Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

Tìm hiểu sự nghiệp giáo dục ở các tỉnh miền núi phía Bắc trong mười năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954 - 1964

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 145 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


DUY THỊ HẢI HƯỜNG









TÌM HIỂU SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC Ở CÁC TỈNH MIỀN
NÚI PHÍA BẮC TRONG MƯỜI NĂM ĐẦU XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1954 - 1964)






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ















Hà Nội - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


DUY THỊ HẢI HƯỜNG







TÌM HIỂU SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC Ở CÁC TỈNH MIỀN
NÚI PHÍA BẮC TRONG MƯỜI NĂM ĐẦU XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1954 - 1964)

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam cận hiện đại
Mã số: 60 22 54





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ



Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Nguyệt Quang










Hà Nội – 2009

1

MỤC LỤC


Trang
Mở đầu
Chƣơng 1. Khái quát về giáo dục các tỉnh miền núi phía Bắc trƣớc năm
1954
1.1. Điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hƣởng đến quá
trình xây dựng và phát triển giáo dục miền núi
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội

1.2. Khái quát về giáo dục các tỉnh miền núi phía Bắc trƣớc năm 1954
1.2.1. Giáo dục các tỉnh miền núi phía Bắc dưới thời Pháp thuộc
1.2.2. Chủ trương của Đảng về xây dựng nền giáo dục Việt Nam, giáo dục
miền núi
1.3. Giáo dục các tỉnh miền núi phía Bắc trong kháng chiến chống thực
dân Pháp
1.3.1. Giáo dục bình dân
1.3.2. Giáo dục phổ thông
Chƣơng 2. Xây dựng và phát triển giáo dục các tỉnh miền núi phía Bắc
trong giai đoạn khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa (1954 -
1960)
2.1. Vài nét về kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc sau hòa bình
lập lại
2.2. Chủ trƣơng của Đảng về giáo dục nói chung và giáo dục miền núi
nói riêng
5
15

15

15
16
18
18
24

37
38
44


52

52

55


2
2.2.1. Đường lối, chính sách phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước ở
miền Bắc
2.2.2. Chính sách phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước đối với các tỉnh
miền núi
2.3. Những thành tựu bƣớc đầu của ngành giáo dục các tỉnh miền núi
phía Bắc trong những năm khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa
(1954 - 1960)
2.3.1. Giáo dục bình dân
2.3.2. Giáo dục phổ thông
Chƣơng 3. Phát triển giáo dục các tỉnh miền núi phía Bắc trong những
năm thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961 - 1964)
3.1. Tình hình kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc sau giai đoạn
khôi phục kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa
3.2. Đƣờng lối xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, trong
đó có miền núi, vùng cao
3.2.1. Đường lối xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
3.2.2. Chủ trương phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước đối với miền
núi
3.3. Giáo dục các tỉnh miền núi phía Bắc trong những năm thực hiện kế
hoạch năm năm lần thứ nhất (1961 - 1964)
3.3.1. Giáo dục bình dân
3.3.2. Giáo dục phổ thông

Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
55

65

68

68
79

88

88

91
91

94
98

98
104
123
128
140




3
DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ

1. Bảng 2.1. Bảng thống kê số học sinh biết đọc, biết viết trên địa bàn nông
thôn trong sáu tháng cuối năm 1954
2. Bảng 2.2. Số người biết đọc, biết viết so với kế hoạch 6 tháng đầu năm
1956
3. Bảng 2.3. Số cán bộ được đào tạo qua các trường bổ túc văn hóa của
Khu từ năm 1959 đến năm 1960
4. Bảng 2.4. Bảng thống kê tình hình vỡ lòng trong năm học 1959 - 1960
5. Bảng 2.5. Bảng thống kê trường và học sinh phổ thông của sáu tỉnh miền
núi phía Bắc từ năm 1955 đến năm 1960
6. Bảng 2.6. Bảng thống kê học sinh dân lập các lớp 1, 2, 3 của các tỉnh
miền núi trong năm học 1960 - 1961
7. Bảng 3.1. Bổ túc văn hóa các cấp của các tỉnh trong năm 1963
8. Bảng 3.2. Bảng thống kê tỷ lệ học sinh vỡ lòng trong năm học 1961 -
1962
9. Bảng 3.3. Bảng thống kê số lớp học và học sinh vỡ lòng năm học 1964 -
1965
10. Bảng 3.4. Bảng so sánh trường học, lớp học và học sinh phổ thông cấp
1 trong năm học 1959 - 1960 và 1964 - 1965
11. Bảng 3.5. Bảng thống kê trường học, lớp học và học sinh cấp 1 của tỉnh
Cao Bằng từ năm 1960 đến năm 1964
12. Bảng 3.6. Bảng thống kê học sinh người dân tộc thiểu số học cấp 2
trong hai năm học 1960 - 1961 với 1963 - 1964
13. Bảng 3.7. Bảng thống kê trường học, lớp học và học sinh cấp 3 của Khu
trong hai năm học 1960 - 1961 và 1963 - 1964
14. Bảng 3.8. Số học sinh học xen kẽ hai thứ chữ quốc ngữ và chữ Tày -
Trang
68

69
78

81
82
83

102
104
105
106

107
108

108
110

4
Nùng từ năm 1962 đến năm 1965
15. Bảng 3.9. Bảng thống kê tỷ lệ học sinh lên lớp ở trường học xen kẽ với
trường học thẳng chữ quốc ngữ từ năm 1962 đến năm 1965
16. Bảng 3.10. Bảng thống kê số lượng học sinh người dân tộc thiểu số theo
học tại các trường thiếu nhi vùng cao từ năm 1961 đến năm 1964
17. Bảng 3.11. Bảng thống kê trường học, học sinh người dân tộc thiểu số
trong hai năm 1960 và 1963
18. Bảng 3.12. Bảng thống kê số giáo sinh cấp 2 được đào tạo tại các
trường
19. Bảng 3. 13. Tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số so với dân số
20. Bảng 3.14. Bổ túc văn hóa các cấp của các tỉnh trong năm 1963















