ferdinand de Saussure để giải thích truyện kể,
tự sự và trần thuật. Trong đó, “cái được biểu đạt” hoặc nội dung trần thuật tức truyện
kể - thường chỉ những sự kiện/sự tình hoặc chân thực hoặc hư cấu; “cái biểu đạt”, trình
bày, lời nói hoặc văn bản trần thuật là tự sự theo nghĩa gốc - chỉ những chuỗi lời nói
hoặc văn bản kể về những sự kiện/sự tình đó; còn tất cả những hành động kể/trần thuật
mang tính sáng chế (sản xuất ra những văn bản có nội dung truyện kể) và kể cả những
tình cảnh thực hay hư ảo mà hành động trần thuật xảy ra trong đó đều là trần thuật. [71,
tr. 7]
Một hàm nghĩa nổi bật nhất, quan trọng nhất và cũng được chú ý nhiều nhất của
tự sự là nó đảm nhiệm bằng miệng hoặc chữ viết công việc trình bày về một hay một
chuỗi sự kiện/sự tình. Rõ ràng với nghĩa như thế tự sự là chỉ hành động trần thuật. Vậy
không có hành động trần thuật thì không có trần thuật, có khi thậm chí không có nội
dung trần thuật. [71, tr. 6] Có hành động trần thuật thì phải có chủ thể trần thuật. Genette
quan niệm rằng, không thể có những tự sự không có người trần thuật. Nếu không có
người trần thuật, tự sự sẽ không thể được thực hiện, và đó sẽ là một hành động vô trần
thuật, vì thế cho nên nó dứt khoát là một trần thuật không có hành động giao tiếp [71, tr.
68].
Cũng trong cuốn sách này, Genette chia khái niệm tự sự (theo nghĩa rộng) ra ba
phạm trù: Thời gian (quan hệ thể hiện thời gian truyện kể và thời gian ngôn ngữ/lời nói);
Ngữ thể (phương thức cảm nhận truyện kể của người trần thuật, gồm vấn để “điểm
nhìn”) và Ngữ thức (các loại hình lời nói được người trần thuật sử dụng, tập trung thể
hiện vấn đề “khoảng cách” và ngôi) [71, tr. 9]. Đó sẽ là những luận cứ quan trọng của
luận án chúng tôi.
Khi kể về một sự kiện/sự tình, người ta có thể kể ít hay nhiều tùy từng trường hợp
và ý mình, cũng có thể kể từ khía cạnh này nọ tùy theo sự cần thiết của mình. Phạm trù

ngữ thức của trần thuật chính đề cập đến khả năng trên. Nói một cách chính xác và cụ
thể hơn, những thông tin được kể lại, thường khác về trình độ được thể hiện, có thể
được thể hiện trực tiếp hay gián tiếp, nhiều hay ít, từ khía cạnh này hay khía cạnh nọ,
được người tiếp nhận từ vị trí như thế nào những chi tiết thông tin đó, đều có thể điều
tiết bằng các loại hình lời nói của người trần thuật, trong đó, có các kiểu thoại dẫn. [71, tr.
107-108] Thoại dẫn (reported speech) là lời người khác hoặc lời dẫn từ sách vở khác
được đưa vào lời nói hoặc bài viết của người nói/người viết. Thoại dẫn trực tiếp, thoại
dẫn gián tiếp, thoại dẫn tự do gián tiếp vân vân là những hình thức ngôn ngữ khác nhau
nhằm cùng diễn đạt một nội dung. Đặc trưng của các hình thức thoại dẫn cụ thể được
thể hiện bằng sự biến đổi về nhân xưng, thời gian, từ ngữ, loại hình câu và dấu câu.
Thay đổi phương thức ngôn ngữ của người trần thuật cũng như nhân vật trong văn bản
trần thuật thường được làm thay đổi luôn phong cách, đồng thời, điểm nhìn và khoảng
cách trần thuật cũng được điều tiết và hạn chế hữu hiệu. Trong văn bản trần thuật, thoại
dẫn là lời nhân vật được đưa vào lời của người trần thuật. [42, tr. 132 ]
1.1.2 Trần thuật học: Dẫn luận lý luận tự sự của Mieke Bal là một công trình
quan trọng về lí luận Trần thuật học, tập trung giới thiệu các thành phần/yếu tố (elements)
chủ yếu về lí luận tổng hợp của văn bản trần thuật/tự sự từ các khía cạnh văn bản (text),
câu chuyện (story) và tài liệu (fabula), giải thích lí thuyết cơ bản đề cập đến các yếu tố
về lí luận tự sự như sự kiện (event), người hành động (actors), thời gian (time), địa điểm
(place), tiêu điểm trần thuật (narrative focalization), người trần thuật/người kể chuyện
(narrative subject) vân vân.
Theo Bal, văn bản (text) là một chỉnh thể có giới hạn và cấu trúc nhất định tổ hợp
bởi những ký hiệu ngôn ngữ. Ngôn ngữ trần thuật nghiên cứu quan hệ giữa trạng thái
thời gian và sự kiện trong các mô thức ngôn ngữ của văn bản tự sự, tập trung vào các
mối quan hệ có thể giữa truyện kể và văn bản tự sự, quá trình trần thuật và văn bản trần
thuật/tự sự, truyện kể và quá trình tự sự. Nó không quan tâm đến bản thân truyện kể và
cũng không đề cập đến việc xây dựng truyện kể hoặc tình tiết. Cụ thể hơn, Ngôn ngữ
trần thuật chỉ khảo sát những vấn đề như hình thái thời gian, hình thức ngôn ngữ (tức
loại hình ngôn ngữ mà người trần thuật đã sử dụng, quan điểm của Genette) và hình thái
ngôn ngữ (tức phương thức cảm nhận truyện kể của người trần thuật, quan điểm của

