Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Sự phát triển của từ vựng tiếng Việt hiện đại 30 năm đầu thế kỷ XX 1900 -1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 19 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





TRẦN NHẬT CHÍNH





SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI
(30 năm đầu thế kỷ XX: 1900 -1930)





LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN












Hà nội - 2002






ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


TRẦN NHẬT CHÍNH

SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI
(30 năm đầu thế kỷ XX: 1900- 1930)

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số : 5 - 04 - 08

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS.LÊ QUANG THIÊM






Hà Nội - 2002



Mục lục


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU

MỞ ĐẦU 1
1. GIỚI THIỆU LUẬN ÁN 1
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN 3
3. Ý NGHĨA CỦA LUẬN ÁN 4
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4
5. TƢ LIỆU PHỤC VỤ CHO LUẬN ÁN. 5
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN. 7

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TỪ VỰNG VÀ HƢỚNG NGHIÊN
CỨU 8
1.1. MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
TỪ VỰNG. 8
1.1.1. Những nhân tố bên ngoài ngôn ngữ 8
1.1.2. Những nhân tố bên trong ngôn ngữ. 16
1.1.2.1. Sự biến đổi về số lượng. 16
1.1.2.2. Sự biến đổi về chất lượng 17
1.2. MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ CÁC CON ĐƢỜNG PHÁT TRIỂN CỦA TỪ VỰNG 26

1.2.1. Phát triển từ vựng bằng con đƣờng vay mƣợn từ 27
1.2.2. Phát triển từ vựng bằng con đƣờng cấu tạo và phát triển nghĩa. 28
1.2.2.1. Phát triển từ vựng bằng con đường cấu tạo từ ngữ. 28
1.2.2.2. Phát triển từ vựng bằng con đường phát triển ý nghĩa mới của từ 38
1.2.3. Phát triển từ vựng bằng con đƣờng toàn dân hoá từ ngữ tiếng địa phƣơng. 40
1.3. HƢỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN 42
1.3.1. Những khó khăn trong việc nghiên cứu. 42
1.3.1.1. Khó khăn về tư liệu. 42
1.3.1.2. Khó khăn trong việc xác định từ ngữ mới. 43
1.3.2. Hƣớng nghiên cứu của luận án. 44
1.3.2.1. Quan niệm về đồng đại và lịch đại trong khi nghiên cứu. 44
1.3.2.2. Hướng nghiên cứu của luận án. 46

CHƢƠNG 2. BỨC TRANH CHUNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT 30
NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX. 47
2.1. VÀI NÉT VỀ BỐI CẢNH XÃ HỘI-NGÔN NGỮ GIAI ĐOẠN 1900-1930 47
2.1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội. 47
2.1.2. Bối cảnh ngôn ngữ 52
2.1.2.1. Sự phát triển của báo chí quốc ngữ. 52
2.1.2.2. Sự phát triển của nền văn học quốc ngữ. 60
2.2. BỨC TRANH CHUNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TỪ VỰNG THỂ HIỆN TRÊN CÁC
VĂN BẢN QUỐC NGỮ 30 NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX. 64
2.2.1. Các văn bản đƣợc chọn làm tƣ liệu và phƣơng pháp tập hợp tƣ liệu 65
2.2.1.1. Các văn bản được chọn làm tư liệu. 65
2.2.1.2. Phương pháp tập hợp tư liệu. 69


2.2.2. Khái quát về sự phát triển số lƣợng và chất lƣợng của từ vựng ba mƣơi
năm đầu thế kỷ XX. 69
2.2.2.1. Sự phát triển về lượng. 69

2.2.2.2. Sự phát triển về chất. 85
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 89

CHƢƠNG 3. PHÁT TRIỂN TỪ VỰNG GIAI ĐOẠN 1900-1930 BẰNG CON ĐƢỜNG CẤU
TẠO TỪ VÀ PHÁT TRIỂN NGHĨA 94
3.1. PHÁT TRIỂN TỪ VỰNG BẰNG CON ĐƢỜNG CẤU TẠO TỪ. 94
3.1.1. Các yếu tố tham gia cấu tạo từ. 96
3.1.1.1. Một số quan niệm về yếu tố cấu tạo từ tiếng Việt. 96
3.1.1.2. Các thành tố tham gia cấu tạo từ ngữ mới trong thời đoạn được khảo
sát. 104
3.1.2. Quan niệm về phƣơng thức ghép trong tiếng Việt. 109
3.1.3. Một số quan niệm về phân loại từ ghép trong tiếng Việt. 110
3.1.4. Các mô hình cấu tạo từ ngữ mới tiếng Việt 30 năm đầu thế kỷ XX. 115
3.1.4.1. Các mô hình cấu tạo từ ghép hội nghĩa 116
3.1.4.2. Các mô hình cấu tạo từ ghép phân nghĩa. 120
3.1.5. Một vài nhận xét về phát triển từ vựng bằng con đƣờng cấu tạo từ mới
giai đoạn 1900-1930. 129
3.1.5.1. Đặc điểm của các từ ngữ cấu tạo theo mô hình ghép hội nghĩa. 129
3.1.5.2. Đặc điểm của các từ ngữ cấu tạo theo mô hình ghép phân nghĩa. 130
3.2. PHÁT TRIỂN TỪ VỰNG BẰNG CON ĐƢỜNG PHÁT TRIỂN NGHĨA CỦA TỪ. 131
3.2.1. Một số quan niệm về phát triển nghĩa của từ. 131
3.2.2. Quan niệm về phát triển ý nghĩa của từ trong tiếng Việt. 132
3.2.2.1. Quan niệm của các tác giả đi trước. 132
3.2.2.2. Quan niệm của tác giả luận án. 134
3.2.3. Kết quả khảo sát phát triển ý nghĩa mới của từ giai đoạn 1900-1930. 137
3.2.3.1. Thuật ngữ hóa từ thông thường 137
3.2.3.2. Mở rộng ý nghĩa của từ bằng phương thức ẩn dụ và hoán dụ. 139
3.2.3.3. Một vài nhận xét về sự phát triển nghĩa của từ. 143
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3. 145


CHƢƠNG 4. PHÁT TRIỂN TỪ VỰNG GIAI ĐOẠN 1900-1930 BẰNG CON ĐƢỜNG VAY
MƢỢN TỪ 148
4.1. TỪ NGỮ GỐC HÁN ĐƢỢC VAY MƢỢN VÀO TIẾNG VIỆT GIAI ĐOẠN 1900-1930. 149
4.1.1. Điều kiện dẫn đến sự vay mƣợn từ ngữ gốc Hán vào tiếng Việt. 149
4.1.2. Các đặc điểm của lớp từ ngữ mƣợn Hán giai đoạn 1900-1930. 150
4.1.2.1. Đặc điểm về số lượng. 150
4.1.2.2.Đặc điểm về nghĩa. 155
4.2. TỪ NGỮ GỐC PHÁP ĐƢỢC VAY MƢỢN VÀO TIẾNG VIỆT GIAI ĐOẠN 1900-1930
4.2.1.Điều kiện dẫn đến sự vay mƣợn từ gốc Pháp vào tiếng Việt. 165
4.2.2.Cách tiếp nhận từ gốc Pháp vào tiếng Việt giai đoạn 1900-1930. 167
4.2.2.1. Tiếp nhận từ gốc Pháp bằng cách phỏng âm. 167
4.2.2.2. Tiếp nhận từ gốc Pháp bằng cách viết nguyên dạng. 170
4.2.3. Đặc điểm về số lƣợng của lớp từ mƣợn Pháp giai đoạn 1900-1930. 172
4.2.4. Một số đặc điểm về nghĩa của lớp từ gốc Pháp. 173


4.2.5. Một số phƣơng thức Việt hoá từ gốc Pháp 30 năm đầu thế kỷ 20. 179
4.2.5.1. Sự cần thiết phải Việt hoá từ gốc Pháp. 179
4.2.5.2. Một số phương thức Việt hoá từ gốc Pháp 30 năm đầu thế kỷ 20. 179
4.2.6. Một số nhận xét về lớp từ mƣợn Pháp giai đoạn 1900-1930. 184
TIỂU KẾT CHƢƠNG 4. 185
KẾT LUẬN 187

CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU


1.GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
Từ lâu, tiếng Việt đã được nhiều nhà ngôn ngữ học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu trên
nhiều bình diện khác nhau. Tuy nhiên, sự phát triển của từ vựng tiếng Việt trong một giai đoạn cụ thể lại
chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu. Chúng tôi thực hiện đề tài: "Sự phát triển của từ vựng tiếng Việt
hiện đại (30 năm đầu thế kỷ XX, 1900- 1930)" nhằm góp phần nghiên cứu sự phát triển của từ vựng trong
một giai đoạn lịch sử cụ thể. Luận án chọn giai đoạn 1900- 1930 là vì, theo chúng tôi, đó là giai đoạn xã
hội Việt Nam có nhiều biến đổi to lớn về nhiều mặt, tác động mạnh đến sự phát triển của tiếng Việt và từ
vựng tiếng Việt.
2.MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN.
2.1. Khảo sát các đơn vị từ ngữ mới xuất hiện trên các văn bản quốc ngữ từ 1900- 1930.
2.2. Phân tích những nhân tố bên ngoài và bên trong ngôn ngữ có tác động đến sự phát triển của từ
vựng tiếng Việt trong giai đoạn được nghiên cứu.
2.3. Phân tích và miêu tả bức tranh chung về sự phát triển của từ vựng tiếng Việt
2.4. Phân tích và miêu tả hai con đường cơ bản làm giàu cho vốn từ vựng: a) Con đường cấu tạo từ
ngữ và phát triển ý nghĩa mới của từ; b) Con đường vay mượn từ ngữ.
2.5. Qua việc so sánh với các đơn vị từ ngữ giai đoạn trước và giai đoạn sau, luận án sẽ chỉ ra một
số đặc điểm cơ bản về nghĩa, về các mô hình cấu tạo của các từ ngữ mới xuất hiện trong giai đoạn 1900-
1930.
3.Ý NGHĨA CỦA LUẬN ÁN
Luận án sẽ cho thấy một bức tranh toàn cảnh về sự phát triển của từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt cả về
số lượng lẫn chất lượng trong một giai đoạn cụ thể (1900- 1930).
Cung cấp một nguồn tư liệu đáng kể cho các công trình nghiên cứu tiếp theo về sự phát triển của
tiếng Việt.
Kết quả của luận án sẽ góp phần tổng kết, khẳng định các con đường phát triển cơ bản của từ vựng
tiếng Việt và tiếng Việt nói chung.
Luận án cũng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu lịch sử phát triển của từ vựng tiếng
Việt.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các phương pháp được luận án sử dụng là: phương pháp thống kê, phương pháp miêu tả, phương
pháp so sánh lịch sử, nhằm làm nổi bật những đặc trưng cơ bản nhất của các đơn vị từ ngữ xuất hiện trong

giai đoạn 1900-1930.
5. TƢ LIỆU PHỤC VỤ CHO LUẬN ÁN.
5.1. Nguồn tư liệu phục vụ cho luận án là các văn bản quốc ngữ xuất bản từ cuối thế kỷ XIX đến
năm 1930.
Cụ thể là:
5.1.1. Các văn bản cuối thế kỷ XIX: "Phan Yên báo" (1868), "Thầy Lazôla Phiền" (1887)
5.1.2. Các văn bản xuất bản từ 1900- 1930:
"Nông cổ mín đàm", "Đăng cổ tùng báo", Văn thơ của nhóm Đông kinh nghĩa thục, "Đông Dương
tạp chí", "Việt Nam phong tục", "Nam phong tạp chí", tiểu thuyết "Tố tâm", "Văn kiện Đảng toàn tập"
(tập 1.2), "Đường kách mệnh", Ngoài ra còn có các bài viết hoặc truyện ngắn của các tác giả Huình Tịnh
Paulus Của, Trương Vĩnh Ký, Gilbecrt Trần Chánh Hiếu, Đặng Lễ Nghi, Trần Phong Sắc, Hồ Biểu
Chánh, Phan Kế Bính
5.2. Cách thu thập tƣ liệu:
5.2.1. Trên cơ sở những biến động của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20 chúng tôi thống kê tên gọi
của các tổ chức, các phong trào, những từ ngữ thuộc các lĩnh vực chính trị- xã hội, lĩnh vực khoa học kỹ
thuật mà theo chúng tôi, chúng có khả năng xuất hiện từ 1900- 1930. Chẳng hạn: cộng sản Đảng, thợ
thuyền, đế quốc chủ nghĩa, giai cấp đấu tranh
5.2.2. Đặc biệt là các từ ngữ Hán -Việt xuất trên các văn bản từ 1900- 1930 đã được các tác giả đặt
dấu nối giữa các âm tiết. Ví dụ: pháp- luật, duy- vật, chiến- hạm Có ý kiến cho rằng các tác giả sử dụng
dấu nối giữa các âm tiết của một từ nhằm phân biệt chúng là những từ ngữ mới du nhập vào tiếng Việt. Ý
kiến trên còn phải nghiên cứu thêm. Tuy vậy, chúng tôi tạm lấy đó làm một tiêu chí trong khi thu thập tư
liệu.
5.2.3. Ngoài ra, chúng tôi còn thống kê được 1356 đơn vị từ ngữ (phần lớn là từ Hán- Việt) ở mục
"Giới thiệu từ vựng " viết bằng ba thứ tiếng (quốc ngữ, chữ Nho, tiếng Pháp) trong phần phụ trương của
"Nam phong tạp chí".
5.3. Việc xử lý tƣ liệu
Sau khi đối chiếu các từ ngữ đã thống kê được với hai bộ từ điển xuất bản cuối thế kỷ XIX: "Từ
điển Pháp-Việt" của J.F.M. Genibrel (Sài Gòn 1898) và hai tập "Đại Nam quốc âm tự vị" (Sài Gòn 1895,
1896) khá dày dặn của Huình Tịnh Paulus Của, chúng tôi thấy khoảng 3000 đơn vị từ ngữ không có trong
hai bộ từ điển nói trên. Chúng tôi nghĩ rằng có thể không phải tất cả 3000 từ ngữ đó đều là từ ngữ mới

xuất hiện.Bởi lẽ, có thể có những từ ngữ đã xuất hiện từ trước nhưng vì một lý do nào đó, chúng không
được ghi vào từ điển. Tuy vậy, chúng tôi vẫn thấy có cơ sở khách quan để dựa trên 3000 đơn vị từ ngữ đó
làm tư liệu cho việc nghiên cứu.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận án gồm 4 chương, được bố cục như sau:
- Chƣơng 1 : Cơ sở lý luận về sự phát triển của từ vựng và hướng nghiên cứu.
- Chƣơng 2 : Bức tranh chung về sự phát triển của từ vựng tiếng Việt 30 năm đầu thế kỷ XX.
- Chƣơng 3 : Phát triển từ vựng giai đoạn 1900- 1930 bằng con đường cấu tạo từ và phát triển
nghĩa.
- Chương 4 : Phát triển từ vựng giai đoạn 1900- 1930 bằng con đường vay mượn từ.

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TỪ VỰNG VÀ HƢỚNG NGHIÊN
CỨU
1.1.Một số quan niệm về các nhân tố tác động đến sự phát triển của từ vựng.
1.1.1.Những nhân tố bên ngoài ngôn ngữ
Đó là những nhân tố thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội: Sự biến động về lịch sử, chính trị,
văn hoá chiến tranh xâm lược, các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, công cuộc xây dựng xã
hội Tất thảy đều tác động đến sự phát triển của từ vựng và được phản ánh trong hệ thống từ vựng.
Giũa các dân tộc có sự giao lưu về các mặt: kinh tế, văn hoá, thương mại , dân tộc nào có nền văn
hoá, kinh tế, khoa học kỹ thuật phát triển hơn thì ngôn ngữ của dân tộc đó sẽ tạo ra ảnh hưởng đối với
ngôn ngữ của dân tộc khác.
Việc tiếp xúc giữa các ngôn ngữ cũng dẫn đến hệ quả là hệ thống từ vựng ngữ- nghĩa luôn bị ảnh
hưởng nhiều nhất. Bởi lẽ, từ là yếu tố linh hoạt nhất và có khả năng biến đổi mạnh nhất.
1.1.2 Những nhân tố bên trong ngôn ngữ
Nhân tố bên trong ngôn ngữ chính là những biến đổi trong chiều sâu của hệ thống từ vựng- ngữ
nghĩa: biến đổi về số lượng, về chất lượng từ, về cấu tạo từ, về ý nghĩa của từ Là sự bổ sung những
mặt còn thiếu của hệ thống từ vựng - ngữ nghĩa đó.
1.1.2.1. Sự biến đổi về số lượng.
Những khái niệm mới, những sự vật mới xuất hiện, đòi hỏi phải có thêm lượng từ ngữ mới. Quá