110
112

113
116
119
121





5
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Thời đại nào cũng vậy, giáo dục luôn có vị trí quan trọng và là nhân tố
để thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia. Vì vậy, trong lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc Việt Nam, ông cha ta sớm có ý thức về vai trò của giáo
dục - đào tạo và quan niệm rằng muốn xây dựng đất nước, mở mang kinh tế thì
phải đào tạo và bồi dưỡng người tài, bởi „„hiền tài là nguyên khí của quốc gia‟‟.
Kế thừa, phát huy truyền thống trọng giáo dục, trọng nhân tài của ông
cha, ngay từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập vào
tháng 9 năm 1945 cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta cũng luôn quan tâm chăm
lo phát triển sự nghiệp giáo dục, luôn coi phát triển giáo dục, đầu tư cho giáo
dục - đào tạo, coi giáo dục là quốc sách trong sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991),
Đảng ta đã khẳng định: "Khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong
toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là một động
lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến
của thế giới» [41, tr. 106]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội cũng nhấn mạnh: «Giáo dục và đào tạo phải được xem là
quốc sách hàng đầu» [41, tr. 139]. Trong bài phát biểu tại Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội, ngày 19 - 1 - 1996, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười nói rõ:
«Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi đầu tư vào con người là đầu tư cơ bản
nhất; đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển» [1, tr. 3].
Là một khu vực rộng lớn, nơi sinh sống của nhiều tộc người thiểu số
với trình độ phát triển khác nhau, các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam có vị trí
quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nơi đây vừa là căn cứ địa vừa là
nơi diễn ra nhiều chiến dịch lớn góp phần quyết định đến thắng lợi của cuộc

6
kháng chiến, như Chiến dịch Việt Bắc năm 1947, Chiến dịch Tây Bắc năm
1952, Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, v.v Trong thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, cùng với nhân dân miền Bắc, đồng bào các dân tộc miền

núi đã đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu
tranh thống nhất nước nhà. Thành tựu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa ở
miền Bắc bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đóng góp không nhỏ
của nền giáo dục miền Bắc xã hội chủ nghĩa nói chung và giáo dục ở các tỉnh
miền núi nói riêng. Vì vậy, nghiên cứu giáo dục ở các tỉnh miền núi phía Bắc
trong thời kỳ 1954 - 1975 nói chung và giai đoạn 1954 - 1964 nói riêng có ý
nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn. Nghiên cứu thành công vấn đề này sẽ giúp
chúng ta hiểu rõ hơn chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước; hiểu rõ được
tầm quan trọng cũng như mối quan hệ của phát triển văn hóa - giáo dục ở miền
núi với việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, với việc gìn giữ
an ninh biên giới và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Không những thế, nghiên cứu
giáo dục ở các tỉnh miền núi phía Bắc còn góp phần giúp chúng ta rút ra những
bài học kinh nghiệm cho việc phát triển giáo dục ở miền núi, vùng đồng bào
các dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay.
Từ trước đến nay, mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về giáo
dục trong giai đoạn 1954 - 1964 nhưng vẫn chưa có một công trình sử học nào
nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về sự lãnh đạo của Đảng, về quá
trình xây dựng và phát triển cũng như vai trò, vị trí của giáo dục các tỉnh miền
núi phía Bắc Việt Nam trong giai đoạn này.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài «Tìm hiểu sự nghiệp giáo
dục ở các tỉnh miền núi phía Bắc trong mười năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã
hội (1954 - 1964)» để làm luận văn thạc sỹ khoa học lịch sử của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1964 là giai đoạn đầu Việt Nam thực
hiện hai nhiệm vụ cách mạng là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu

7
tranh chống đế quốc Mỹ cùng tay sai ở miền Nam, thực hiện mục tiêu thống
nhất đất nước.
Viết về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cuộc đấu

tranh chống Mỹ xâm lược ở miền Nam trong giai đoạn này có rất nhiều công
trình đề cập đến, như: Viện Sử học “Lịch sử Việt Nam 1954 - 1965”, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1996; Lê Mậu Hãn (Chủ biên) “Đại cương lịch sử Việt
Nam, tập 3 (1945-1995)”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997; Nguyễn Quang Ngọc
(Chủ biên) “Tiến trình lịch sử Việt Nam”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000, v.v…
Riêng lĩnh vực văn hóa - giáo dục có một số tác phẩm đã xuất bản và có thể
phân loại thành các nhóm công trình sau:
* Nhóm công trình của các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước bàn về giáo
dục:
Bàn về giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh có những tác phẩm: Hồ Chủ
tịch bàn về giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1962 và Bàn về công tác giáo dục,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1972. Đây là hai tác phẩm tập hợp những bài viết và bài
nói của Người từ năm 1919 đến năm 1969 về giáo dục. Qua hai tác phẩm này,
Người đã nêu rõ quan điểm của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa về công
tác giáo dục, về xây dựng nền giáo dục nhân dân, giáo dục xã hội chủ nghĩa.
Người khẳng định: Mục đích giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị của
Đảng và Nhà nước, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đào tạo những người
kế tục sự nghiệp cách mạng; Nội dung giáo dục phải chú trọng đủ các mặt: đạo
đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản
xuất. Trong nội dung giáo dục, Người nhấn mạnh phải đặc biệt chú trọng về
mặt đức dục; Phương pháp giáo dục phải gắn liền với sản xuất và đời sống của
nhân dân, học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế.
Bàn về giáo dục, Thủ tưởng Phạm Văn Đồng có những tác phẩm, như
Công tác giáo dục và người thầy giáo xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1970; Sự nghiệp giáo dục trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1979. Đây là các tác phẩm tập hợp những bài phát biểu quan trọng của Thủ