Genette) [73, tr. 2].
1.1.3 Lý luận tự sự hậu hiện đại của Mark Currie tập trung thảo luận những đổi
thay của hậu hiện đại và giải cấu mang tính chất triệt để về các yếu tố lí luận tự sự như
“khách thể tự sự”, “thời gian và không gian tự sự”, “chủ thể tự sự” vân vân trong Tự
sự học truyền thống hay còn gọi là Tự sự học kinh điển. Tư tưởng của tác giả đã tiếp
nhận và thể hiện những trào lưu tư tưởng hiện đại của các đại gia, trong đó, có Chủ
nghĩa giải cấu của Derrida, Hình thái ý thức của Althusser, Chủ nghĩa Hậu hiện đại của
Triết gia Pháp Jean-Francois Lyotard, Chủ nghĩa Tân lịch sử của Nhà tư tưởng Pháp
Michel foucault, xây dựng lại lí luận tự sự. Hai chủ đề quan trọng được thể hiện trong
cuốn sách là quan hệ giữa tự sự với thân phận, vai trò của thời gian trong việc trần
thuật đã đi suốt cả tác phẩm. Chung quanh hai chủ đề đó, những vấn đề “tiểu thuyết”,
“phê bình” và “ý thức hệ” đã được liên kết với nhau. Tự sự, thân phận, thời gian và ý
thức hệ là những cái được các nhà nghiên cứu hậu hiện đại chú tâm trong nghiên cứu
văn học cũng như nghiên cứu văn hóa hiện nay.
1.1.4 Nghiên cứu về trần thuật học và phong cách học tiểu thuyết của Thân Đan
là một cuốn sách có những nghiên cứu độc đáo và toàn diện kết hợp cả Trần thuật học
và Phong cách học tiểu thuyết. Ngoài đánh giá và phân tích một cách sâu sắc và toàn
diện những lí thuyết cơ bản của Trần thuật học và Phong cách học tiểu thuyết, tác giả đã
dành cả ba chương tập trung nghiên cứu và đánh giá những mảng trùng khớp của Trần
thuật học và Phong cách học tiểu thuyết từ các khía cạnh như “diễn ngôn trong Trần
thuật học” với “văn bản trong Phong cách học tiểu thuyết”, “phân loại, tính chất và vai
trò của các loại góc độ trần thuật khác nhau”, “các loại hình thức diễn đạt khác nhau
và vai trò của lời nói nhân vật” , bổ sung và làm rõ hơn những vấn đề trước đây tuy đã
có nhiều nhà nghiên cứu đề cập và tìm hiểu nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót và mơ hồ
như các khái niệm trần thuật, điểm nhìn, ngôi dựa trên cơ sở phân tích văn bản văn
học nổi tiếng trên thế giới.
1.1.5 Trong cuốn Trần thuật học của Đổng Tiểu Anh, Trần thuật học được tác giả
quan niệm là nghiên cứu làm thế nào để diễn đạt quan điểm, ý thức, tư tưởng bằng các
hình thức nghệ thuật (tức các phương thức của trần thuật) của văn bản. [58, tr. 43] Tác
giả đã khảo sát tất cả mọi hình thức trần thuật được thể hiện trên các văn bản trong dòng

chảy lịch sử. Đồng thời, từ khía cạnh hiểu biết về ngôn ngữ của loài người, từ quan hệ
giữa tư duy con người với kí hiệu ngôn ngữ, tìm hiểu tác động của phương thức tư duy
đối với phương thức diễn đạt, và quan hệ suy lí lôgíc trong việc lí giải, rút ra quy luật tự
thân mà ngôn ngữ văn học diễn đạt. Tác giả không phải chỉ đơn thuần bàn về quan hệ
giữa Ngôn ngữ trần thuật và văn bản, mà còn đi từ khía cạnh lí tính và tư duy con người,
kết hợp với những biểu hiện của văn bản để trình bày quan điểm của mình. Do tư duy
con người muôn hình muôn vẻ, phương thức trần thuật cũng bởi thế mà trở nên huyền
bí. Và qua phương thức trần thuật đó, cái ý nghĩa hoặc cái tôn chỉ cuối cùng của văn bản
được phơi trần ra trước mắt mọi người dưới sự phận tích từng bước một, từng cái một
như của phân tâm học.
1.1.6 Trong cuốn Lý luận tự sự và văn hóa thẩm mỹ, ông Đàm Quân Cường cũng
tập trung quan tâm đến nội bộ của văn bản tự sự. Ông cho rằng, lí luận trần thuật hoặc tự
sự là thông qua những tác phẩm tự sự cụ thể, tức những cái gọi là “lời nói” (parole),
“diễn ngôn” (discours), “kết cấu bên ngoài” (surface structure), tìm ra yếu tố cấu thành
của lời nói, diễn ngôn và kết cấu bên ngoài, để rồi tìm hiểu cơ chế cấu tạo cụ thể của
chúng. Quá trình này cũng nhằm tìm hiểu cái khả năng hình thành ngữ pháp tự sự hay là
“ngôn ngữ trần thuật”. Đối tượng nghiên cứu của lý luận tự sự là các văn bản (text) tự
sự. Trong các tác phẩm tự sự, văn bản tự sự (text) xuất hiện dưới hình thức “văn bản trần
thuật” hoặc “ngôn ngữ tự sự”, trọng tâm của văn bản tự sự (text) là người trần thuật trần
thuật trong văn bản, kể về văn bản có một truyện kể nhất định.
1.1.7 Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng có nhiều công trình nghiên cứu công
phu.
Trong công trình nghiên cứu Những vấn đề thi pháp của truyện, Giáo sư Nguyễn
Thái Hòa đã khảo sát và nghiên cứu những yếu tố quan trọng trong truyện là "lời kể" và
"lời thoại", "không gian", "thời gian" và "giọng" vân vân từ nhiều khía cạnh, góc độ
khác nhau. Khi định nghĩa cho Truyện, ông cho rằng, Truyện khác với các văn bản khác
ở chỗ các sự kiện trong Truyện diễn ra "trong sự sắp xếp, sự lựa chọn thời gian của
người kể", [28, tr. 192] "Truyện là văn bản chiếu vật diễn tiến trong thời gian tự nó mà
người kể đã chọn cho nó." [28, tr. 193] Quan điểm của ông cho thấy thời gian là một
yếu tố không thể thiếu của truyện, nó không phải là thời gian tự nhiên trong vũ trụ, mà là

thời gian đã được sắp xếp lại theo ý đồ của người kể, mang tính chủ quan.
Cũng nghiên cứu về thời gian trong truyện, chị Lê Thị Tuyết Hạnh đã khẳng định
vai trò quan trọng của thời gian trong các yếu tố cấu trúc lên một văn bản tự sự văn học.
Trong công trình Thời gian nghệ thuật trong cấu trúc văn bản tự sự (qua các truyện
ngắn Việt Nam giai đoạn 1975-1995), chị Hạnh đã đi sâu khảo sát quan hệ giữa thời
gian với sự kiện cũng như thời gian với tâm lý nhân vật, xét dưới góc độ truyện. Thời
gian được xem xét như là một trung tâm trong việc tổ chức một tác phẩm văn học. Tác
giả quan niệm rằng, thời gian có "chức năng như một thủ pháp, một tín hiệu, có giá trị
nghệ thuật riêng", [18, tr. 191] nó phối hợp với những yếu tố khác trong một hệ thống
văn bản tự sự văn học như điểm nhìn, giọng kể để thể hiện tính liên tục và tính lôgíc
của sự kiện lịch sử hay tính ước lệ, phi thời của tâm trạng tâm lý nhân vật. Bởi thế, hình
thức thời gian trong truyện cũng trở nên "phong phú, đa dạng, biến hóa của các kiểu
loại", giữa các hình thức đó, có sự xâm nhập và giao thoa nhất định.
Bài viết Điểm nhìn trong lời nói giao tiếp và điểm nhìn nghệ thuật trong truyện của
Nguyễn Thái Hòa phân biệt điểm nhìn trong văn bản tự sự với điểm nhìn của lời nói
trong giao tiếp thường ngày. Tác giả cho rằng hai điểm nhìn đó có nét giống nhau nhưng
về cơ bản, chúng khác nhau về chức năng và cấu trúc. Theo tác giả, "Điểm nhìn nghệ
thuật, là điểm xuất phát của một cấu trúc nghệ thuật, là một cấu trúc tiềm ẩn được
người đọc tiếp nhận bằng thao tác suy ý từ các mối quan hệ phức hợp giữa người kể và
văn bản, giữa văn bản và người đọc văn bản, giữa người kể và người đọc hàm ẩn." [27,
tr. 96]
Dựa trên cơ sở lí thuyết hội thoại và lí thuyết điểm nhìn, trong bài Về khái niệm
"truyện kể ở ngôi thứ bá ba" và "người kể chuyện ở ngôi thứ ba", Nguyễn Thị Thu
Thủy đã làm sáng tỏ sự khác biệt về khái niệm "truyện kể ở ngôi thứ ba" và "người kể
chuyện ở ngôi thứ ba", và cho rằng, nên gọi một cách chính xác hơn "truyện kể ở ngôi
thứ ba": một là "Truyện kể có NKC hàm ẩn kể theo điểm nhìn nhân vật", hai là "Truyện
kể có NKC hàm ẩn kể theo điểm nhìn của mình". [39, tr. 145] Luận án Tiến sĩ ngôn ngữ
học với đề tài Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (điểm nhìn và
ngôn ngữ kể chuyện) của chị Thủy cũng khảo sát và nghiên cứu về điểm nhìn và tìm
hiểu quan hệ điểm nhìn với các phương thức kể chuyện.