trình tăng số lượng từ luôn luôn vượt hơn quá trình giảm.
1.1.2.2. Sự biến đổi về chất lượng.
Là sự biến đổi trong chiều sâu của từ vựng, làm nảy sinh các từ đa nghĩa, từ đồng âm, từ đồng
nghĩa, xuất hiện các mô hình cấu tạo từ ngữ mới
a. Cùng với sự phát triển của tư duy, nghĩa của từ được mở rộng. Chính những nghĩa mở rộng đó
đã giúp cho con người truyền đạt được những ý nghĩ và tình cảm của mình một cách tinh tế và đầy đủ
hơn.
b. Sự phát triển mạnh về số lượng từ ngữ làm cho hiện tượng đồng âm trong ngôn ngữ tăng lên.
Hiện tượng đồng âm thường xảy ra trong phạm vi các từ có cấu trúc ngữ âm đơn giản.
c. Sự phát triển từ vựng về lượng cũng làm tăng thêm các từ đồng nghĩa. Trong hiện tượng đồng
nghĩa, có những từ đồng nghĩa hoàn toàn nhưng việc chúng có thể thay thế được cho nhau hay không là
tuỳ thuộc vào sắc thái tu từ mà người sử dụng muốn biểu thị.
d. Sự phát triển của từ vựng làm nảy sinh các mô hình cấu tạo từ ngữ mới. Khả năng tạo âm của
ngôn ngữ cũng chỉ có giới hạn. Do vậy, con người đã tận dụng "những chất liệu có sẵn" trong ngôn ngữ
để cấu tạo nên những từ ngữ mang ý nghĩa rộng hơn, biểu thị nhiều khái niệm hơn.
1.2. Một số quan niệm về con đƣờng phát triển của từ vựng.
Theo các nhà từ vựng học thì từ vựng của một ngôn ngữ thường phát triển bằng những con
đường cơ bản sau:
1.2.1.Phát triển bằng con đường vay mượn từ.
Budagov đã khẳng định rằng trong quá trình tiếp xúc giữa các ngôn ngữ, không có một ngôn
ngữ nào không bị xâm nhập bởi các từ ngoại lai, mặc dù mức độ xâm nhập không giống nhau ở mỗi
bộ phận của ngôn ngữ. Bộ phận từ vựng thường bị xâm nhập nhiều nhất bởi vì từ là yếu tố linh hoạt
nhất, nhạy cảm nhất và có khả năng di chuyển nhất
1.2.2.Phát triển bằng con đường cấu tạo từ và phát triển nghĩa
1.2.2.1. Phát triển từ vựng bằng con đường cấu tạo từ.
Bàn về cấu tạo từ, các nhà ngôn ngữ học Việt Nam thường đề cập đến một số phương thức cấu
tạo cơ bản, trong đó phương thức ghép chiếm ưu thế hơn cả. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là các phương
thức cấu tạo từ không hiện diện và hoạt động đều trong mọi ngôn ngữ. Nếu như trong ngôn ngữ Ấn -
Âu, phương thức phụ gia có hiệu lực mạnh hơn thì trong tiếng Việt lại chủ yếu dựa vào phương thức
ghép.

1.2.2.2. Phát triển từ vựng bằng con đường phát triển ý nghĩa mới của từ.
Phát triển thêm nghĩa mới của từ là sự cần yếu trong việc làm phong phú thêm khả năng biểu đạt
của ngôn ngữ. Phát triển ý nghĩa mới của từ là sự phát triển tinh tế bên trong ngôn ngữ, mang đậm tính
dân tộc. Đồng thời, còn là biểu hiện của sự phát triển tư duy và sáng tạo trong giao tiếp của các chủ nhân
sử dụng ngôn ngữ đó.
1.2.3. Phát triển từ vựng bằng con đường toàn dân hoá từ ngữ tiếng địa phương.
Đây là một quá trình diễn ra lâu dài và phức tạp. Từ những cứ liệu đã thống kê được, chúng tôi
thấy con đường toàn dân hoá từ ngữ tiếng địa phương chưa phải là con đường chiếm ưu thế trong phát
triển từ vựng tiếng Việt, đặc biệt là trong giai đoạn 30 năm đầu thế kỷ XX.
Từ những điều vừa trình bày trên, trong luận án này chúng tôi chỉ tập trung phân tích, miêu tả hai
con đường cơ bản nhất đối với sự phát triển của từ vựng tiếng Việt giai đoạn từ 1900- 1930 là:
- Phát triển từ vựng bằng con đường cấu tạo từ và phát triển nghĩa.
- Phát triển từ vựng bằng con đường vay mượn từ.
1.3.Hƣớng nghiên cứu của luận án.
Trong khi thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ áp dụng cả hai phương pháp nghiên cứu: đồng đại và
lịch đại. Trong chương 2, cả phương pháp đồng đại và lịch đại sẽ được vận dụng một cách triệt để, nhằm
chỉ ra những biến đổi của từ ngữ về mặt số lượng, chất lượng và nguồn gốc. Đồng thời làm rõ diện mạo
của từ vựng giai đoạn này.
Trong chương 3 và chương 4 của luận án, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch đại là
chủ yếu. Dưới cái nhìn của ngôn ngữ học lịch đại (hồi quan và tiền quan), ý nghĩa của các từ ngữ mới sẽ
được so sánh với những từ ngữ xuất hiện trước và sau giai đoạn được nghiên cứu để xét xem vào giai
đoạn từ 1900- 1930, ý nghĩa của chúng có gì đạt chuẩn, những gì còn hạn chế, từ nào còn tồn tại, từ nào
đã bị rơi rụng khỏi hệ thống từ vựng.
Tóm lại, trong luận án này, các từ ngữ mới xuất hiện sẽ được nghiên cứu theo cả hai phương pháp;
trong đó, phương pháp lịch đại là cơ bản.

Chƣơng 2
BỨC TRANH CHUNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT 30 NĂM ĐẦU THẾ
KỶ XX
2.1. Vài nét về bối cảnh xã hội- ngôn ngữ giai đoạn 1900- 1930

2.1.1. Bối cảnh xã hội
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa ở Việt
Nam, làm cho nền kinh tế của Việt Nam có nhiều thay đổi. Quan hệ sản xuất phong kiến bị phá vỡ, quan
hệ sản xuất mới xuất hiện với sự hình thành các giai cấp khác trước.
Sự du nhập các luồng tư tưởng mới thông qua Tân thư, Tân văn vào Việt Nam lúc đó là một tất
yếu lịch sử, góp phần khai sáng, thức tỉnh đông đảo tầng lớp thanh niên Việt Nam đang ôm ấp khát vọng
cháy bỏng là duy tân để cứu nước. Năm 1905, Phan Bội Châu thành lập Hội Duy tân, hội đã cử người
sang Tàu, sang Nhật Bản để học tập những cái mới, cái hay về phục vụ đất nước.
Con đường dựa theo Tây Âu, theo Nhật Bản với mục đích cứu nước của Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh cuối cùng cũng bị bế tắc, không lối thoát.
Trăn trở với vận nước, với sự nghiệp cứu nước không thành của các bậc tiền bối, Nguyễn Ái Quốc
đã ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Từ năm 1921, Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác- Lê nin về
nước, chuẩn bị tiền đề chính trị tư tưởng, tiến tới thành lập Đảng cộng sản ở Việt Nam. Cũng từ đó, người
dân Việt Nam yêu nước bắt đầu hướng tới Nguyễn Ái Quốc, xem Người như vị cứu tinh của đất nước
Việt Nam đang trong cảnh lầm than, đau khổ.
2.1.2. Bối cảnh ngôn ngữ.
Trong phần này, luận án sẽ đề cập tới hai tác nhân quan trọng đối với sự phát triển của từ vựng giai
đoạn 1900- 1930 là sự phát triển của báo chí quốc ngữ và văn học quốc ngữ.
2.1.2.1. Sự phát triển của báo chí quốc ngữ
Sau khi thiết lập xong bộ máy cai trị, thực dân Pháp nghĩ đến việc lợi dụng một thứ vũ khí mới, báo
chí, nhất là báo chí quốc ngữ với dụng ý chính là để chinh phục tinh thần của dân chúng bản địa.
Cuối thế kỷ XIX, chỉ có vài tờ báo quốc ngữ ra đời như "Gia Định báo" (1865), "Phan Yên báo"
(1868) Đầu thế kỷ XX, báo chí quốc ngữ đã phát triển mạnh. Hàng loạt tờ báo đã được xuất bản: "Nông
cổ mín đàm" (1901), "Lục tỉnh tân văn" (1907), "Đông Dương tạp chí" (1913), "Nam Phong" (1917)
Theo thống kê của chúng tôi, giai đoạn 1900- 1930 đã có 74 đầu báo quốc ngữ. Mặc dù có những tờ báo
chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn nhưng sự phát triển của báo chí quốc ngữ những năm đầu thế kỷ đã là
mảnh đất mới cho tiếng Việt và từ vựng tiếng Việt phát triển.
2.1.2.2. Sự phát triển của nền văn học quốc ngữ
Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của báo chí quốc ngữ là mảnh ất mới đầy tiềm năng cho văn học
quốc ngữ phát triển. Nền văn học quốc ngữ đã chiếm được ưu thế trên văn đàn và giành được đông đảo