8
tướng về công tác giáo dục từ năm 1956 đến những năm 1975. Qua những tác
phẩm trên, Thủ tướng đã phân tích sâu sắc vai trò và vị trí trọng yếu của công

tác giáo dục trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới và con
người mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng như mối quan hệ biện chứng giữa
cách mạng tư tưởng và văn hóa trong đó có công tác giáo dục là một bộ phận
quan trọng, với cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật;
nêu rõ đường lối, quan điểm, phương châm của Đảng và Nhà nước về xây dựng
và phát triển nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.
* Nhóm công trình chuyên khảo về lĩnh vực giáo dục:
Tiêu biểu trong nhóm công trình này là hai tác giả Nguyễn Khánh
Toàn và Phạm Minh Hạc.
Với tác giả Nguyễn Khánh Toàn có thể kể đến các công trình, như:
Những vấn đề về giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1950, Giáo dục tư sản và
giáo dục xã hội chủ nghĩa, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1959, Hai mươi năm xây
dựng giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1965, Sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế,
thể dục thể thao, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1966, Xung quanh một số vấn đề văn
học và giáo dục, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1972, Nền giáo dục Việt Nam -
lý luận và thực hành, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1991, v.v…
Với tác giả Phạm Minh Hạc có thể kể đến những tác phẩm chính sau:
Sơ thảo giáo dục Việt Nam (1945 - 1992), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1992, Mười
năm đổi mới giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996, Về giáo dục, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, Phát triển giáo dục phát triển con người phục vụ
phát triển xã hội - kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, Văn hoá và
giáo dục, giáo dục và văn hoá, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998, Giáo dục Việt
Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21, Nxb Chính trị Quốc gia, 2002, v.v…
Vấn đề giáo dục còn được nhiều tác giả, các chuyên gia, những người
hoạt động trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục cũng như những người đã từng giữ
chức vụ quan trọng trong Bộ Giáo dục đề cập đến, như: Vũ Ngọc Khánh, Tìm

9
hiểu nền giáo dục Việt Nam trước năm 1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1945; Bộ
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Ba mươi năm nền giáo dục đại học và

trung học chuyên nghiệp 1945 - 1975, Hà Nội, 1975; Võ Thuần Nho, Ba mươi
lăm năm phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1980; Vương Kiêm Toàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp chống nạn thất
học, nâng cao dân trí, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1986; Trần Hồng Quân, Năm
mươi năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945 - 1995), Nxb Giáo
dục, Hà Nội, 1995; Đỗ Thị Nguyệt Quang, Quá trình xây dựng và phát triển
nền giáo dục Việt Nam mới từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 7 năm 1954 (Luận
án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử), Viện Sử học, Hà Nội, 1996; Nguyễn Mạnh
Tùng, Công cuộc xóa nạn mù chữ và bổ túc văn hóa ở Bắc Bộ (1945 - 1954)
(Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử), Hà Nội, 1996; Nguyễn Quang Thắng,
Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb Văn hoá, Hà Nội, 1998; Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Giáo dục Đại học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004; Đào Duy
Lục, Giáo dục Đại học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004; Nguyễn Văn
Huyên Toàn tập, Văn hoá và giáo dục Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005;
Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo dục Việt Nam 1945 - 2005, tập 1, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2005; Bùi Minh Hiển, Lịch sử giáo dục Việt Nam, Nxb Đại
học Sư phạm, Hà Nội, 2005; Phạm Thị Sửu, Sáu mươi năm giáo dục mầm non
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2006, v.v…
Có thể nói, các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp nguồn tư liệu
qúy về lịch sử giáo dục Việt Nam từ chế độ phong kiến trải qua thời kỳ giáo
dục của thực dân đến thời kỳ xây dựng, phát triển trong chín năm kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954), trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước ở miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 -
1975) cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Mặc dù
vậy, các công trình trên vẫn chưa nghiên cứu một cách chi tiết, có hệ thống về
giáo dục ở các tỉnh miền núi phía Bắc trong giai đoạn 1954 - 1964.

10
* Ngoài những tác phẩm, bài viết của các các vị lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, các công trình chuyên khảo về lịch sử giáo dục kể trên, vấn đề giáo dục

còn được đề cập trong nhiều công trình sử học, dân tộc học, kinh tế học, như:
Ba mươi năm phát triển kinh tế và văn hóa của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1978; Việt Bắc - Ba mươi năm chiến tranh cách
mạng (1945 - 1975), tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992; Những biến
đổi về kinh tế, văn hóa ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1993; Bế Viết Đẳng, Năm mươi năm các dân tộc thiểu số Việt Nam (1945
- 1995), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995; Trần Đức Cường (Chủ biên),
Lịch sử Chính phủ Việt Nam 1955 -1976, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2006, v.v…
Những công trình trên mới chỉ trình bày những nét khái quát về tình
hình xây dựng và phát triển của ngành giáo dục nước nhà như một phần của
văn hóa - giáo dục nói chung, chưa đi sâu nghiên cứu vấn đề giáo dục của một
vùng, một miền cụ thể, nhất là về giáo dục ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
* Nhóm công trình nghiên cứu về địa phương:
Trong nhón công trình này, có thể kể đến những tác phẩm của Hoàng
Minh Nhất (Chủ biên), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang, tập 1 (1939 - 1945),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; Trương Thanh Sơn (Chủ biên), Lịch sử
Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn (1955 - 1985), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996;
Địa chí Lạng Sơn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999; Lê Mậu Hãn (Chủ
biên), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000;
Phạm Văn Loan, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940 - 1975), Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; Nông Hải Pín (Chủ biên), Địa chí Cao Bằng, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000; Ban Chấp hành Đảng bộ Cao Bằng, Lịch sử
Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930 - 2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003;
Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, Địa chí Thái
Nguyên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009, Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân,