Các công trình về Trần thuật hay Ngôn ngữ trần thuật được điểm qua trên đây chỉ
là một phần của những tác phẩm hoặc tập trung nghiên cứu hoặc chỉ ít nhiều đề cập đến
ngôn ngữ trần thuật, còn chưa kể đến những bài báo đã được công bố của nhiều nhà
nghiên cứu khác.
Để làm rõ và xác định khái niệm Ngôn ngữ trần thuật, luận án trình bày các nội
dung sau đây:
01. Quan niệm về Trần thuật và Ngôn ngữ trần thuật
02. Quan niệm về Người trần thuật
03. Quan niệm về Điểm nhìn
04. Quan niệm về Thời gian
1.2 Quan niệm về "trần thuật" và "ngôn ngữ trần thuật"
Genette cho rằng tất cả những hành động trần thuật mang tính sáng chế (sản xuất ra
những văn bản có nội dung truyện kể) và kể cả những tình cảnh thực hay hư ảo mà hành
động trần thuật xảy ra trong ấy đều là trần thuật. Trần thuật là một kết cấu đẳng lập chỉ
hành động kể, nó liên quan mật thiết đến Người kể chuyện/người trần thuật, thuộc về kỹ
xảo trần thuật/kể chuyện trên bậc diễn ngôn (discourse) trong văn bản văn học.
Ngôn ngữ đã cấu trúc lên phương thức trần thuật. Đối với một bộ tiểu thuyết, cái
quan trọng là nó được viết như thế nào, bằng một hệ thống ngôn từ gì và hình thức câu
như thế nào để làm cho câu chuyện/sự kiện xảy ra trước mắt người đọc. Tất cả những
thứ trên có liên quan đến cấu tạo nội bộ trên bình diện ngôn ngữ của tác phẩm văn
học/văn bản tự sự được tổng hợp lại trong một khái niệm Ngôn ngữ trần thuật.
1.2.1 Quan niệm theo hướng ngôn ngữ học - lý thuyết hành động ngôn từ
Những người mở đầu cho lý thuyết hành động ngôn từ là Austin với cuốn How
to do things và Searle với cuốn Speech acts.
Theo lý thuyết này, "một lời nói bao giờ cũng phải được thực hiện thông qua các
hành động ngôn từ (hành động nói) gồm ba hành động liên quan đến nhau. Đó là hành
động tạo ngôn, hành động ngôn trung và hành động dụng ngôn". [34, tr.32-33] Mỗi
hành động ngôn từ trên có một tác dụng riêng và cụ thể cho mọi hoạt động lời nói.
- Hành động tạo ngôn (locutionary act) là hành động nói tạo ra lời nói mang một
lượng thông tin nhất định và truyền thông tin đó cho người ta biết.

- Hành động ngôn trung (illocutionary act) là hành động nói nhằm thực hiện mục
đích giao tiếp nhất định của lời nói (đích ngôn trung) như trần thuật, cầu khiến, hỏi
bằng lực thông báo của một phát ngôn (lực ngôn trung).
- Hành động dụng ngôn (perlocutionary act) là hành động nói nhằm đạt được
hoặc gây hiệu quả nhất định đến tâm lý người nghe thông qua lời nói.
Trong ba loại hành động trên, lý thuyết hành động ngôn từ quan tâm nhiều đến
hành động ngôn trung vì nó có thể thay đổi tư cách pháp nhân của người đối thoại [34,
tr.35], bộc lộ tính cách của người phát ngôn.
Hành động ngôn trung nằm ngay trong lời nói và được nhận diện bằng dấu hiệu
ngôn ngữ ở mặt hình thức hoặc ở mặt ý nghĩa. [34, tr.34] Căn cứ theo đích ngôn trung,
các hành động ngôn trung khái quát là trần thuật được phân chia thành các kiểu hành
động ngôn từ cụ thể hơn là trình bày, đánh giá được phân biệt với các kiểu cầu khiến,
hỏi. Trong đó, hành động trần thuật thuộc kiểu hành động trình bày. Ngôn ngữ trần
thuật là hình thức biểu hiện của hành động ngôn từ trần thuật.
Văn bản trần thuật có thể được coi như là một câu trần thuật được mở rộng nhằm
kể lại các sự kiện cho người tiếp nhận trần thuật biết, đồng cảm và nhận xét cùng mình.
Quá trình tạo dựng một văn bản trần thuật của người trần thuật cũng là một hành động
ngôn từ, cụ thể là hành động tạo ngôn.
Phân tích ngôn ngữ trần thuật trong các văn bản tự sự tương đương với việc phân
tích hành động ngôn trung, tức người trần thuật làm thế nào và bằng hình thức gì để
phản ánh thực tại của một sự kiện và đồng thời, làm cho hành động ngôn từ của người
trần thuật mang lại hiệu lực, hiệu quả nhất định.
Hành động ngôn trung (tức mục đích trần thuật) của người trần thuật thường nằm
trong diện ngôn ngữ và được nhận diện bằng các ký hiệu ngôn ngữ, đó là những hình
thức biểu hiện của ngôn ngữ người trần thuật gồm các từ ngữ chỉ nhân xưng và ngôi,
các từ ngữ và ngữ đoạn biểu thị nghĩa thời gian
Qua các dấu hiệu ngôn ngữ được thể hiện bằng hành động ngôn từ, người ta có
thể nhận diện tính cách, tâm lý của người phát ngôn và do vậy, hành động trần thuật
được phân tích một cách khách quan, khoa học hơn mà được giảm tính tư biện, chủ
quan. Vì vậy, việc phân tích tâm lý, tính cách nhân vật từ góc độ ngôn ngữ sẽ có tính