đọc giả thành thị. Các thể loại văn học xuất hiện trên báo chí quốc ngữ ngày càng phong phú. Đó là thơ ca
của nhóm Đông kinh nghĩa thục, các truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Hồ Biểu Chánh ,
các vở kịch nói của Vũ Đình Long, Nguyễn Hữu Kim, Nam Xương , tiểu thuyết " Tố Tâm" của Hoàng
Ngọc Phách (1925).
Một loại hình văn bản quốc ngữ khác cũng ra đời vào thập kỷ XX là cuốn "Đường kách mệnh" của
Nguyễn Ái Quốc (1927). Cuốn sách gợi mở đến nhiều vấn đề lý luận cách mạng. Lần đầu tiên lý luận chủ
nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng cách mạng tiên tiến được giới thiệu vào nước ta. "Đường kách mệnh" ra
đời vừa chỉ đường dẫn lối cho cách mạng Việt Nam vừa là tác phẩm phổ biến nhiều từ ngữ mới, khái
niệm mới thuộc lĩnh vực chính trị- xã hội mà trước đó chưa có.
2.2. Bức tranh chung về sự phát triển của từ vụng thể hiện trên các văn bản quốc ngữ giai
đoạn 1900-1930.
Để có được bức tranh chung về sự phát triển của từ vựng thể hiện trên các văn bản quốc ngữ, chúng
tôi tạm chia.giai đoạn 1900- 1930 làm ba tiểu đoạn: "tiểu đoạn một từ 1900-1910; tiểu đoạn hai từ 1911-
1920 và tiểu đoạn ba từ 1921-1930. Trong mỗi tiểu đoạn, luận án chọn hai (hoặc ba) loại văn bản quốc
ngữ tiêu biểu để khảo sát.
2.2.1. Các văn bản được chọn làm tư liệu và phương pháp tập hợp tư liệu
2.2.1.1. Các văn bản được chọn làm tư liệu.
a, Các văn bản cuối thế kỷ XIX.
Một số số của tờ "Phan Yên báo" xuất bản vào những năm 70 của thế kỷ XIX và tiểu thuyết "Thầy
Lazarô Phiền" của Nguyễn Trọng Quản.
b, Các văn bản tiểu đoạn 1900- 1910.
Báo "Nông cổ mín đàm", "Đăng cổ tùng báo" và các tác phẩm văn, thơ của nhóm Đông Kinh
nghĩa thục (1907).
c, Các văn bản tiểu đoạn 1911- 1920.
Đông Dương tạp chí" (1913), các số báo của "Nam Phong tạp chí" (1918) và "Việt Nam phong
tục" của Phan Kế Bính.
d, Các văn bản tiểu đoạn 1921- 1930.
"Nam Phong tạp chí" (Xuất bản 1921- 1922), tiểu thuyết "Tố Tâm" (1925) và "Đường kách mệnh"
(1927).
2.2.1.2. Phương pháp tập hợp tư liệu.

Trong mỗi loại văn bản, chúng tôi chọn 20 trang bất kỳ để khảo sát. Phương pháp được sử dụng ở
đây vẫn là phương pháp thống kê. Việc thống kê được thực hiện một cách chi tiết, tập trung khảo sát sự
hiện diện của các thực từ về nguồn gốc (Việt, Hán- Việt, Ấn- Ấu), về cấu tạo (đơn tiết, đa tiết) và về chất
lượng của từ ngữ.
2.2.2. Khái quát về sự phát triển số lượng và chất lượng của từ vựng ba mươi năm đầu thế kỷ
XX.
2.2.2.1. Sự phát triển về số lượng.
Phát triển về lượng là sự gia tăng vốn từ ngữ mới nhờ hai con đường cơ bản: vay mượn và cấu tạo
từ.
a.Phát triểnsố lượng từ bằng con đường vay mượn từ.
Kết qủa khảo sát về nguồn gốc của từ ngữ trên các văn bản trong mỗi tiểu đoạn cho thấy, theo thời gian,
số lượng từ ngữ thuần Việt giảm dần. Ngược lại, số lượng từ ngữ mượn Hán và từ ngữ mượn Pháp, đặc
biệt là từ ngữ mượn Hán, hiện diện trên các báo ngày càng tăng.
Bảng 1. Sự hiện diện của từ ngữ trong các tiểu đoạn (vềnguồn gốc)
Thời gian
Số từ
khảo
sát
Nguồn gốc
Thuần Việt
Hán - Việt
Ấn - Âu
S.lượng
%
S.lượng
%
S.lượng
%
Cuối thế
kỷ 19

4098
3516
84,38
554
13,29
4
0,09
1901 đến
1910
6034
4076
67,55
1922
31,85
12
0,2
1911 đến
1920
7662
4513
58,66
3107
40,39
19
0,24
1921 đến
1930
6721
3171
46,93

3494
51,71
21
0,31
Qua khảo sát tư liệu, chúng tôi thấy ở các văn bản đã xuất hiện nhiều từ ngữ mượn Hán thuộc lĩnh
vực chính trị- xã hội mà trước đó chưa hề có, chẳng hạn: chính phủ bảo hộ, viện tư vấn, toà liêm phóng,
hội viên, bảo hộ, trường cao học
Đáng chú ý là bộ phận từ ngữ chính trị - xã hội xuất hiện trong những năm đầu thế kỷ có thể phân
thành hai nhánh cơ bản: nhánh thứ nhất là các từ ngữ chỉ tên các tổ chức, cơ quan thiết chế xã hội-chính
trị của chế độ thực dân nửa phong kiến vừa lập nên ở Việt Nam, thể hiện mẫu hình tổ chức xã hội, chính
sách " chia để trị ", "dùng người Việt trị người Việt" của thực dân Pháp. Tiêu biểu cho nhánh này có các
từ ngữ: toàn quyền xứ An nam thuộc Pháp, chính phủ bảo hộ, trực trị, tự trị Nhánh thứ hai là các từ ngữ
chỉ những quan niệm, thái độ mong muốn canh tân xứ sở của các trí thức tiến bộ. Nhánh này có các từ
ngữ như: đông du, duy tân, văn minh, độc lập, tự do, dân quyền,
b. Phát triển số lượng từ ngữ bằng con đường cấu tạo từ.
Ba mươi năm đầu thế kỷ XX, con đường cấu tạo từ cũng đã tạo nên nhiều từ ngữ mới. Theo thời
gian, các từ ngữ đa âm tiết hiện diện ngày càng nhiều trên các văn bản quốc ngữ.
Bảng 2. Sự hiện diện của các từ ngữ trong mỗi tiểu đoạn (về cấu tạo).
Thời gian
Số từ
khảo
sát
Từ đơn tiết
Từ hai âm
tiết
3 âm tiết trở
lên
Số
lượng
%

Số
lượng
%
Số
lượng
%
Cuối thế
kỷ 19
4098
3592
86,2
495
11,88
11
0,26
1901 đến
1910
6034
4042
64,67
1784
28,54
208
3,32
1911 đến
1920
7662
4448
57,82
2685

34,9
529
6,87
1921 đến
1930
6721
3264
45,69
2816
39,42
641
9,97
Ngoài những từ ngữ Hán - Việt biểu thị các khái niệm thuộc lĩnh vực chính trị - xã hội, trên các văn
bản còn xuất hiện hàng loạt từ ngữ thuần Việt từ ba âm tiết trở lên do người Việt cấu tạo để biểu thị các
khái niệm hoặc sự vật thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật: dây đánh thăng bằng, đường thẳng đứng thước
thợ, đường ngang hàng (song song), máy nước đá,
2.2.2.2. Phát triển về chất lượng của từ ngữ.
Sự phát triển về chất lượng của từ ngữ được thể hiện ở khả năng chuyển tải ý nghĩa mà chúng
đảm nhiệm. Từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, tri thức của người dân Việt Nam về các lĩnh vực khoa học
chưa cao. Do vậy, trên các văn bản quốc ngữ, các từ ngữ thuộc lĩnh vực khoa học rất ít. Đầu thế kỷ XX,
từ vựng tiếng Việt không những phát triển mạnh về số lượng mà chất lượng cũng được nâng lên. Tiếng
Việt đã được bổ sung hàng loạt từ ngữ mới biểu thị các hiện tượng, các khái niệm có tính khái quát, trừu
tượng thuộc các lĩnh vực khác nhau trong đời sống.
- Lĩnh vực chính trị- xã hội: đấu tranh chính trị, giai cấp tranh đấu, tư bản giai cấp, chủ nghĩa xã
hội, chính phủ hoạt đầu
- Lĩnh vực kinh tế: doanh nghiệp, luận chứng kinh tế, chế độ lĩnh canh,kinh tế học cách mạng
Những con số mà chúng tôi đưa ra để so sánh sự hiện diện của từ ngữ về nguồn gốc, về cấu tạo
cho thấy: ở mỗi tiểu đoạn, từ ngữ thuần Việt và các từ đơn tiết trên các văn bản đã giảm dần. Trái lại, từ
ngữ vay mượn và từ ngữ đa âm tiết ngày càng tăng lên. Điều đó càng góp phần khẳng định: vay mượn từ
và cấu tạo từ ngữ là hai con đường vô cùng quan trọng trong sự phát triển của từ vựng của tiếng Việt giai

đoạn 1900- 1930.