11
Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng - Viện Sử học, Lịch sử tỉnh Cao Bằng, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009, v.v…

Các công trình trên đề cập tương đối toàn diện về lịch sử xây dựng và
phát triển của từng địa phương trên nhiều lĩnh vực, từ vị trí, địa lý, điều kiện tự
nhiên, các vấn đề kinh tế, văn hóa và xã hội đến truyền thống đấu tranh anh
dũng cách mạng qua từng giai đoạn lịch sử cũng như trong công cuộc khôi
phục, phát triển kinh tế trong thời kỳ hòa bình, đổi mới hiện nay; đề cập đến sự
ra đời của Đảng bộ mỗi địa phương và sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với nhân
dân các dân tộc qua các cuộc kháng chiến của dân tộc.
Đây là nguồn tư liệu liên quan trực tiếp đến luận văn nên có giá trị
tham khảo cao. Tuy nhiên, vấn đề giáo dục trong giai đoạn 1954 - 1964 mà các
tác phẩm đề cập đến mới chỉ dừng lại ở mức độ thống kê số lượng trường, lớp,
học sinh, giáo viên của từng ngành học, bậc học, chưa phân tích được vị trí, vai
trò, tổ chức hoạt động cũng như mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục miền
núi đối với vấn đề phát triển kinh tế, vấn đề an ninh, quốc phòng.
* Các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học:
Nguyễn Trọng Hoàng, Chính sách giáo dục của thực dân Pháp ở Việt
Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 96 (1967); Đỗ Thị Nguyệt Quang, Vài
nét về quá trình phát triển sự nghiệp giáo dục ở các vùng dân tộc ít người thời
kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (tháng 9 năm 1945 đến tháng 5
năm 1954), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4 (1981); Phan Trọng Báu, Vài nét
về giáo dục Lạng Sơn thời thuộc Pháp, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 4
(2002); Phạm Công Đam, Phát triển giáo dục ở vùng cao Hà Giang, Tạp chí
Thương mại, số 47 (2004); Phan Trọng Báu, Giáo dục vùng dân tộc ít người ở
Việt Nam thời thuộc Pháp, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 7 (2005); Hà Thị
Minh Hương, Giáo dục cơ bản vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, Tạp
chí Khoa học về Phụ nữ, số 5 (2005); Ngọc Quang, Sở Giáo dục - đào tạo Cao
Bằng những bước tiến trong sự nghiệp trồng người, Tạp chí Đông Nam Á, số
7 (2005), v.v…

12
Các bài viết trên đề cập khá chi tiết những khía cạnh của giáo dục ở

miền núi, như: chính sách giáo dục của thực dân Pháp; quá trình xây dựng và
phát triển giáo dục ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số của cả nước trong kháng
chiến chống thực dân Pháp; xây dựng và phát triển giáo dục của từng tỉnh
miền núi dưới thời Pháp thuộc cũng như trong giai đoạn hiện nay, v.v… Tuy
nhiên, những bài viết trên chưa đề cập hệ thống, chi tiết đến giáo dục của các
tỉnh miền núi phía Bắc trong giai đoạn 1954 - 1964.
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa kết quả nghiên cứu của những công trình
khoa học kể trên, chúng tôi chọn vấn đề giáo dục ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam trong giai đoạn 1954 - 1964 làm luận văn nghiên cứu.
3. Đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu về công tác giáo dục ở sáu tỉnh miền núi
phía Bắc là: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Hà
Giang trong mười năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954 - 1964). Nội dung
mà luận văn nghiên cứu, giải quyết là việc xây dựng hệ thống giáo dục và công
tác xóa mù chữ, bổ túc văn hóa và giáo dục phổ thông ở các địa phương nêu
trên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu giáo dục ở các tỉnh miền núi phía
Bắc từ sau khi hoà bình lập lại năm 1954 đến trước khi đế quốc Mỹ mở rộng
chiến tranh ra miền Bắc năm 1964. Mặc dù vậy, trong quá trình nghiên cứu,
chúng tôi thấy có nhiều sự kiện lịch sử kéo dài đến năm 1965 mới kết thúc nên
chúng tôi tìm hiểu đến năm 1965.
- Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu giáo dục ở sáu tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam, đó là: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Tuyên Quang và Hà Giang. Luận văn chọn sáu tỉnh này, bởi các tỉnh
đó có chung đặc điểm là trong kháng chiến chống thực dân Pháp đều thuộc khu

13
căn cứ địa Việt Bắc nên công tác văn hóa - giáo dục có những đặc điểm chung.

Sau hòa bình lập lại, đến năm 1956, sáu tỉnh này được sáp nhập thành Khu Tự
trị Việt Bắc. Khu là một đơn vị hành chính độc lập, có bộ máy chính quyền
riêng nên việc chỉ đạo công tác giáo dục sẽ thống nhất và ổn định hơn.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu quá trình xây dựng và phát triển giáo dục của các
tỉnh miền núi phía Bắc từ năm 1954 đến năm 1964, cụ thể là: Chủ trương của
Đảng về xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nói chung và giáo
dục ở các tỉnh miền núi nói riêng; Quá trình xây dựng và phát triển của ngành
học giáo dục bình dân (gồm hai bậc học là xóa nạn mù chữ và bổ túc văn hóa)
và giáo dục phổ thông (gồm các bậc học mẫu giáo, vỡ lòng, cấp 1, cấp 2 và cấp
3); Công tác đào tạo giáo viên, biên soạn sách giáo khoa cũng như những khó
khăn, hạn chế của giáo dục miền núi qua hai giai đoạn 1954 - 1960 và 1961 -
1964. Từ đó luận văn rút ra những bài học kinh nghiệm cho công tác xây dựng
và phát triển giáo dục miền núi, vùng đồng bào thiểu số trong giai đoạn hiện
nay.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu:
Để thực hiện luận văn này, bên cạnh việc tham khảo, kế thừa những
công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước, chúng tôi chủ yếu dựa vào các
nguồn tư liệu chính sau:
- Các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các văn bản của Bộ Giáo dục về
xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa từ năm 1954 đến năm 1964 qua Văn
kiện Đảng toàn tập và Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Nguồn tư liệu khai thác tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
- Nguồn tư liệu từ sách, báo, tạp chí, luận văn thạc sỹ lịch sử, luận án
tiến sĩ lịch sử.