khách quan, khoa học, giảm thiểu được tính tư biện, chủ quan.
1.2.2 Các quan niệm theo hướng văn học
1.2.2.1 Một số quan niệm về "trần thuật"
Muốn làm rõ khái niệm Ngôn ngữ trần thuật, trước tiên phải xác định trần thuật là
gì. Theo quan niệm của ông Đàm Quân Cường, “trần thuật” là một quá trình giao lưu
mà nội dung trần thuật với tư cách là thông tin được người phát ra thông tin (addresser)
truyền đến cho người tiếp nhận thông tin (addressee) [65, tr.11]. Không phải hễ ai đó mở
miệng ra thì là “trần thuật”, trần thuật với nghĩa đen của nó là phải có sự kiện để thông
báo, sự kiện đó có thể tồn tại thực sự trong thế giới thực tại lẫn hư cấu. Xác định một
diễn ngôn/cú đoạn có phải đang tự sự, có thể xét dưới góc độ diễn ngôn đó được triển
khai mở rộng từng bước một thành một câu chuyện hoặc lớn hoặc nhỏ, thậm chí là một
tác phẩm tự sự. Trần thuật có thể kể về sự kiện, sự tình chân thực, cũng có thể kể về sự
tình hư cấu.
Lý luận tự sự nghiên cứu về cái quá trình trần thuật xuất hiện trong văn bản trần
thuật (narrative text) hay tác phẩm hư cấu (narrative fiction) [65, tr. 11]. Văn bản trần
thuật là văn bản mà người phát ngôn của việc trần thuật trình bày (hay “kể”) về chuyện
kể bằng một phương tiện trung gian như ngôn ngữ, hình ảnh, âm thanh, nghệ thuật
kiến trúc, hay bằng một thể phương tiện trung gian hỗn hợp. Vì thế, “văn bản” không
phải cũng không thể đồng nhất với “chuyện kể”. Chuyện kể được mã hóa bằng những
ký hiệu ngôn ngữ và qua đó được cấu trúc và đưa vào văn bản bằng hành động “kể”.
Chính hành động“kể” (trần thuật) đó sản sinh ra những ký hiệu ngôn ngữ và dẫn dắt cho
ra mắt “người trần thuật”.
Trọng tâm của trần thuật là một quá trình tương ứng trong nội bộ một tác phẩm tự
sự, một quá trình giao lưu và truyền đạt nội dung trần thuật từ một người kể chuyện hư
cấu đến một người tiếp nhận trần thuật hoặc hư cấu hoặc tiềm ẩn. Vai trần thuật có thể
xuất hiện dưới những trạng thái khác nhau căn cứ theo vị trí trong quá trình trần thuật,
trình độ tham gia vào câu chuyện. Việc trần thuật được thể hiện qua một người trần
thuật như thế cũng nhất định phải được sàng lọc qua một điểm nhìn nhất định. Nội dung
trần thuật vậy cũng không thể nào nhất trí với trạng thái vốn có khi nó diễn ra, mà được
trình diễn sau khi đã cấu trúc lại. Văn bản là trạng thái cuối cùng của những tổ hợp đó.

Văn bản là một chỉnh thể có giới hạn và được tổ hợp lại bởi các ký hiệu ngôn ngữ hoặc
môi giới, tức ngôn ngữ (discourse) miêu tả về những câu chuyện đó bằng lối nói hoặc
viết. [65, tr. 12] Nếu ngôn ngữ ở đây được lý giải là sự diễn đạt và cấp bậc trần thuật của
văn bản trần thuật thì câu truyện kể thuộc về đối tượng trần thuật hoặc cấp bậc được trần
thuật. [65, tr. 12]
Trong quá trình giao lưu của văn bản trần thuật, có thể phân chia ra các cấp bậc
khác nhau, nhưng vấn đề là nguyên tắc phân chia là gì và phân chia như thế nào. [65, tr.
28] Manfred Jahn cho rằng việc giao lưu trong văn bản trần thuật ít nhất phải đề cập đến
3 cấp bậc, sự giao lưu giữa mỗi cấp bậc đều liên quan đến người phát ra và tiếp nhận
thông tin của bản thân nó. [65, tr. 29] Cấp bậc giao lưu 1 là cấp bậc giao lưu chân thực
hoặc giao lưu phi hư cấu được diễn ra giữa tác giả và độc giả, thuộc diện siêu văn bản
(extratextual). Theo chúng tôi, cấp bậc này thuộc về cấp bậc độc giả tiếp nhận và lí giải
về tác phẩm theo kinh nghiệm của mình. Cấp bậc thứ 2 là cấp bậc điều phối hư cấu hoặc
cấp bậc ngôn ngữ tự sự, ở cấp bậc này, người trần thuật hư cấu kể truyện cho một người
tiếp nhận trần thuật được chỉ đinh hoặc vô định. Theo chúng tôi, cấp bậc này chỉ tất cả
những hành vi trần thuật mang tính sáng chế, tức trần thuật của Genette. Cấp bậc thứ 3
là cấp bậc hành động, các nhân vật chính của truyện giao lưu trong phạm vi cấp bậc này.
Đây là một cấp bậc thuộc diện câu chuyện hoặc là truyện kể. Cấp bậc 1 và 3 nằm ngoài
phạm vi nghiên cứu của luận án chúng tôi.
Như vậy, các cấp bậc của văn bản tự sự được phân chia như sau:
Cấp 1: giao lưu giữa tác giả chân thực và độc giả chân thực.
Cấp 2: giao lưu giữa người trần thuật và người tiếp nhận trần thuật. Người trần
thuật được coi như là người diễn tả của các hình vi ngôn ngữ.
Cấp 3: giao lưu giữa các nhân vật trong văn bản trần thuật, giao lưu này được triển
khai hoặc được kể lại với một môi giới là người trần thuật.
Có hai loại người trần thuật trong cấp 3. Một là người trần thuật nằm ngoài câu
chuyện, đơn thuần đảm chức người kể chuyện và trình diễn câu chuyện bằng cách trần
thuật. Hai là người trần thuật đồng thời có tư cách là người tham gia vào câu chuyện, tức
người trần thuật đồng thời cũng là nhân vật của truyện, chỉ khác nhau với các nhân vật
khác ở chỗ trình độ tham gia vào câu chuyện mà thôi. Cấp 2 và 3 thuộc diện văn bản