Chƣơng 3
PHÁT TRIỂN TỪ VỰNG GIAI ĐOẠN 1900- 1930
BẰNG CON ĐƢỜNG CẤU TẠO TỪ VÀ PHÁT TRIỂN NGHĨA
3.1. Phát triển từ vựng bằng con đƣờng cấu tạo từ.
3.1.1. Các yếu tố tham gia cấu tạo từ.
3.1.1.1. Quan niệm về yếu tố cấu tạo từ tiếng Việt
Số đông các nhà nghiên cứu cho rằng yếu tố cấu tạo từ tiếng Việt là hình vị. Một số nhà nghiên cứu
có xu hướng tìm khái niệm khác để thay thế. Đó là những khái niệm: tiếng (Nguyễn Tài Cẩn, 1975;
Nguyễn Thiện Giáp, 1984). nguyên vị (Hồ -Lê, 1976), từ tố (Nguyễn Văn Tu, 1976) Trong luận án này,
chúng tôi dùng khái niệm thành tố để chỉ các yếu tố cấu tạo từ. Thành tố ở đây có thể trùng với hình vị
(đảng, nhà, cửa ) hoặc có thể lớn hơn hình vị (cộng sản, chính phủ )
3.1.1.2. Các thành tố tham gia cấu tạo từ ngữ mới giai đoạn 1900 - 1930.
Có ba loại thành tố:
a, Các thành tố thuần Việt.
b, Các thành tố Hán- Việt.
c, Các thành tố Ấn -Âu ( Pháp ).
3.1.2. Quan niệm về phương thức ghép trong tiếng Việt
Các nhà Việt ngữ đều thống nhất rằng ghép là phương thức có sức sản sinh mạnh nhất trong các
phương thức cấu tạo từ tiếng Việt. Do vậy, trong các công trình nghiên cứu, phương thức ghép đã được
các tác giả miêu tả khá cụ thể.
3.1.3. Quan niệm về phân loại từ ghép trong tiếng Việt.
Trong phần này, chúng tôi chỉ đưa ra quan niệm và cách phân loại từ ghép của một số tác giả như:
Nguyễn Tài Cẩn, Đỗ Hữu Châu, Hoàng Văn Hành Từ đó có thể chọn cho mình một hướng phân tích,
miêu tả một các hợp lý các mô hình của phương thức ghép trong việc cấu tạo từ ngữ mới giai đoạn 1900-
1930.
3.1.4. Các mô hình cấu tạo từ ngữ mới tiếng Việt ba mươi năm đầu thế kỷ XX.
Dựa vào mối quan hệ ngữ nghĩa của các thành tố cấu tạo, chúng tôi chia mô hình cấu tạo từ
ghép thành hai loại lớn: mô hình ghép hội nghĩa và mô hình ghép phân nghĩa. Trong mỗi mô hình

ghép loại lớn có thể bao gồm một số mô hình ghép nhỏ khác.
3.1.4.1. Các mô hình cấu tạo từ ghép hội nghĩa.
a, Mô hình ghép hai thành tố cùng hoặc gần nghĩa.
Mô hình ghép kiểu này cấu tạo trên cơ sở lược bỏ những nét nghĩa riêng biệt của các thành tố
tham gia để cấu tạo nên các đơn vị từ ngữ có ý nghĩa khái quát hơn. Mô hình ghép này có thể khái
quát như sau: A+B=AB. Mô hình này đã tạo nên các từ ngữ: ca hát, dẫn giải, đóng góp, gian ác, mưu
kế, nảy nở, ngắm vuốt, nhường nhịn, san sẻ
b, Mô hình ghép nhờ tổ chức lại nghĩa của các thành tố theo quy tắc hội, biểu trưng tuyển chọn
Nếu coi thành tố thứ nhất là A, thành tố thứ hai là B. mô hình ghép kiểu này có thể được khái
quát như sau:
b.1. A+B=AB' (A: yếu tố có nghĩa được tuyển chọn, B': yếu tố mờ nghĩa). Mô hình này có các
từ ngữ: bấu víu, giam giữ, dẫn dắt, đạn dược, thi cử, kèm cặp, thăm nom, đi đứng
b.2. A+B=A'B (A': yếu tố mờ nghĩa, B: yếu tố có nghĩa được tuyển chọn). Mô hình này có các
từ ngữ: bao chiếm, uốn nắn, ca hát, cất giấu, thăm dò, tiêm nhiễm, tu luyện
c, Mô hình cấu tạo từ ghép hội nghĩa do tổ chức lại nghĩa của hai thành tố theo quy tắc hội biểu
trưng chuyển tiếp dưới hình thức ẩn dụ.
Mô hình này có thể khái quát: A+B=A'B'.
Mô hình trên đã tạo nên các từ ngữ: bóc lột, chấm mút, gang thép, cay đắng, gió trăng, măng
sữa, nông nổi, sắt đá, sương sống
3.1.4.2. Các mô hình cấu tạo từ ghép phân nghĩa
Đây là mô hình ghép chiếm ưu thế nhất trong các mô hình ghép giai đoạn 1900- 1930. Từ ghép
phân nghĩa được cấu tạo theo một số mô hình cơ bản sau:
a, Thành tố trung tâm ghép với thành tố phân nghĩa:
a.1. Chỉ chức năng, phương thức hoạt động của sự vật: bàn là, xe điện, xe bò, xe tay, xe lửa, xe
hơi, bàn giấy, tầu chiến, súng phóng lôi, tàu ngầm, lính cách mệnh
a.2. Chỉ chất liệu của sự vật: giấy dầu, giấy phèn, thiết giáp (áo giáp sắt), tiền sắt, ô tô cao su (ô
tô có bánh cao su), áo tơi cao su
a.3. Chỉ tính chất của hoạt động: hát soan, hát quan họ, hát cô đầu
a.4. Biểu thị tên gọi các đảng phái, tổ chức xã hội: đảng giáo sư, bộ cải lương nghề cày cấy, bộ
người cày thuê, bộ phụ nữ, bộ người cầy rẽ ,

a.5. Biểu thị các khái niệm, hiện tượng, sự vật thuộc các lĩnh vực khoa học: dây đánh thăng bằng,
ống sinh điện, gương tròn hình quả cầu, dây thu lôi, đường thẳng đứng thước thợ, hình ba giác (tam
giác). b. Thành tố trung tâm ghép với thành tố phân nghĩa chỉ nhóm nghề nghiệp.
b.1. Mô hình: “người + thành tố khác”: người cộng sản, người cách mệnh, người đấu tranh, người
cầm đầu, người cầm máy,
b.2. Mô hình: “thợ + thành tố khác”: thợ tiện, thợ điện, thợ thuyền, thợ máy, thợ ảnh, thợ ô tô,
b.3. Mô hình: “thầy + thành tố khác”: thầy kiện, thầy dùi, thầy cãi, thầy thuốc, thầy cai, thầy ký,
thầy phán,
b.4. Mô hình: “nhà + thành tố khác”: nhà báo, nhà buôn, nhà phê bình, nhà văn, nhà cáh mệnh,
c. Ngoài những mô hình đã trình bầy trên, còn có những mô hình ghép mà một (hoặc cả hai) thành
tố là thành tố Hán - Việt, một (hoặc cả hai) là tành tố không tồn tại và không hoạt động độc lập trong
tiếng Việt, như: bất, tân, vô, phi, viên, đại, tiểu, thuỷ, Dưới đây, chúng tôi chỉ dẫn một vài mô hình làm
ví dụ:
c.1. Mô hình: “tân + thành tố khác”.
Mô hình này có các từ ngữ: tân thư, tân văn, tân học giới, tân thế giới, duy tân, tân binh, tân dược
c.2. Mô hình: “viên + thành tố khác”: đảng viên, hội viên, nghị viên, phái viên, sinh viên, uỷ viên,
nhân viên,
c.3. Mô hình: “chiến + thành tố khác”: chiến trường, chiến mã, chiến thư, chiến địa, chiến hạm,
chiến thuyền, chiến phí,
c.4. Mô hình: “thuỷ + thành tố khác”: thuỷ binh, thuỷ lôi, thuỷ sản, thuỷ chiến, thuỷ quân, thuỷ
tộc,
d. Mô hình ghép một yếu tố Ấn-Âu với một yếu tố khác.
Có thể do khác về loại hình, các thành tố Ấn-Âu rất hạn chế trong việc kết hợp với các thành tố
Việt, hoặc Hán-Việt. Chúng tôi chỉ thống kê được một số ít từ có thành tố Ấn- Âu tham gia cấu tạo: đèn
pha, canh gác, bom đạn, nhà ga, xe ô tô, nồi súp de, tiền xu
3.1.5. Một vài nhận xét về phát triển từ vựng bằng con đường cấu tạo từ ngngữ mới giai đoạn
1900 - 1930.
3.1.5.1. Đặc điểm của từ ngữ cấu tạo theo mô hình ghép hội nghĩa.
- Nếu hai thành tố là danh từ thì từ ghép có thể là danh từ có ý nghĩa tổng hợp. Ví dụ: đạn dược,
súng ống, nhưng cũng có thể là tính từ có ý nghĩa biểu thị tính chất trừu tượng hơn: gió trăng, son phấn,