14
- Ngoài ra, chúng tôi còn khai thác và sử dụng các nguồn tài liệu khác
có liên quan.

4.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Về cơ sở lý luận: Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi dựa trên cơ sở
tư tưởng và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối của Đảng để nghiên cứu, trong đó đặc biệt coi trọng đường
lối giáo dục và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
- Về phương pháp: Để thực hiện luận văn này, chúng tôi chủ yếu sử
dụng phương pháp nghiên cứu chuyên ngành là phương pháp lịch sử và
phương pháp logíc. Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng phương pháp nghiên
cứu liên ngành, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, v.v…
5. Đóng góp của luận văn
Nghiên cứu thành công luận văn „„Tìm hiểu sự nghiệp giáo dục ở các
tỉnh miền núi phía Bắc trong mười năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954 -
1964)”, chúng tôi hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc phục dựng bức tranh
toàn cảnh về nền giáo dục ở miền Bắc trong những năm đầu xây dựng chủ
nghĩa xã hội; Làm rõ hơn đường lối, chính sách phát triển giáo dục của Đảng
và Nhà nước đối với đồng bào miền núi. Trên cơ sở đó, luận văn rút ra những
bài học kinh nghiệm nhằm góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục các tỉnh miền
núi, vùng cao hiện nay.
Luận văn cũng cung cấp thêm tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu,
giảng dạy, học tập về lịch sử giáo dục, lịch sử địa phương.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, luận văn
được bố cục gồm ba chương:
Chương 1. Khái quát về giáo dục các tỉnh miền núi phía Bắc trước năm
1954.

15
Chương 2. Xây dựng và phát triển giáo dục các tỉnh miền núi phía Bắc
trong giai đoạn khôi phục kinh tế và cải tại xã hội chủ nghĩa (1954 - 1960).
Chương 3. Phát triển giáo dục các tỉnh miền núi phía Bắc trong những

năm thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961 - 1964).

16
CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ GIÁO DỤC
CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC TRƢỚC NĂM 1954

1.1. Điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội ảnh hƣởng đến
quá trình xây dựng và phát triển giáo dục miền núi
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Nằm ở phía Đông Bắc của Tổ quốc, sáu tỉnh miền núi Cao Bằng, Bắc
Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Hà Giang có những đặc thù
riêng, cả về điều kiện địa lý, tự nhiên cũng như về kinh tế - xã hội khác với các
vùng khác của đất nước.
Đặc điểm địa hình nổi bật của sáu tỉnh là đồi núi được cấu tạo từ đá
phiến, đá cắt và đá biến chất. Ngoài ra còn có vùng đá vôi tập trung ở một số
huyện Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang); huyện Quảng Hòa (Cao Bằng) và
huyện Tràng Định (Lạng Sơn). Là các tỉnh miền núi nên phần lớn các tỉnh nằm
ở độ cao từ hàng trăm mét trở lên so với mặt nước biển. Địa hình của vùng thấp
dần theo chiều từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông.
Trong sáu tỉnh đó, có những tỉnh miền núi và những tỉnh trung du với
những đặc điểm cũng khác nhau. Ở những tỉnh miền núi, như Cao Bằng, Hà
Giang, v.v… đại bộ phận diện tích tự nhiên là núi cao, rừng rậm, trong khi đó ở
Thái Nguyên thì hầu hết là những vùng đồi trải rộng. Địa hình mỗi tỉnh lại chia
ra làm hai vùng rõ rệt là vùng thấp và vùng cao. Vùng cao, địa hình hiểm trở,
núi non trùng điệp, bốn bề là những dãy núi đá, khí hậu khắc nghiệt, giao thông
khó khăn, dân cư sống phân tán. Vùng thấp, thiên nhiên ưu đãi hơn so với vùng
cao. Ở đây có những ruộng bậc thang, khí hậu bớt lạnh hơn, giao thông thuân
tiện, cư dân sống tập trung, quây quần hơn.
Hệ thống sông, suối ở đây cũng khá dày, có độ nông, sâu không đều,

độ dốc lại lớn (do chảy theo độ nghiêng của địa hình) nên tạo thành nhiều

17
ghềnh thác. Vào mùa mưa, mưa lớn từ đầu nguồn đổ về gây lũ rất nguy hiểm,
ảnh hưởng đến sản xuất, giao lưu hàng hóa cũng như các hoạt động khác của
nhân dân, trong đó có công tác giáo dục. Về mùa đông, do ít mưa, các khe suối
thường khô hạn không có nước, khiến nhiều vùng cao của các tỉnh miền núi,
như huyện Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang) thường xuyên thiếu nước cho sản
xuất và sinh hoạt. Chế độ mưa ở đây khá phong phú. Trung bình lượng mưa
hàng năm khoảng 2.300 - 2.400 mm. Độ ẩm bình quân hàng năm đạt 85% và
sự dao động cũng không lớn.
Về khí hậu. Đặc điểm nổi bật là khí hậu ở đây khá khắc nghiệt. Nhiệt
độ trung bình trong năm từ 21,6
0
C đến 23,9
0
C; biên độ nhiệt dao động trong
năm khoảng 10
0
C và trong ngày từ 6 - 7
0
C. Mùa nóng nhiệt độ cao tuyệt đối
lên đến 40
0
C (thường vào các tháng 6, 7). Mùa lạnh nhiệt độ thấp tuyệt đối
khoảng 2,2
0
C (thường vào tháng giêng của năm), thậm chí có năm nhiệt độ còn
xuống đến không độ C. Khi rét đậm, sản xuất gặp nhiều khó khăn thì cũng là
thời gian nghỉ đông của các trường, trời ấm lên một chút học sinh có thể đi học

tương đối dễ dàng nhưng lại là lúc nhân dân bận rộn sản xuất, vì thế người lớn
ít thì giờ đi học, nhiều gia đình lại cho cả con nghỉ để sản xuất cho kịp thời vụ.
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Đây là nơi sinh sống của hơn hai mươi dân tộc thiểu số với trình độ
phát triển khác nhau, trong đó đông nhất là dân tộc Tày và dân tộc Nùng còn lại
là các dân tộc như Dao, H