trần thuật [65, tr. 30-34] và chúng thuộc diện đối tượng nghiên cứu của chúng tôi.
Nhưng phải chú ý, quan hệ giữa các cấp bậc của văn bản trần thuật không phải cô lập
nhau và chỉ phát triển theo một chiều, mà là có thể giao lưu hai chiều giữa các cấp bậc
đó. [65, tr. 44]
1.2.2.2 Một số quan niệm về Ngôn ngữ trần thuật
Ngôn ngữ trần thuật là một khái niệm có nội hàm phong phú. Khía cạnh nghiên
cứu khác nhau thì sẽ có quan niệm và định nghĩa khác nhau.
Genette khu biệt hình thức cấu tạo cơ bản của ngôn ngữ tự sự như sau: tất cả
những ngôn ngữ xuất hiện trong một văn bản tự sự đều là ngôn ngữ/lời nói do người
trần thuật phát ra/nói ra. Ngôn ngữ mà người trần thuật sử dụng trong văn bản tự sự
được chia làm 3 hình thức cơ bản: một là ngôn ngữ/lời nói trực tiếp, là những ngôn
ngữ/lời nói mà người trần thuật kể ra; hai là ngôn ngữ/lời nói gián tiếp, là ngôn ngữ/lời
nói mà người trần thuật kể gián tiếp thông qua ngôn ngữ/lời nói của nhân vật trong hoặc
ngoài câu chuyện; ba là ngôn ngữ/lời nói chuyển đổi, người trần thuật kể trực tiếp lời nói
của nhân vật.
Genette cho rằng, Ngôn ngữ trần thuật chủ yếu là nghiên cứu các mối quan hệ
giữa tự sự (narrative) và chuyện kể, tự sự và trần thuật, chuyện kể và trần thuật. Ông
đưa ra ba phạm trù của tự sự(theo nghĩa hẹp) là thời gian, ngữ thể và ngữ thức.
Giống như Genette, khi phân tích và trình bày khái niệm Ngôn ngữ trần thuật,
Đàm Quân Cường vận dụng hệ thống lý thuyết Ngôn ngữ học của Saussure về ngôn
ngữ và lời nói để miêu tả và thuyết minh cho cái đối tượng nghiên cứu của mình. Theo
ông Đàm, sự khu biệt về ngôn ngữ và lời nói của Saussure có thể hình dung hai bình
diện nghiên cứu khác nhau của lý luận tự sự. Một là hệ thống được tạo lập bởi tất cả các
tác phẩm tự sự và có vai trò hạn định cho những tác phẩm tự sự đó (tức ngôn ngữ của
Saussure). Một là sự thể hiện của hệ thống đó trong khuôn khổ của một tác phẩm tự sự
nhất định (tức lời nói của Saussure).Diễn ngôn (discours) (histoire của Todorov) chỉ
những tổ hợp và cấu trúc nghệ thuật được nhập vào câu chuyện khi kể truyện. Những tổ
hợp và cấu trúc như thế được tiến hành nhờ những biện pháp như điểm nhìn, các kiểu
thời gian vân vân. [65, tr. 5] Bởi vậy, ông Đàm Quân Cường khái quát rằng:
“Văn bản” tức “ngôn ngữ”, là một hệ thống có cấu trúc khuôn khổ nhất định,

trong đó các sự tình được tổ hợp lại bởi một kí hiệu ngôn ngữ (ngôn ngữ tự nhiên) hoặc
những kí hiệu khác. Cùng với cấu trúc tự sự, Ngôn ngữ trần thuật nghiên cứu trình tự
thời gian và sự tình dưới hình thức thể hiện của ngôn ngữ, tập trung vào các mối quan
hệ có thể có giữa chuyện kể và văn bản, quá trình trần thuật và văn bản, chuyện kể và
quá trình trần thuật. Mấy thuật ngữ như trần thuật và người trần thuật, tiêu điểm
hóa-người tiêu điểm hóa và nhân tố tiêu điểm hóa vân vân thể hiện nổi bật đặc tính của
Ngôn ngữ trần thuật. Nhìn chung, quan điểm của ông Đàm Quân Cường có phần trùng
khớp với quan điểm của Genette. Cho nên, quan điểm trên đây của họ sẽ là cái cơ sở
chính mà chúng tôi căn cứ vào đó để triển khai phân tích. Nó đã hàm chứa tối đa những
yếu tố liên quan của Ngôn ngữ trần thuật.
Đổng Tiểu Anh giải thích Ngôn ngữ trần thuật như sau: trần thuật được cấu tạo
bởi 3 phạm trù là người trần thuật, phương thức trần thuật và ngữ thái, ngữ thức, cấu
trúc do trần thuật sản xuất ra. Chị ấy nhất trí với Genette ở chỗ Ngôn ngữ trần thuật nằm
trong ba phạm trù thời, thái, thức của Genette. Nhưng yếu tố được bao hàm trong ba
phạm trù đó thì khác ông Genette:
+ Thái là chủ thể trần thuật gồm ngôi, người trần thuật, người tiếp nhận trần
thuật, tiêu điểm hóa, vân vân;
Ngữ thái trần thuật nghiên cứu về vấn đề “ai đang nói”, tức quan hệ giữa người
trần thuật và việc trần thuật. Nó gồm quan hệ giữa người trần thuật với điểm nhìn của
nhân vật và nhân xưng; quan hệ giữa hình tượng nhân vật được hình thành do việc trần
thuật với thái độ của hình tượng này đối với sự kiện; quan hệ về thái độ của tác giả là
khẳng định hay phủ định đối với nhân vật cũng như sự kiện. [58, tr. 16]
+ Thức gồm trình tự, khoảng cách, tần số, dạng thức câu vân vân.
Ngữ thức trần thuật nghiên cứu về vấn đề “nói như thế nào”, tức quan hệ giữa
việc trần thuật và sự kiện, bao gồm những nội dung sau đây:
1. Sự kiện này diễn ra trong một biên độ thời gian và không gian như thế nào;
2. Lần diễn ra của sự kiện, tức tần số trần thuật;
3. Sự kiện này là hiện hữu hay hư cấu;
4. Những hình thức ngôn ngữ khác nhau để miêu tả, đánh giá vân vân. về sự kiện
đó, tạo thành mô thức trần thuật. Ngoài ra, trần thuật có thể dẫn đến các phương hướng

suy lý do sự hiểu biết và cái được trần thuật có khác, và cũng bởi thế mà có những
phong cách văn bản khác nhau. [58, tr. 16]
+ Cấu trúc của văn bản là cái tổng hợp của các phương thức trần thuật.
Cấu trúc trần thuật chỉ quan hệ giữa việc trần thuật và cấu trúc của văn bản. Cấu
trúc văn bản không những chỉ cấu trúc ngoại tại của văn bản, mà còn chỉ cấu trúc nội tại,
đó là những yếu tố trần thuật đã phát huy vai trò trong quá trình trần thuật, những
phương thức tư duy đã tham gia vào và làm thay đổi phong cách văn bản.
Chị Đổng Tiểu Anh cũng cho rằng, phương thức tổ hợp của ngôn ngữ trần thuật là
một hình thức thể hiện thái độ trần thuật.Thái độ trần thuật được thể hiện bằng cách lựa
chọn từ ngữ, việc chọn từ trở thành một biện pháp quan trọng để thể hiện thái độ của tác
giả. [58, tr. 101-102]
Thân Đan trực tiếp định nghĩa Ngôn ngữ trần thuật như thế:
Ngôn ngữ trần thuật là thứ ngôn ngữ dùng kể lại câu chuyện bằng lời nói hoặc văn
viết, trong văn học, tức là văn bản mà độc giả sẽ tiếp cận. Nó gồm những bộ phận
không thể chia tách: nhân xưng trong ngôn ngữ là tiêu chí để phán đoán người trần thuật
là ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba; thời thái trong ngôn ngữ là tiêu chí để phán đoán quan
hệ thời gian giữa người trần thuật với chuyện kể ; diễn ngôn còn thể hiện ai là người
trần thuật, có mấy bậc trần thuật và quan hệ như thế nào, vân vân. Ngoài ra, Thân Đan
đã xem xét vấn đề Ngôn ngữ trần thuật bằng lý thuyết văn bản học. Nếu xuất phát từ
khía cạnh phân tích văn bản, trong một hệ thống văn bản tự sự, có những cấp bậc khác
nhau và tương quan với nhau như cơ tầng đặc trưng ngôn ngữ, hiệu quả tâm lý do cơ
tầng ngôn ngữ đó gây nên, ý nghĩa chủ đề hoặc hiệu quả mỹ học được thể hiện bởi đặc
trưng ngôn ngữ của một ngữ cảnh nhất định mà cầu nối của chúng là hiệu quả tâm lý.
Còn xuất phát từ khía cạnh Trần thuật học, một hệ thống văn bản tự sự được tạo dựng
bởi các cấp bậc như cấp bậc câu chuyện và cấp bậc trần thuật, tức các hình thức ngôn
ngữ nhằm xâu chuỗi lên một văn bản tự sự. Trên cấp bậc trần thuật, lại bao hàm các yếu
tố như người trần thuật, điểm nhìn, thời gian vân vân.
1.2.3 Định nghĩa của "ngôn ngữ trần thuật"
Tổng quan các quan điểm về Ngôn ngữ trần thuật được nêu ở trên, điều cần lưu ý
nhất là Ngôn ngữ trần thuật chỉ được để cập một cách rải rác, rời rạc, trực tiếp hoặc gián