gang thép, Nếu hai thành tố là động từ (hoặc tính từ) thì từ ghép sẽ là động từ ( hoặc tính từ ) có ý nghĩa
biểu thị những hành động, tính chất trừu tượng: cay đắng, ngọt bùi, nâng đỡ, nẩy nở,
3.1.5.2. Đặc điểm từ ngữ cấu tạo theo mô hình ghép phân nghĩa
a, Nếu từ ghép được cấu tạo bởi hai thành tố thuần Việt thì thành tố thứ nhất luôn là thành tố trung
tâm, biểu thị ý nghĩa phạm trù, còn thành tố thứ hai biểu thị ý nghĩa khu biệt. Nếu một thành tố Việt ghép
với một thành tố Hán- Việt hoặc Ấn- Âu thì thành tố Việt thường là thành tố thứ nhất, biểu thị ý nghĩa
phạm trù, còn thành tố Hán- Việt (hoặc Ấn- Âu) thường là thành tố thứ hai, biểu thị ý nghĩa khu biệt.: Tàu
thuỷ, tàu chiến, xe điện, xe ô tô, đèn pha
b, Nếu từ ghép được cấu tạo bởi hai thành tố Hán- Việt mà một (hoặc cả hai) thành tố không tồn tại
độc lập thì thành tố trung tâm biểu thị ý nghĩa phạm trù thường đứng sau theo trật tự cú pháp tiếng Hán.
Ví dụ: tân thư, tân binh, chiến thư, thuỷ quân, đại học, cao học
3.2. Làm giàu từ vựng bằng con đƣờng phát triển nghĩa.
3.2.1. Quan niệm về phát triển nghĩa
3.2.1.1. Quan niệm của các tác giả đi trước.
Hầu hết các nhà từ vựng học đều đồng ý rằng trong tiếng Việt, nghĩa của từ được phát triển bằng
hai con đường cơ bản là: a) mở rộng và thu hẹp nghĩa; b) chuyển đổi tên gọi bằng ẩn dụ và hoán dụ.
3.2.1.2. Quan niệm của tác giả luận án.
Trong luận án chúng tôi quan niệm quá trình phát triển nghĩa của từ tiếng Việt gồm hai con đường
cơ bản là: a). Thuật ngữ hoá từ thông thường và b). Mở rộng nghĩa bằng phương thức ẩn dụ và hoán dụ.
Trong phần này luận án chỉ phân tích và miêu tả những hiện tượng chuyển nghĩa dưới góc độ từ vựng
học.
3.2.2. Kết quả khảo sát sự phát triển nghĩa của từ giai đoạn 1900- 1930.
3.2.2.1. Thuật ngữ hoá từ thông thường.
Thuật ngữ hoá từ thông thường là dùng phép chuyển di ngữ nghĩa của từ để tạo các thuật ngữ. Quá
trình này thường gặp trong khi xây dựng thuật ngữ cho các ngành chuyên môn nào đó. Ba mươi năm đầu
thế kỷ XX, các lĩnh vực khoa học ở nước ta chưa phát triển, vấn đề xây dựng hệ thống thuật ngữ khoa học
chưa được quan tâm nhiều. Do vậy, các từ thông thường được thuật ngữ hoá chưa nhiều.
Ví dụ: nước, đá, dầu mỏ, đường thẳng, toán pháp
3.2.2.2. Mở rộng ý nghĩa của từ bằng phương thức ẩn dụ và hoán dụ
Nếu coi A có nghĩa ban đầu là C để định danh cho sự vật hoặc hiện tượng B và C’ là kết quả của

quá trình chuyển nghĩa để định danh cho sự vật hoặc hiện tượng B’ thì quá trình chuyển nghĩa có thể
được biểu thị như sau:
Từ A : vật, hiện tượng B  nghĩa C
vật, hiện tượng B’  nghĩa C’
Ba mươi năm đầu thế kỷ XX từ vựng tiếng Việt đã mở rộng ý nghĩa của từ dựa trên một số mô hình
cơ bản sau.
a, Ẩn dụ
a.1. Dựa trên sự tương đồng về hình thức: loại ẩn dụ này có các từ ngữ: bướm, đuôi gà, đuôi nheo,
đuôi sam, trói tôm, vòi rồng, mỏ vịt,
a.2. Dựa trên sự tương đồng về chức năng: loại ẩn dụ này có các từ ngữ: đèn hoa kỳ, đèn pha, đèn
điện, bàn đạp,
a.3. Dựa trên sự giống nhau về màu sắc: loại ẩn dụ này có các từ ngữ: màu tro, màu da cam, màu
rêu, màu cánh gián, màu cánh sen,
a.4. Dựa trên sự tương đồng về tính chất: loại ẩn dụ này có các từ: tươi, mát, ngọt ,cay, bẩn, nhơ,
đắng, đỏ đen,
a.5. Dựa trên sự giống nhau về hành động: loại ẩn dụ này có các từ: nắm, bắt, đánh, ăn, thu, thu
hoạch, bay lượn,
b. Hoán dụ.
b.1. Lấy bộ phận thay cho toàn thể.
Chân: - bộ phận dưới của cơ thể.
- địa vị. Một người tham gia vào một tổ chức, một trò chơi.
b.2. Lấy cái được chứ đựng thay cho cái chứa đựng.
Tủ chè: thứ tủ dài và thấp, dùng đựng khay chè và các đồ quý.
3.2.2.3. Một vài nhận xét về sự phát triển nghĩa.
Trong số các từ phát triển thêm nghĩa mới, số lượng nghĩa mới được tạo nên bởi phương thức
thuật ngữ hoá từ thông thường chỉ có khoảng 5%, số lượng nghĩa được tạo nên bởi phương thức ẩn dụ và
hoán dụ chiếm 95%. Về nguồn gốc, từ thuần Việt chiếm 80%, từ Hán - Việt chiếm 20%, không có hiện
tượng chuyển nghĩa ở từ Ấn- Âu. Về từ loại, động từ có khả năng chuyển nghĩa mạnh nhất (40%), sau đó
đến danh từ (32%), tính từ ít nhất (28%).


Chƣơng 4
PHÁT TRIỂN TỪ VỰNG GIAI ĐOẠN 1900- 1930 BẰNG CON ĐƢỜNG VAY MƢỢN TỪ.
Giai đoạn 1900- 1930, từ vựng tiếng Việt vay mượn từ chủ yếu từ tiếng Hán và tiếng Pháp.
4.1. Từ gốc Hán đƣợc vay mƣợn vào tiếng Việt giai đoạn 1900- 1930
4.1.1. Điều kiện dẫn đến sự vay mượn từ gốc Hán vào tiếng Việt.
Trong nhiều thế kỷ, chữ Hán đã được coi là văn tự chính thống của nước Việt, được đem giảng dạy
ở nhà trường, được dùng vào khoa cử, công tác hành chính, Do vậy, việc vay mượn từ ngữ gốc Hán vào
tiếng Việt là điều tất yếu.
4.1.2. Các đặc điểm của lớp từ mượn Hán giai đoạn 1900- 1930
4.1.2.1. Đặc điểm về số lượng.
Trong số từ ngữ mới mà chúng tôi thống kê được, từ ngữ mượn Hán chiếm khoảng 86,9%, từ
thuần Việt khoảng 9,8%, từ ngữ mượn Pháp chỉ khoảng 3,3%.
4.1.2.2. Một số đặc điểm về nghĩa.
Sau khi so sánh ý nghĩa của lớp từ ngữ Hán - Việt xuất hiện từ 1900- 1930 với ý nghĩa của chúng
hiện nay (“từ điển tiếng Việt”, 1998), chúng tôi thấy:
a. Đến nay, khoảng 81% từ ngữ mượn Hán vẫn giữ nguyên ý nghĩa như khi mới xuất hiện. Chẳng
hạn: Bình đẳng, cải cách, chính phủ, hiến pháp, pháo, triết học
b. Khoảng 3% từ ngữ mà ý nghĩa của chúng trong cách hiểu của người Việt hiện nay hoàn toàn
khác với ý nghĩa chúng vốn có vào thời đoạn được khảo sát.
Chẳng hạn,từ đàn điếm trước đây được hiểu là: chỗ các nước hội đồng với nhau. Ví dụ: " Thành
Genève là chỗ các nước đàn điếm với nhau". (" Việt Nam tự điển", 1931).
c. Khoảng 9% từ ngữ mượn Hán giai đoạn 1900- 1930 còn mang nghĩa rất sơ lược. Cách giải nghĩa
còn dài dòng, chưa chính xác nhất là các từ ngữ thuộc lĩnh vực chính trị- xã hội:
- Chính trị: “là cái thủ đoạn của hạng cai trị người để kiềm chế thúc phược (phạt) hạng người cai
trị” (Tiếng Dân, 1929).
- Văn chương: “là hình ảnh cái tinh thần riêng, cái tình cảm riêng của một dân, một nước mà là cái
hình ảnh tự nhiên hơn cả.” (NPTC, 1917).
d. Một đặc điểm khác cũng được nhiều nhà từ vựng quan tâm đến là hiện tượng tranh chấp nghĩa
luôn xảy ra giữa các từ đồng nghĩa của lớp từ Hán- Việt và lớp từ thuần Việt. Sự tranh chấp nghĩa làm
cho hoặc từ Hán - Việt hoặc từ thuần Việt bị rơi rụng khỏi vốn từ vựng. Cũng có khi cả hai cùng tồn tại,