Mông, Cao Lan, Nhắng, Quần trắng, v.v Dù tiếng
nói, phong tục và tập quán khác nhau, trình độ phát triển xã hội chênh lệch
nhau, nguồn gốc lịch sử có chỗ khác nhau nhưng đồng bào các dân tộc đã
chung sống từ lâu đời nên có tinh thần đoàn kết, thương yêu lẫn nhau. Đồng
bào có tinh thần yêu nước và truyền thống cách mạng. Trong sản xuất, họ lao
động cần cù, chịu khó.

Trình độ kinh tế thấp, chủ yếu vẫn là tự cung tự cấp, công cụ sản xuất
thô sơ, thậm chí ở vùng cao, hẻo lánh vẫn còn sống du canh, du cư, dựa vào
thiên nhiên là chính. Cây trồng chủ yếu là ngô và lúa nương còn các loại hoa

18
màu khác thì hầu như không sản xuất vì thú rừng phá hoại, nắng hạn kéo dài. Ở
vùng cao tình trạng sản xuất và đời sống của đồng bào còn khó khăn hơn. Do
đặc điểm tự nhiên chủ yếu là núi đá, đất canh tác hầu như không có nên đồng
bào vẫn sản xuất theo phương pháp “thổ canh hốc đá” tức là cách trồng xen kẽ
cây lương thực ở núi đá. Không những thế, diện tích đất canh tác theo đầu
người cũng rất ít. Ở vùng núi đá huyện Nguyên Bình (Cao Bằng) có 6 xã, bình
quân mỗi đầu người chỉ được trên một sào “thổ canh hốc đá”. Sản xuất kém
phát triển nên hàng năm, đồng bào thiếu ăn thường xuyên, nhất là những hộ ở
vùng cao, có gia đình thiếu ăn tới sáu, bảy tháng trong một năm.
Sự phân bố dân cư quá thưa, cư trú phân tán cũng là một trong những
nguyên nhân gây khó khăn cho công tác xây dựng và phát triển giáo dục. Theo

ước tính, mật độ dân số của các tỉnh miền núi rất thấp. Ở huyện Mèo Vạc (Hà
Giang) khoảng 19 người trên một kilômét vuông. Một vài huyện khác, như
huyện Bảo Lạc (Cao Bằng) còn thấp hơn, chỉ có 7 người trên một kilômét
vuông. Các gia đình sống không tập trung, nhà này cách nhà kia thường phổ
biến là 3, 4 kilômét. Từ làng, bản đến trung tâm huyện, xã cũng rất xa, phổ biến
từ 10 đến 12 kilômét, có nơi như xã Cao Bồ, huyện Vị Xuyên (Hà Giang) cách
đến 30 kilômét. Từ xã lên đến huyện cũng rất xa, có nơi như huyện Nguyên
Bình, Bảo Lạc tỉnh Cao Bằng; huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang và huyện Na
Hang tỉnh Tuyên Quang xa đến 50, 60 kilômét. Trong khi đó, đường giao thông
từ huyện đến xã rất khó khăn, chủ yếu là đường đất, đi bộ.
Gắn liền với sự lạc hậu về kinh tế là tình trạng lạc hậu về văn hóa. Bên
cạnh sự bần cùng là nạn thất học trầm trọng. Tính đến năm 1945, có đến 95%
dân số các dân tộc miền núi bị mù chữ. Không những thế, đồng bào còn bị bó
buộc bởi các phong tục tập quán lạc hậu và các tệ nạn xã hội khác.
Những đặc điểm về điều kiện tự nhiên và xã hội trên đây gây rất nhiều
khó khăn cho công tác xây dựng và phát triển giáo dục ở các tỉnh miền núi.
Trình độ kinh tế và dân trí thấp, sản xuất gặp nhiều khó khăn do thời tiết, khí
hậu, đời sống của đồng bào còn rất thấp nên khó có điều kiện cho con em đi

19
học. Hơn nữa, trẻ em từ khi mới lớn lên đã phải tham gia lao động nương rẫy
cùng với cha mẹ để đảm bảo cho gia đình có lương thực, thực phẩm. Nếu để trẻ
em đi học chữ thì không những gia đình phải mất một khoản kinh phí nào đó
cho việc học tập mà mất đi một lao động có khả năng sản xuất ra của cải vật
chất. Mật độ dân cư quá thấp, đồng bào sống phân tán, không tập trung trong
một địa bàn nhất định nên việc xây dựng trường, lớp cũng như đội ngũ giáo
viên đòi hỏi nhiều hơn các vùng đông dân cư. Về phía chính quyền, sự phân bố
dân cư không tập trung như vậy sẽ khiến cho việc quản lý, hướng dẫn công tác
giáo dục khó khăn hơn, mất nhiều thời gian hơn, v.v…
1.2. Khái quát về giáo dục các tỉnh miền núi phía Bắc trƣớc năm