tiếp, qua nhiều yếu tố, từ nhiều khía cạnh, bằng nhiều thuật ngữ khác nhau. Vậy, có thể
nói, Ngôn ngữ trần thuật là một tập hợp thể của những yếu tố liên quan. Dù thế nào đi
nữa, các nhà nghiên cứu đã tập trung, đi thẳng cũng như đi sâu vào vấn đề "ai kể - kể cái
gì - kể như thế nào": những yếu tố chủ chốt xâu chuỗi nên một văn bản tự sự dưới hình
thức ngôn ngữ.
Trong đề tài nghiên cứu này, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi một là nằm trong
diện cơ tầng đặc trưng ngôn ngữ, hai là nằm trong diện cấp bậc trần thuật. Hai thứ đó có
nhiều điểm đan xen và trùng hợp nhau. Xét chung, khi tìm hiểu và khảo sát đặc điểm
Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam cũng cần bao quát cả
những yếu tố trong hai diện đó.
Ngôn ngữ trần thuật liên quan đến các vấn đề như “ai nói’, “ai nhìn”, “ai phát
ngôn”, “nói như thế nào”. Phương pháp trần thuật thuộc về việc sáng tác của một nhà
văn nào đó, nó mang đậm đặc sắc của cá nhân. Cũng như “lời nói (parole)”, ngôn ngữ
trần thuật là hành động kể của từng cá nhân, là hành động cá nhân về ý chí và trí tuệ,
mang tính chất dị biệt.
Cái mà Ngôn ngữ trần thuật cần đi sâu nghiên cứu là người trần thuật làm thế nào,
bằng cách nào và phương tiện nào để tổ chức, xây dựng và kể lại sự tình. Đơn giản mà
nói, là khảo sát người trần thuật kể chuyện như thế nào, diễn đạt nội dung của truyện
bằng phương pháp nào. Đi về cụ thể hơn nữa, thì Ngôn ngữ trần thuật nghiên cứu về
việc lựa chọn (về mặt ngôn ngữ bản thân) của các ngữ đoạn, các câu văn cụ thể khi diễn
đạt nội dung truyện cũng như nguyên nhân và mục đích của sự lựa chọn đó (về mặt thao
tác các ngữ đoạn, các câu văn đó). Trọng tâm được thể hiện của Ngôn ngữ trần thuật là
kỹ xảo trần thuật trên diện kết cấu văn bản và sự lựa chọn về phương thức tự sự của
người trần thuật. Còn các khái niệm như sự kiện, tài liệu, hành động và ngôn ngữ nhân
vật thì thuộc diện truyện kể, một cấp bậc khác của văn bản tự sự, không nằm trong
phạm vi nghiên cứu của chúng tôi, nên trong luận án này sẽ không được bàn đến.
Tổng quan những quan điểm được trình bày một cách khái quát trên đây của các
nhà nghiên cứu, chúng tôi có thể định nghĩa ngôn ngữ trần thuật như sau:
Ngôn ngữ trần thuật là tất cả những hình thức ngôn ngữ dùng trong việc trần thuật.
Việc trần thuật là một hành động ngôn từ, có một người nào đó đã kể một sự kiện nào

đó bằng một thứ ngôn ngữ đặc biệt. Cùng chung một sự kiện, không nhất thiết chỉ có
một người kể, có thể có rất nhiều người cùng kể về sự kiện đó, nhưng kể như thế nào và
hình thức tổ chức bố cục văn bản như thế nào thì hoàn toàn do người ấy ấn định qua
sự lựa chọn nhất định. Vậy có thể hiểu Ngôn ngữ trần thuật gồm các hình thức ngôn
ngữ dùng để trần thuật về một sự kiện cụ thể (trong đó, có thể có nhân vật tham gia vào
sự kiện, cũng có thể không), và diễn đạt những quan điểm, đánh giá, nhận xét, miêu tả
của người trần thuật đối với đối tượng mà mình đang kể về (có thể là sự kiện, môi
trường/hoàn cảnh, nhân vật, vẻ mặt-hành động-lời nói-tâm lý của nhân vật ).
Và những yếu tố bao gồm trong Ngôn ngữ trần thuật có:
- Người trần thuật (hoặc vai trần thuật), yếu tố quan trọng nhất trong hành vi trần
thuật, vì không có vai trần thuật thì sẽ không có hành vi trần thuật.
- Điểm nhìn (hoặc góc nhìn), liên quan đến các vấn đề như vị trí quan sát, khoảng
cách, thái độ và phương thức cảm nhận sự kiện của vai trần thuật.
- Thời gian, yếu tố thể hiện quan hệ giữa truyện kể và trần thuật, nó phản ánh trạng
thái “thời gian” trong một thế giới hư cấu và mang tính chất tuyến tính.
Dưới đây, chúng tôi lần lượt điểm qua các khái niệm và những yếu tố liên quan của
Người trần thuật, Điểm nhìn và Thời gian.