việc sử dụng từ ngữ nào là phụ thuộc vào sắc thái tu từ mà người nói (hoặc viết) muốn biểu lộ.
Dựa vào nghĩa, có thể chia lớp từ ngữ mượn Hán giai đoạn 1900 - 1930 thành bốn nhóm sau:
Nhóm 1: 7%, có từ Việt tương đương, từ mượn Hán rơi rụng ( lư diêm - làng mạc ).
Nhóm 2: 2%, có từ Việt tương đương, từ Việt rơi rụng ( luật sư - thầy kiện ).
Nhóm 3: 21%, có từ Việt tương đương, khác nhau sắc thái tu từ, cùng tồn tại ( bác sĩ - thầy thuốc ).
Nhóm 4: 70%, không có từ Việt tương đương, có chỗ đứng chắc chắn trong vốn từ tiếng Việt ( áp
bức, vô sản )
Có thể khẳng định rằng ba mươi năm đầu thế kỷ XX, ông cha ta đã vay mượn một số lượng lớn từ
ngữ gốc Hán. Đến nay, mặc dù có những từ ngữ đã trở thành từ cũ, nhưng phần lớn chúng vẫn tồn tại và
trở thành lớp từ không thể thiếu trong vốn từ vựng tiếng Việt.
4.2. Từ ngữ gốc Pháp đƣợc vay mƣợn vào tiếng Việt giai đoạn 1900- 1930.
4.2.1.Điều kiện dẫn đến sự vay mượn từ gốc Pháp
Nền giáo dục, trong đó tiếng Pháp chiếm ưu thế, đã tạo ra nhiều thế hệ trí thức có trình độ song ngữ
Pháp- Việt. Ngoài đội ngũ trí thức trên, còn có một lực lượng đông đảo những người Việt làm việc trong
các công sở Pháp hoặc phục vụ trong quân đội Pháp. Họ cũng ít nhiều góp phần làm cho những từ ngữ
gốc Pháp du nhập vào tiếng Việt.
Như vậy, do trình độ tiếng Pháp khác nhau giữa một bên là các trí thức với một bên là đội ngũ nhân
viên và binh lính đã dẫn đến tình trạng các từ ngữ gốc Pháp được tiếp nhận vào tiếng Việt theo những nhu
cầu khác nhau và bằng nhiều cách khác nhau.
4.2.2. Cách tiếp nhận từ ngữ gốc Pháp vào tiếng Việt giai đoạn 1900- 1930
4.2.2.1. Tiếp nhận từ gốc Pháp bằng cách phỏng âm.
Phỏng âm còn gọi là sao phỏng âm thanh, là cách tiếp nhận từ gốc Pháp tương đối phổ biến đầu thế
kỷ XX, chủ yếu do những người viết báo, các công chức và binh lính người bản ngữ thực hiện.
Các từ gốc Pháp vào tiếng Việt theo cách phỏng âm được David Crystal gọi là hiện tượng Pidgin
của Việt Nam. Chúng được đọc theo âm bồi dựa theo cách đọc của nguyên ngữ, được nhiều người sử
dụng và dần dần nhập hẳn vào vốn từ vựng tiếng Việt.
4.2.2.2. Tiếp nhận từ gốc Pháp bằng cách viết nguyên dạng
Cách tiếp nhận này do đội ngũ trí thức Tây học thực hiện. Các từ gốc Pháp được tiếp nhận vào
tiếng Việt phần lớn là các từ ngữ thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, chủ yếu là hoá học. Có lẽ muốn đảm
bảo tính chính xác của các khái niệm, nên thời gian đầu tiếp nhận, các tác giả đã viết ở nguyên dạng

Ví dụ: - Acide sulfurique (H
2
SO
4
)
- Acide dithionique (H
2
S
2
O
6
)
Cách tiếp nhận trên tuy đảm bảo tính chính xác nhưng rất khó đọc. Có lẽ, ý thức được điều đó nên
giai đoạn sau (thập kỷ XX), khi tiếp nhận từ ngữ gốc Pháp, các tác giả đã phiên âm theo cách đọc của
người Việt, có ghi chú tiếng Pháp trong ngoặc.
Ví dụ: Ê-li-om (helium), nê-bu-li-om (nêbulium), can-xi-om (calcium) ( NPTC, số 38)
Tiếp nhận theo lối phiên âm có tính khoa học hơn, mặc dù vẫn mang đậm tính ngoại lai, nhưng đã
dễ đọc hơn và chúng vẫn đảm bảo được độ chính xác của các thuật ngữ mang tính quốc tế.
4.2.3. Một số đặc điểm của lớp từ mượn Pháp giai đoạn 1900- 1930.
4.2.3.1. Đặc điểm về số lượng.
So với từ gốc Hán, từ gốc Pháp được mượn vào tiếng Việt có số lượng rất hạn chế: khoảng 100 đơn
vị (3%). Sở dĩ như vậy là vì quá trình tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Pháp chưa lâu, hơn nữa tiếng Pháp
lại khác loại hình với tiếng Việt. Mặc dù vậy, chúng vẫn là các từ ngữ quan trọng đối với tiếng Việt.
4.2.3.2. Đặc điểm về nghĩa.
Như đã nói, sự tranh chấp nghĩa luôn xảy ra ở các từ có nghĩa tương đương nhưng khác nhau về
nguồn gốc. Dựa vào mối tương quan về nghĩa giữa từ mượn Pháp với từ Hán- Việt và từ thuần Việt, có
thể chia từ mượn Pháp thành 6 nhóm sau:
Nhóm 1: 1%, có từ Việt và từ Hán - Việt tương đương, từ mượn Pháp rơi rụng ( sốp phơ ).
Nhóm 2: 5%, có từ Hán - Việt tương đương, từ Hán - Việt rơi rụng ( acide - lưu toan ).
Nhóm 3: 8%, có từ Hán - Việt tương đương, từ Pháp rơi rụng (ba lon - khinh khí cầu ).

Nhóm 4: 23%, có từ Việt tương đương, từ Pháp rơi rụng ( băng ca - cái cáng).
Nhóm 5: 8%, có từ Việt tương đương, cùng tồn tại (phông - nền).
Nhóm 6: 53%, không có từ Việt hoặc Hán - Việt tương đương, có chỗ đứng chắc chắn trong từ
vựng tiếng Việt ( kem, kền ).
Như vậy, mặc dù với số lượng chưa nhiều nhưng các từ ngữ gốc Pháp đã góp phần làm cho tiếng
Việt phong phú hơn.
4.2.4. Một số phương thức Việt hoá từ gốc Pháp ba mươi năm đầu thế kỷ XX.
4.2.4.1. Sự cần thiết phải việt hoá từ gốc Pháp
Theo quy luật chung, tất cả các từ ngoại lai muốn tồn tại và hoạt động trong hệ thống từ vựng tiếng
Việt, bắt buộc chúng phải Việt hoá, nghĩa là chúng phải biến đổi ngữ âm cho giống với diện mạo của từ
tiếng Việt.
4.2.4.2. Một số phương thức Việt hoá từ gốc Pháp.
Trong phần này, luận án chỉ trình bày một số phương thức chính
a, Cấu trúc lại âm tiết
Dùng các con chữ của tiếng Việt, ghi lại các âm của từ gốc Pháp theo cách kết hợp âm của tiếng
Việt.
b. Thêm thanh điệu
Do bị chi phối bởi quy luật ngữ âm của tiếng Việt, các âm tiết của từ gốc Pháp có phụ âm cuối là
[p, t, c, ch] khi vào tiếng Việt chỉ chấp nhận hai thanh điệu: sắc hoặc nặng.
Các âm tiết có phụ âm cuối là phụ âm mở (hoặc nửa mở) [m, n, ng, nh] thường chỉ có hai thanh
điệu: thanh không hoặc thanh huyền.
Do trong tiếng Việt không có các kết hợp phụ âm: cl, br, cr, gr nên các từ gốc Pháp có kết hợp phụ
âm như trên khi vào tiếng Việt, các phụ âm được tách ra làm hai âm tiết, âm tiết đầu thường có thanh
huyền.
Ví dụ: clè  cờ- lê ; gramme  gờ- ram
c. Thay đổi một số âm
- Một số phụ âm của từ gốc Pháp đã được thay thế bởi phụ âm khác để phù hợp cách cấu âm của
tiếng Việt và cách đọc của người Việt
+ Trường hợp [p]  [b]: pont  boong + Tường hợp [r]  [k]: garde 
gác

+ Trường hợp [l]  [n]: nickel  kền, oval  ô-van
+ Trường hợp [n]  [ng]: savon  xà-phòng
4.2.5. Một số nhận xét về lớp từ gốc Pháp giai đoạn 1900- 1930.
Khoảng 60% từ ngữ gốc Pháp du nhập vào tiếng Việt giai đoạn 1900- 1930 là các từ ngữ thuộc các
lĩnh vực tự nhiên và lĩnh vực quân sự, 40% từ ngữ còn lại là các từ ngữ thông dụng trong cuộc sống hàng
ngày.
Tóm lại, trong chương này, luận án đã phân tích và miêu tả phát triển từ vựng tiếng Việt giai đoạn
1900-1930 bằng con đường vay mượn từ. So với cấu tạo và phát triển nghĩa, con đường vay mượn từ ngữ
chiếm ưu thế hơn. Các từ ngữ được vay mượn chủ yếu từ tiếng Hán và tiếng Pháp, trong đó tiếng Hán là
cơ bản.