1954
1.2.1. Giáo dục các tỉnh miền núi phía Bắc dưới thời Pháp thuộc
Từ giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược và tiến hành cai trị nước
ta. Mục đích của chúng là nô dịch nhân dân Việt Nam, biến đất nước ta thành
một thị trường tiêu thụ hàng hóa để bóc lột và đầu tư, sản sinh lợi nhuận nhanh
chóng, phục vụ cho thế lực tư bản tài chính đang thống trị nước Pháp.
Để đạt được mục đích trên, cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp khai
thác, bóc lột kinh tế, Pháp tiến hành ngay các hoạt động giáo dục. Theo thực
dân Pháp, muốn đô hộ một dân tộc, nhất là một dân tộc đã có một nền văn hóa
lâu đời thì phải chọn giáo dục để làm công cụ chinh phục.
Những văn bản dưới đây sẽ nói rõ mục đích của thực dân Pháp khi mở
trường, lớp, xây dựng giáo dục ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam:
Năm 1906, trong Báo cáo của chính quyền thuộc địa Pháp ở Đông
Dương, đọc tại Hội nghị thuộc địa (Paris) ghi rõ: "Giáo dục là một công cụ
chắc chắn và mạnh nhất trong tay người đi chinh phục ( ). Chúng ta (tức
người Pháp - TG) phải làm cho họ (tức là người bản xứ Đông Dương - TG)
tiêm nhiễm tư tưởng của chúng ta, dạy cho họ biết tiếng nói của chúng ta và, do

20
đó, phải bắt đầu làm việc này từ nhà trường, trước hết là cho trẻ em" [84, tr.
10].
Ngày 18 - 4 - 1912, trong Báo cáo của Pêran, Giám đốc Học chính Bắc
kỳ gửi Toàn quyền Đông Dương cũng nói rõ mục đích việc tổ chức giáo dục ở
thuộc địa là nhằm: "Đào tạo những công chức bản xứ hạ đẳng, những giáo viên
sơ cấp, những thông ngôn và thư ký để làm cho bộ máy cai trị, cho các nhà
buôn” [84, tr. 10].
Ngày 10 - 10 - 1920, Toàn quyền Anbe Xarô viết trong một văn bản có
đoạn như sau: "Phát triển giáo dục phải nhằm nhiệm vụ đào tạo những công
chức bản xứ mà công quỹ thuộc địa phải đài thọ nhẹ hơn” [84, tr. 10 - 11].
Chủ trương trên thể hiện chính sách ngu dân triệt để của thực dân Pháp

đối với nhân dân ta. Chính quyền thực dân hạn chế phát triển giáo dục, thu hẹp
việc mở trường lớp đến mức tối thiểu và kiểm soát gắt gao; ra sức ngăn chặn sự
ảnh hưởng của tất cả các loại tư tưởng tiến bộ trên thế giới thâm nhập vào Việt
Nam bằng bất cứ con đường nào. Chúng cấm tất cả các loại sách báo tiến bộ,
dù là theo chiều hướng tư sản, thâm nhập vào Việt Nam. Không những chỉ có
các tác phẩm nói về chủ nghĩa Mác - Lênin nói về Liên Xô, v.v… bị cấm mà
ngay cả những tác phẩm chống chủ nghĩa phát xít, thậm chí một số tác phẩm
của các nhà tư tưởng tư sản Pháp thế kỷ XVII, XVIII cũng bị cấm phát hành.
Thực dân Pháp cấm cả việc cho học sinh ra nước ngoài du học, ngay cả sang
chính nước Pháp, vì theo chúng "con đường sang nước Pháp là con đường
chống nước Pháp" [54, tr. 17].
Cùng với việc hạn chế mở rộng trường, lớp, cấm học sinh du học, thực
dân Pháp còn áp dụng trong các trường học một chương trình giảng dạy, tài
liệu giáo khoa có nhiều tính chất nô dịch và phản động:
Trong chương trình học, phần văn, sử, địa về nước Pháp và Liên hiệp
Pháp chiếm ưu thế. Phần quốc văn thì đề cao những nhân vật làm tay sai cho
Pháp và chính quyền thuộc địa. Về khoa học tự nhiên, Pháp đưa các nội dung

21
học thoát ly thực tế Việt Nam, làm cho học sinh phục và sợ đế quốc, mất tự tin
dân tộc. Nội dung và mục đích của chương trình học là đánh lạc hướng thanh
niên, chia rẽ dân tộc, làm cho thanh niên lẫn lộn bạn, thù, đưa họ vào con
đường làm tay sai cho đế quốc, phong kiến, phản lại đồng bào.
Nội dung giáo dục mà thực dân Pháp áp đặt lên đất nước ta, đúng như
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét là: “Trường học lập ra không phải để giáo dục
cho thanh niên An Nam một nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ
và phát triển tư tưởng cho họ, mà trái lại càng làm cho họ đần độn thêm. Ngoài
mục đích giáo dục để đào tạo tùy phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần
thiết phục vụ cho bọn xâm lược - người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại,
xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ

làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một lòng “trung
thực” giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho
thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình và đang áp bức
mình. Nền giáo dục ấy dạy cho thanh thiếu niên khinh rẻ nguồn gốc dòng giống
mình. Nó làm cho thanh thiếu niên trở nên ngu ngốc” [56, tr. 399].
Cũng giống như cả nước, ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, Pháp cũng
thực hiện chính sách ngu dân nhằm làm cho người dân tộc thiểu số càng ngày
cang hèn kém để đời đời làm tôi mọi chúng; làm mất tinh thần dân tộc, đánh
lạc lòng yêu nước, yêu Tổ quốc của đồng bào và triệt để thi hành chính sách
chia để trị.
Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn tuyên truyền chủ nghĩa vị chủng hẹp
hòi, đẩy các dân tộc sống thành những nhóm riêng biệt lẻ loi để chia rẽ và làm
suy yếu lực lượng cách mạng Việt Nam. Chúng tìm cách gieo vào đầu người
dân thiểu số cái ý niệm coi người Kinh là những người xâm lăng, tàn bạo. Thực
dân Pháp cấm đồng bào không được lấy vợ, lấy chồng người Kinh. Chúng còn
gây mâu thuẫn giữa các dân tộc thiểu số với nhau. Đồng thời, chúng củng cố
chế độ phong kiến ở vùng cao, bảo tồn những mê tín, hủ tục để giam giữ họ
trong vòng lạc hậu, tạo cho chúng dễ dàng đè nén, bóc lột. Chúng cho mở