1.3 Quan niệm về "người trần thuật" và phân loại "người trần thuật"
Trong bất kỳ một chuyện nào cũng có nhân vật hành động hoặc sự kiện xảy ra. Xét
dưới góc độ này, căn cứ theo quan hệ hoặc vị trí của người trần thuật đối với câu chuyện
và nhân vật trong truyện, các học giả Trần thuật học phân chia nhiều loại hình người trần
thuật.
1.3.1 Quan niệm về "người trần thuật"
Các nhà nghiên cứu đã tập trung luận bàn cũng như định nghĩa Người trần thuật
từ các mối quan hệ giữa chủ thể sáng tác với chủ thể trần thuật, nhân vật chính với
người trần thuật và các khía cạnh phương vị/vị trí và hình thức xuất hiện của người trần
thuật.
Năm 1978, học giả Mỹ S.Chatman lấy mô thức giao tiếp của ký hiệu học để mô tả
quá trình giao lưu của văn bản trần thuật:

Văn bản trần thuật [65, tr. 24]
tác giả chân
thực ……〉
tác giả tiềm ẩn→(người trần thuật)→(người
tiếp nhận trần thuật)→độc giả tiềm ẩn
……〉độc giả

chân thực
Đồ hình trên cho biết tác giả tiềm ẩn khác hẳn với người trần thuật. Sự khác biệt
giữa hai vai đó ở chỗ tác giả tiềm ẩn không đảm nhiệm bất kỳ một công việc trần thuật
nào. [65, tr. 25] Và cũng qua đồ hình trên, một điều rất quan trọng khác đã được thể hiện
rõ rệt, đó là tác giả chân thực (chủ thể sáng tác) của văn bản tự sự được xếp ngoài phạm
vi giao lưu có người trần thuật tham gia. Có nghĩa là, tác giả chân thực không phải là
người trần thuật vì tác giả chân thực cũng không tham gia vào hoạt động trần thuật. Cho
nên, khu biệt tác giả chân thực và người trần thuật là điều rất quan trọng trong luận án
của chúng tôi.
Theo Genette, chủ thể trần thuật là vai đã để lại nhiều dấu vết trong quá trình sản
sinh Ngôn ngữ trần thuật, nó có thể dễ nhận ra được qua các yếu tố như thời gian trần
thuật, cấp bậc trần thuật và ngôi.
Người trần thuật trước hết là chủ thể trần thuật. Khi bàn đến chủ thể của ngôn
ngữ trần thuật, các nhà thi pháp học hình như đã gặp phải không ít khó khăn ở chỗ có
nên thừa nhận và tôn trọng tính tự chủ của chủ thể này không. Trong đó, chủ thể trần
thuật với chủ thể sáng tác, người trần thuật với tác giả, người tiếp nhận tự sự với độc giả
của tác phẩm được đồng nhất với nhau hay không là một khó khăn lớn cần được giải
quyết. Nếu sự đồng nhất đó xuất hiện trong các văn bản lịch sử hoặc các tự truyện chân
thực thì vẫn có thể tiếp nhận được. Nhưng trong tác phẩm tự sự hư cấu, sự đồng nhất và
làm hỗn hợp mấy yếu tố trên là không hợp lý, vì trong tác phẩm hư cấu, "bản thân người
trần thuật là một vai hư cấu".[71, tr.147] Tiền đề nghiên cứu chủ thể trần thuật phải là
chủ thể này đã để lại những dấu vết được cho là của chủ thể đó trong một văn bản trần
thuật do chủ thể đó làm nên. [71, tr.148] Những yếu tố hạn định liên quan với chủ thể

trần thuật, hoặc trên thực tế những yếu tố đó cùng đóng vai trò trong việc trần thuật, về
cơ bản được quy vào 3 loại là thời gian trần thuật, cấp bậc trần thuật và “nhân xưng” tức
quan hệ giữa người trần thuật (có thể còn một hoặc nhiều người tiếp nhận trần thuật) với
truyện được kể. [71, tr. 148] Xét riêng về mặt này, tác giả sáng tác của tác phẩm thật
không liên can gì đến 3 loại yếu tố trên.
Ngôi/Nhân xưng là hình thức biểu hiện của người trần thuật trong văn bản tự sự.
Căn cứ theo vị trí xuất hiện của người trần thuật trong câu chuyện, Genette đã phân chia
các kiểu người trần thuật: Người trần thuật không xuất hiện trong truyện là người trần
thuật dị câu chuyện (tức người trần thuật ngoài câu chuyện của Bal và Đàm). Người trần
thuật xuất hiện trong truyện với tư cách một nhân vật của truyện là người trần thuật
đồng câu chuyện (tức người trần thuật trong câu chuyện của Bal và Đàm) [71, tr.172]
Nói chung, truyện với người trần thuật dị câu chuyện là truyện kể ở ngôi thứ ba, truyện
với người trần thuật thuật đồng câu chuyện là truyện kể ở ngôi thứ nhất.
Như trên đã đề cập, Genette nêu ra khái niệm “người trần thuật đồng câu chuyện”
và “người trần thuật dị câu chuyện”. “Người trần thuật đồng câu chuyện” có nghĩa là
người trần thuật thuộc về câu chuyện mà vai ấy đang kể, là một bộ phận của truyện,
đồng thời cũng là nhân vật trong tình tiết và sự kiện mà vai ấy đang kể. “Người trần
thuật dị câu chuyện” có nghĩa là người trần thuật không thuộc về truyện đang kể, không
phải là nhân vật trong tình tiết và sự kiện mà vai ấy đang kể. [71, tr. 56] Cho nên, không
được đánh đồng người trần thuật ngôi thứ nhất với người trần thuật đồng câu chuyện.
Xét dưới góc độ “giọng” trần thuật, người trần thuật thường dễ bị khu biệt bằng nhân
xưng trần thuật. Người trần thuật ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba là cái xuất hiện thường
xuyên nhất. [71, tr. 57] Hễ có ngôn ngữ thì tất nhiên có một người đang nói thứ ngôn
ngữ này; hễ những ngôn ngữ đó đã cấu tạo lên một văn bản trần thuật thì tồn tại người
trần thuật, một chủ thể trần thuật. Theo quan điểm ngữ pháp, đó luôn là một “ngôi thứ
nhất”. [71, tr. 58] Vậy thì chức năng của người trần thuật có thể xét dưới những góc độ
như sau:
Đối với câu chuyện, có chức năng trần thuật; đối với văn bản trần thuật, có chức
năng quản lý; đối với tình cảnh trần thuật, có chức năng giao tiếp; đối với bản thân
người trần thuật, có chức năng tư duy. [71, tr.180-183]