Kết luận
Qua quá trình khảo sát tư liệu, phân tích và miêu tả sự phát triển của từ vựng tiếng Việt ba mươi
năm đầu của thế kỷ XX, chúng tôi có thể ghi nhận lại những điều cơ bản nhất sau đây:
1. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, dưới chế độ thực dân Pháp, chữ quốc ngữ bắt đầu được sử dụng
rộng rãi trong công sở và trong các trường học. Với ý đồ dùng chữ quốc ngữ làm công cụ để tuyên truyền
cho nền văn minh Pháp, chính phủ bảo hộ đã cho xuất bản hàng loạt báo chí quốc ngữ khắp ba miền Bắc,
Trung, Nam. Với sự ra đời của 74 đầu báo quốc ngữ (từ 1900-1930) và sự phát triển của các loại hình: thơ
ca, truyện ngắn, phóng sự , từ vựng tiếng Việt như được thổi thêm một luồng sinh khí mới, bắt đầu phát
triển mạnh hơn cả về số lượng và chất lượng.
1.1. Sự phát triển về lượng thể hiện ở con số 3000 từ ngữ mớ xuất hiện mà chúng tôi đã thống kê
được. Sự phát triển mạnh mẽ về số lượng làm cho vốn từ vựng tiếng Việt ba mươi năm đầu thế kỷ XX
tăng lên đáng kể. Bên cạnh hiện tượng một số từ ngữ đã biến thành từ cũ là sự xuất hiện của rất nhiều từ
ngữ mới thuộc các lĩnh vực đời sống.
1.2. Sự phát triển về chất lượng của từ vựng cũng được thể hiện rất rõ. Nếu như cuối thế kỷ XIX trở
về trước, trong vốn từ vựng tiếng Việt, các từ ngữ thuần Việt có số lượng lớn, có ý nghĩa biểu thị các sự
vật cụ thể trong cuộc sống thường nhật thì đầu thế kỷ XX, một số lượng lớn từ mới gốc Hán đã được
mượn vào tiếng Việt. Lớp từ ngữ mượn Hán đó có tính khái quát cao nên chúng có khả năng biểu thị các
khái niệm trừu tượng.
2. Ba mươi năm đầu thế kỷ XX, từ vựng tiếng Việt phát triển bằng hai con đường cơ bản: con

đường vay mượn từ và con đường cấu tạo từ, phát triển ý nghĩa mới của từ.
2.1. Phát triển từ vựng bằng con đường cấu tạo từ và phát triển ý nghĩa mới của từ, trong đó con
đường cấu tạo từ chiếm ưu thế hơn. Phương thức ghép là phương thức quan trọng nhất trong các phương
thức cấu tạo từ ngữ mới. Với sự tham gia của ba loại thành tố cấu tạo từ (thuần Việt, Hán-Việt và Ấn -
Âu), trong đó chủ yếu là các thành tố Hán-Việt và thuần Việt, phương thức ghép đã sản sinh ra hàng loạt
từ ngữ mới được ghép bởi hai, ba, bốn, âm tiết, để biểu thị các khái niệm trừu tượng thuộc lĩnh vực
chính trị - xã hội.
Phương thức ghép bao gồm hai mô hình: ghép hội nghĩa và ghép phân nghĩa. Mỗi mô hình ghép có
một số đặc điểm nổi bật. Chẳng hạn, ở mô hình ghép hội nghĩa, nếu từ ngữ được ghép bởi hai danh từ thì
từ đó sẽ có ý nghĩa tổng hợp số nhiều. Ví dụ: đạn dược, súng ống, máy móc chính tính chất tổng hợp về
nghĩa của mô hình ghép này làm cho một trong hai yếu tố bị mất nghĩa (Ví dụ: dược, ống, móc là các yếu
tố bị mất nghĩa).
Đặc điểm nổi bật của mô hình ghép phân nghĩa là trong số các từ ngữ được ghép bởi hai thành tố
Hán-Việt, nếu một (hoặc cả hai) thành tố đó là yếu tố không tồn tại và hoạt động độc lập thì thành tố biểu
thị ý nghĩa phạm trù giữ vai trò trung tâm thường đứng sau thành tố biểu thị thuộc tính khu biệt. Những từ
ngữ này được ghép theo mô hình cú pháp tiếng Hán. Chúng chiếm 30% trong tổng số các từ ngữ Hán-
Việt được cấu tạo theo mô hình ghép phân nghĩa.
2.2. So với con đường cấu tạo từ, con đường phát triển ý nghĩa mới của từ bị hạn chế hơn. Phát
triển nghĩa gồm hai phương thức chính: thuật ngữ hóa từ thông thường và mở rộng ý nghĩa của từ bằng ẩn
dụ và hoán dụ. Ba mươi năm đầu thế kỷ XX, số từ ngữ phát triển thêm nghĩa mới chưa nhiều lắm. Bởi lẽ,
theo chúng tôi, vào thời kỳ đó tiếng Việt đang thiếu hụt từ ngữ một cách trầm trọng, việc gia tăng từ vựng
về số lượng cần thiết hơn việc “tinh tế hoá” ý nghĩa của từ.
3. Ba mươi năm đầu thế kỷ XX, vay mượn từ ngữ là con đường quan trọng nhất trong việc phát
triển từ vựng tiếng Việt. Những năm đầu thế kỷ, tiếng Việt đã vay mượn một lượng từ ngữ đáng kể từ
tiếng Hán và tiếng Pháp. Điều đó được thể hiện ở chỗ từ ngữ Hán-Việt và từ gốc Pháp xuất hiện ngày
càng nhiều hơn trong các văn bản quốc ngữ (xin xem chương 2).
3.1. Trong số từ ngữ vay mượn từ tiếng Hán và tiếng Pháp, từ Hán-Việt chiếm khoảng 97%. Sở dĩ
có tình trạng như vậy là do tiếng Việt và tiếng Hán vốn cùng là ngôn ngữ đơn lập, phân tích tính; hơn
nữa, nền văn học Hán và tiếng Hán đã tồn tại và bắt rễ quá sâu trong đời sống văn hoá của người Việt.
Việc vay mượn từ ngữ gốc Hán vào tiếng Việt giai đoạn 1900-1930 là sự vay mượn ồ ạt. Đó là điều

không thể tránh khỏi khi mà tiếng Việt đang cần một lượng lớn từ ngữ để bù lấp vào những khoảng trống
trong vốn từ vựng. Tuy nhiên, do việc vay mượn thiên về lượng như vậy nên hiện nay chỉ còn lại khoảng
70% số từ ngữ mượn Hán giai đoạn 1900- 1930 có chỗ đứng chắc chắn trong vốn từ vựng tiếng Việt.
Chúng hầu hết là các từ ngữ quan trọng không thể thiếu trong hệ thống thuật ngữ tiếng Việt. 3% từ ngữ
còn lại do yếu thế trong quá trình tranh chấp nghĩa nên hoặc đã trở thành từ cũ hoặc vẫn tồn tại một cách
bấp bênh bên cạnh các đơn vị thuần Việt có ý nghĩa tương ứng.
3.2. So với từ ngữ mượn Hán, số lượng từ ngữ mượn từ tiếng Pháp giai đoạn 1900-1930 ít hơn
nhiều (chỉ khoảng 3%). Sở dĩ số lượng từ mượn Pháp rất ít là vì tiếng Pháp là ngôn ngữ khác loại hình với
tiếng Việt, hơn nữa quá trình tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Pháp mới chỉ diễn ra trong một thời gian
ngắn. Do khác nhau về loại hình nên các từ gốc Pháp khi muốn nhập vào vốn từ tiếng Việt phải Việt hoá
tối đa về mặt ngữ âm để gần với các âm của tiếng Việt. Việc Việt hoá về mặt ngữ âm có thể xảy ra ở các
âm đầu, âm cuối hoặc các thanh điệu.
Mặc dù với số lượng không nhiều (gần 100 đơn vị) nhưng các từ ngữ gốc Pháp cũng rất quan trọng
trong vốn từ vựng tiếng Việt giai đoạn 1900-1930. Đặc biệt là trong lớp từ ngữ thuộc lĩnh vực hoá học.
4. Do phát triển ồ ạt về số lượng nên có thể tính hệ thống (cả về hình thức lẫn nội dung) của các từ
ngữ chưa cao, nội hàm chưa sâu hoặc ngoại diên còn hẹp, nhất là các từ ngữ thuộc lĩnh vực kỹ thuật - tự
nhiên. Điều đó phần nào phản ánh tri thức mới về các ngành khoa học này của người dân Việt Nam lúc
bấy giờ còn hạn chế.
5. Mặc dù còn có những điểm hạn chế song nhìn chung phần lớn số từ ngữ mới xuất hiện trên các
văn bản quốc ngữ giai đoạn 1900-1930 đều có ý nghĩa chính xác mà đến nay chúng vẫn mang tính cập
nhật. Sự xuất hiện của các từ ngữ mới đầu thế kỷ XX đã làm cho vốn từ vựng tiếng Việt phong phú hơn
cả về số lượng lẫn chất lượng, biến tiếng Việt từ một thứ ngôn ngữ dân dã đời thường trở thành ngôn ngữ
hành văn, được sử dụng chính thức trong mọi lĩnh vực văn học, văn hoá chính trị - xã hội, khoa học kỹ
thuật.
6. Những điều chúng tôi trình bày trong luận án có thể chưa hoàn toàn đầy đủ với những gì đã diễn
ra trong sự phát triển của từ vựng tiếng Việt giai đoạn 1900-1930. Chúng tôi mong rằng những thiếu sót
sẽ được các công trình nghiên cứu tiếp theo hoàn thiện để có thể dựng nên một bức tranh toàn diện về
những biến đổi và phát triển của từ vựng tiếng Việt ở giai đoạn lịch sử này./



×