22
những sòng bạc công khai ở Việt Bắc để gây sự bại hoại trong tâm linh và đời
sống của người dân tộc thiểu số sống ở đây.
Mặc dù vậy, để phục vụ cho bộ máy cai trị ở miền núi, dù vẫn biết
cung cấp một nền học vấn cho người dân thuộc địa là một điều nguy hại, thực
dân Pháp vẫn phải mở trường, lớp, đào tạo thông ngôn, thậm chí còn mở rất
sớm.
Ngay từ năm 1889, thực dân Pháp đã tổ chức ở Cao Bằng, Lạng Sơn
mỗi tỉnh một trường Pháp - Việt. Ở Hà Giang cũng có 1 trường với 2 thầy giáo
và 10 học sinh, có 1 trường chữ Hán với 8 học sinh [3, tr. 25]. Những trường
học này là do sáng kiến của những sĩ quan chỉ huy các đạo quan binh Bắc kỳ.

Mục đích của các trường này là: “Truyền bá tiếng nói là chữ viết của Pháp (kể
cả chữ quốc ngữ”) cho người Thổ để trong một thời gian không dài lắm họ có
thể theo học được những trường miền xuôi” [4, tr. 118].
Gọi là trường nhưng đây chỉ là những lớp học độ dăm ba người chủ
yếu học tiếng Pháp và tiếng Việt để làm phiên dịch cho các làng bản có quân
Pháp đóng. Những trường này đều do sĩ quan, hạ sĩ quan trong quân đội Pháp
giảng dạy cùng với sự giúp sức của thông ngôn người Việt và người Tày.
Chương trình học gồm chữ Pháp, chữ Quốc ngữ, bốn phép tính và sơ lược về
thường thức, vệ sinh, v.v… Bên cạnh việc dạy chữ Quốc ngữ và chữ Pháp, chữ
Hán vẫn được sử dụng rộng rãi trong nhân dân, vì nhân dân vẫn tự tổ chức một
số trường học chữ Hán.
Về trình độ học sinh, thông thường lớp một chỉ mới học đọc, học viết
chữ Quốc ngữ và chữ Pháp; Lớp hai đọc thông viết thạo chữ Quốc ngữ, còn
chữ Pháp bắt đầu tập viết chính tả và làm bốn phép tính; Lớp ba tiếng Pháp học
ngữ pháp, tập đặt câu ngắn và dễ, tóan học đến quy tắc tam suất thuận, nghịch.
Về chương trình, nhìn chung là mô phỏng theo sách giáo khoa các
truờng hàng xã, hàng tổng Nam Kỳ có giản lược đi cho phù hợp với trình độ
học sinh miền núi.

23
Về phương pháp dạy học. Mặc dù còn sơ khai nhưng dưới thời thuộc
Pháp đã bắt đầu áp dụng phương pháp dạy học ở trường, kể cả các trường chữ
Hán (không phải như các thầy đồ dạy học ở nhà); mỗi tuần học 5 ngày, sáng
thứ 5 đi dạo hoặc thăm các di tích lịch sử, thắng cảnh trong vùng, chủ nhật
được nghỉ.
Từ năm 1900 đến 1926, Pháp tiến hành hai lần cải cách giáo dục (lần 1
năm 1906, lần 2 năm 1917) nhưng hai sự kiện này không tác động mấy đến
giáo dục miền núi, vùng dân thiểu số. Chỉ đến năm 1927, sau những sửa đổi
của toàn quyền Merlin, thì giáo dục ở miền núi mới có những chuyển biến rõ
rệt. Cụ thể, Nha Học chính Đông Pháp đã đề ra phương châm là cố gắng cho

mỗi dân tộc đều học bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Tuy nhiên, khi áp dụng vào
thực tế thì chủ trương đó không thực hiện được, vì miền núi có nhiều dân tộc
thiểu số sinh sống với phong tục, ngôn ngữ và tập tục khác nhau nên Nha học
chính Đông Pháp phải điều chỉnh lại theo nguyên tắc chung là: lấy ngôn ngữ
của dân tộc đông nhất làm ngôn ngữ chính cho một vùng, còn nếu ngôn ngữ
quá phân tán thì dùng tiếng Việt hoặc tiếng Pháp.
Đến những năm 1930, ở các tỉnh miền núi số học sinh như sau: Bắc
Kạn 1.251 người; Cao Bằng: 3.318 học sinh; Hà Giang: 147; Lạng Sơn: 295;
Tuyên Quang 537 và tỉnh Thái Nguyên: 1.293 người [4, tr. 124]. Tổng cộng là
6.841 học sinh. Năm học 1939 - 1940, năm giáo dục dưới chế độ thực dân phát
triển nhất, thì cả miền núi phía Bắc chỉ có khoảng 9.972 học sinh tiểu học
[120].
Trong các tỉnh miền núi phía Bắc, giáo dục ở Lạng Sơn có điều kiện
phát triển hơn cả, bởi lẽ, Lạng Sơn có địa hình tương đối thấp, cư dân sống tập
trung hơn. Theo thống kê, trong năm học 1925 - 1926, huyện Thất Khê của tỉnh
đã có tới 6 trường (đặt tại các xã Bản Piêng, Minh Đạo, Bản Né, Bản Trại, Bản
A và Chi Ma), huyện Bắc Sơn có 5 trường; ngoài ra các huyện Điềm He, Châu
Ôn và các huyện khác đều có ít nhất mỗi huyện 1 trường [4, tr. 125]. Đặc biệt
đến năm 1930, Lạng Sơn đã tổ chức được một trường Cao đẳng tiểu học (tương

×