Nhưng cũng có những trường hợp văn bản tự sự hầu như không có người trần
thuật. Đó là trong các tiểu thuyết hiện đại. Tiểu thuyết hiện đại đã đẩy việc mô phỏng
diễn ngôn sang một cực đoan, hoặc nói đúng hơn là sang một thái cực khác, nó hoàn
toàn tẩy sạch vết tích cuối cùng của chủ thể trần thuật, dẫn đến tình trạng vừa mới bắt
đầu vào truyện thì nhân vật đã mở miệng nói, hễ mở quyển tiểu thuyết ra thì độc giả đã
phải đối mặt với tư tưởng của nhân vật, dòng tư tưởng này được phát triển một cách liên
tục và đã hoàn toàn thay thế cho những hình thức tự sự thường thấy, nó có thể bảo cho
chúng ta biết hành động và tao ngộ của nhân vật. [71, tr.117] Về hiện tượng này, có nhà
nghiên cứu cho rằng, văn bản tự sự như thế là đã vắng mặt chủ thể trần thuật, đó là
những kiểu "văn bản tự sự bằng sự kiện", theo Genette. Nhưng, với Genette, không hề
có văn bản tự sự không có chủ thể/người trần thuật, chỉ có thể nói trong kiểu văn bản đó,
chủ thể/người trần thuật đã im bặt với mức độ tối đa.
“Người trần thuật”, được M. Bal phân tách rõ ràng với “chủ thể/người tiêu điểm
hóa”, là người hành động đã diễn đạt ra ký hiệu ngôn ngữ cấu tạo nên văn bản. [73,
tr.19] Theo bà, “người trần thuật” có được đề cập hay không trong văn bản không gây
tác động đến tình huống trần thuật. Vậy “người trần thuật” dù có gắn với “ngôi thứ
nhất” hay “ngôi thứ ba” vẫn chỉ là một người trần thuật – “chủ thể trần thuật” mà
thôi.
Như định nghĩa của văn bản trần thuật mà Bal đã chỉ rõ, những ký hiệu đó được
sáng tạo do một hành động trần thuật, vai hành động này đã “diễn đạt ra” những ký hiệu
đó. Vai này không thể nào đồng đẳng với tác giả mà ngược lại, tác giả đã thoát khỏi hẳn
văn bản trần thuật và đã chỉ định một người phát ngôn hư cấu, một vai hành động được
gọi tên về mặt thuật ngữ là “người trần thuật” (narrator). Nhưng người trần thuật đó
không phải kể liên tục không ngừng. Hễ các thoại dẫn trực tiếp xuất hiện trong văn bản,
thì người trần thuật sẽ tạm nhường vai trò dẫn dắt câu chuyện cho một nhân vật nào đó.
Vì vậy, việc xác định ai đang kể là một việc làm hết sức quan trọng.
Một vấn đề khác rất quan trọng được Bal quan tâm là cần làm rõ thân phận và địa
vị của người trần thuật. Người trần thuật là chủ thể của ngôn ngữ, là một chức năng hơn
là một cá thể đang diễn đạt về bản thân mình trong những ngôn ngữ cấu tạo lên một văn
bản. Có thể khẳng định dứt khoát rằng, người trần thuật này không phải là tác giả của

những tác phẩm trần thuật mang tính chất truyền ký. [73, tr. 16] Người trần thuật chỉ là
một khái niệm trung tâm khi phân tích một văn bản tự sự nào đó. [73, tr. 19] Chính vì
vậy, người trần thuật và trình độ, phương thức thể hiện cũng như việc lựa chọn ẩn náu
của vai này trong văn bản quyết định lấy đặc trưng của văn bản. [73, tr.19-20]
Khi nói đến hình thức xuất hiện với một nhân xưng nào đó của người trần thuật,
M. Bal cho rằng, “tôi” và “anh ấy/chị ấy” đều là “tôi” cả. Về nguyên tắc, bất luận người
trần thuật có nhắc đến bản thân hay không, cũng không ảnh hưởng đến trạng thái trần
thuật. Miễn là những ngôn ngữ trần thuật này cấu tạo lên một văn bản trần thuật thì ắt
tồn tại một vai trần thuật, một chủ thể trần thuật. Xét từ quan điểm ngữ pháp, “tôi” hoặc
“anh/chị ấy” luôn là một “ngôi thứ nhất”. Trên thực tế, thuật ngữ “người trần thuật ngôi
thứ ba” là một thuật ngữ nghịch lý: người trần thuật không phải là một người ngôi thứ
ba vắng mặt trong phạm vi ngữ pháp. Người trần thuật này chẳng qua đang kể về tình
hình của một người khác, một “anh ấy” hoặc “chị ấy” (mà anh này/chị này cũng có thể
ngẫu nhiên trở thành vai trần thuật). [73, tr.23]
Ở ông Đàm Quân Cường, người trần thuật là người dẫn truyện trong văn bản tự
sự, là cái gọi là “giọng” được thể hiện qua văn bản, nhiều khi “người trần thuật” là
một chức năng hơn là một cá thể. Vậy nên đồng nhất “người trần thuật” với chủ thể
trần thuật. Vả lại, ông nhấn mạnh khi xem xét cấp bậc siêu truyện của tác phẩm tự sự,
tác giả chân thực cần phải được loại ra khỏi phạm vi khảo sát, bất luận người trần thuật
đã đề cập đến tác giả chân thực bằng hình thức nào. [65, tr.42] Điều này cho thấy ông
đồng cảm với R. Barthes ở chỗ chủ trương nên tách bạch rạch ròi tác giả với người trần
thuật, hai cái đó không có một chút gì trùng hợp với nhau. Nhận xét này cũng ăn khớp
với quan điểm của Genette và Bal. Ông Đàm phân loại “người trần thuật” như sau:
+ Căn cứ theo vị trí hoặc cấp bậc trần thuật và trình độ tham gia vào chuyện kể, có
“người trần thuật đứng bên ngoài/người trần thuật phi nhân vật” và “người trần thuật
đứng bên trong/người trần thuật-nhân vật.
+ Căn cứ theo trình độ được nhận biết, có “người trần thuật hiện diện” và “người
trần thuật tiềm ẩn”.
+ Căn cứ theo quan hệ giữa “người trần thuật” với “tác giả tiềm ẩn”, có “người
trần thuật đáng tin cậy” và “người trần thuật đáng nghi ngờ”.

Xuất phát từ khía cạnh lí tính và tư duy con người, Đổng Tiểu Anh cho rằng,
trong các tác phẩm văn học lấy con người làm trung tâm, “người” tương đương với chủ
ngữ của câu. Với tư cách là người trần thuật, tác giả là người quyết định lấy ngữ thái của
ngôn ngữ trần thuật. Nhân vật xuất hiện với một từ vựng, một tên gọi, đấy là phương
thức xưng gọi đến từ tác giả, người trần thuật hoặc các nhân vật khác về nhân vật này:
nếu là người trần thuật hoặc người được trần thuật, thì có các danh từ riêng và các đại từ
nhân xưng. [58, tr.51] Quan sát những tên gọi của nhân vật, người ta có thể nhận biết
được thái độ và sự đánh giá của tác giả đối với nhân vật này, đồng thời, đặc trưng hành
động và tính cách nhân vật cũng được thể hiện. [58, tr.62]
Trong phạm vi các đại từ xưng hô ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai hay ngôi thứ ba, về
thực chất mà nói, đấy cũng chỉ là một chứng kiến “có mặt” của các loại diễn ngôn.
“Tôi” có thể là tác giả - người trần thuật, cũng có thể là nhân vật – người trần thuật, hoặc
là một cái gì đó vô sức sống. Nói thế có nghĩa là “tôi” có thể là tất cả mọi sự vật, dù rằng
được biểu hiện bằng tên người hay đại từ nhân xưng, đều cho biết vị trí trần thuật của
người trần thuật, cũng có thể là góc nhìn, tức góc độ nhìn nhận vấn đề của người trần
thuật.
Anh hay là Em, Chị (ngôi thứ hai) là đối tượng giao tiếp của người đang phát
ngôn. Ngôi thứ hai này có thể đặc chỉ cũng có thể phiếm chỉ, là một vị trí đặc biệt của

×