Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm đầu thế kỷ XXI, khi cả nhân loại đang bước vào nền
kinh tế dựa trên tri thức, chúng ta càng xiết bao khâm phục trước tầm nhìn
xa trông rộng của lãnh tụ Hồ Chí Minh, càng thấm thía lời dạy của Người:
"Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc hiểm họa
của sự dốt nát, theo Người dốt nát cũng là kẻ địch. Nên Người chỉ rõ: "Vì
lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người".
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách để
nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Đặc biệt trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, trước những yêu cầu, nhiệm
vụ mới, đòi hỏi công tác giáo dục - đào tạo phải không ngừng đổi mới,
hoàn thiện. Tư tưởng này được khẳng định và cụ thể hóa trong nghị quyết
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ II (khóa VIII) "Về định
hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000". Đại hội Đảng IX tiếp tục
khẳng định: "Phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện
để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững [6, tr. 108 - 109].
Nằm trong sự phát triển chung của đất nước, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi có một vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính
trị, an ninh quốc phòng, giao lưu quốc tế và môi trường sinh thái. Nhận
thức rõ vị thế đó, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc hoạch định và
tổ chức thực hiện chính sách dân tộc trong đó có chính sách về giáo dục -
đào tạo. Nhờ sự quan tâm ấy trong thời gian qua công tác giáo dục - đào tạo
vùng dân tộc thiểu số, miền núi đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Tuy nhiên vẫn còn những khó khăn, bất cập, vì vậy chưa đáp ứng được yêu
1
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Do đó việc nâng cao hiệu quả công tác
giáo dục - đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi là một vấn đề cấp
thiết đặt ra hiện nay.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài "Nâng cao hiệu quả giáo dục
- đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước (Từ thực tiễn các tỉnh miền núi phía Bắc)" làm
đề tài tốt nghiệp khóa luận đại học, chuyên ngành chủ nghĩa cộng sản khoa
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề giáo dục - đào tạo là một vấn đề quan trọng được Đảng và
Nhà nước đặc biệt quan tâm chú ý, được thể hiện trong nhiều Văn kiện của
Đảng, nhất là từ khi thực hiện chính sách đổi mới mà đặc biệt có nghị quyết
Ban chấp hành Trung ương II (khóa VIII). Đây là vấn đề lớn được nhiều
người quan tâm thể hiện ở những bài báo hoặc đề tài có tính quốc gia như:
"Sự phát triển giáo dục - đào tạo ở các vùng dân tộc thiểu số" của Nguyễn
Minh Hiển - Bộ trưởng Bộ Giáo dục - Đào tạo, "Đôi nét về thực trạng trình
độ học vấn của cư dân các dân tộc thiểu số ở Việt Nam" của Nguyễn Chí
Huyên đăng trên tạp chí Dân tộc học số 4 - 1995... Song để đi sâu nghiên
cứu tình hình giáo dục ở các tỉnh miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số vẫn
còn nhiều hạn chế.
3.1. Mục đích
Làm rõ yêu cầu cấp bách của việc nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục - đào tạo và đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
công tác giáo dục - đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (từ thực tiễn các tỉnh miền núi phía
Bắc).
3.2. Nhiệm vụ
2
- Phân tích làm rõ tầm quan trọng của công tác giáo dục - đào tạo
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
- Phân tích thực trạng công tác giáo dục - đào tạo ở các tỉnh miền
núi phía Bắc, từ đó nêu ra và luận chứng một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao hiệu quả công tác giáo dục - đào tạo ở vùng dân tộc thiểu số và
miền núi, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài khóa luận được nghiên cứu chủ yếu dựa vào phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp các phương pháp lôgic và lịch sử,
thống kê, phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn...
5. ý nghĩa của đề tài
- Góp phần nâng cao nhận thức về vấn đề giáo dục - đào tạo nói
chung và giáo dục - đào tạo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng, về
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục - đào
tạo.
- Là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên cứu vấn đề này.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận gồm 2 chương, 4 tiết.
3
Chương 1
Tầm quan trọng của công tác giáo dục - đào tạo trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số
1.1. công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta
1.1.1. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH)
nông nghiệp và kinh tế nông thôn
Chủ trương công nghiệp hóa và xây dựng nền kinh tế hiện đại đã
được đặt ra từ Đại hội Đảng lần thứ III (1969). Trong điều kiện cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, chúng ta đã chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng, lấy công nghiệp nặng làm nền tảng. Thực tiễn cho thấy, chủ trương
công nghiệp hóa như trên là chưa hoàn toàn phù hợp với một nước mà
nông nghiệp và kinh tế nông thôn là một bộ phận chủ yếu, quan trọng cấu
thành nền kinh tế.
Đại hội Đảng lần thứ V đã xác định nội dung chính của công nghiệp
hóa trong 5 năm (1981 - 1985) và những năm 80 là:
"Tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa (XHCN), ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây
dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng, kết hợp nông nghiệp,
công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công -
nông nghiệp hợp lý" [2, tr. 26].
Đại hội Đảng VI với tinh thần đổi mới đã cụ thể hóa nội dung chính
sách trên của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên thông
qua 3 chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu. Ba chương trình này đã thể hiện vị trí ưu tiên hàng đầu của
nông nghiệp.
4
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 1996). Chúng ta đã
đạt được những thành quả quan trọng. Đại hội VIII nhận định: Nhiệm vụ đề
ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho CNH,
HĐH đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH. Nội dung cơ bản của CNH, HĐH nền kinh tế Việt Nam
trong những năm còn lại của thế kỷ XX là: "Phải đặc biệt coi trọng công
nghiệp hóa nông nghiệp và vùng nông thôn, ra sức phát triển nông, lâm,
ngư nghiệp, các ngành công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản, công
nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, các ngành du lịch dịch vụ. Khôi
phục, phát triển, từng bước hiện đại hóa các ngành nghề tiểu thủ công
truyền thống đi đôi với mở mang ngành nghề mới" [3, tr. 22].
Đại hội IX tiếp tục khẳng định đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp
và nông thôn, với nội dung. "Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học
và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, đẩy mạnh thủy lợi hóa, cơ giới
hóa, điện khí hóa, quy hoạch sử dụng đất hợp lý, đổi mới cơ cấu cây trồng,
vật nuôi, tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích, giải quyết tốt vấn đề
tiêu thụ nông sản hàng hóa. Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành
nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp,
các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp
sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông
thôn" [6, tr. 92 - 93]. Trong điều kiện hiện nay, việc đẩy mạnh CNH, HĐH
nông nghiệp và kinh tế nông thôn bao gồm một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, thực hiện từng bước quá trình chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp và kinh tế nông thôn.
Là một bộ phận hữu cơ của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, ở nông
thôn cũng đang diễn ra quá trình hình thành cơ cấu kinh tế mới; nông -
công nghiệp và dịch vụ, bao gồm cả nông, lâm, ngư nghiệp. Công nghiệp
5
chế biến nói riêng và công nghiệp nông thôn nói chung, thương nghiệp, du
lịch và các dịch vụ khác.
Mục tiêu của việc chuyển dịch đó là nhằm khai thác tốt nguồn tài
nguyên về đất đai, rừng, biển, nguồn lao động dồi dào, ưu thế địa lý và sinh
thái, nhằm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng hiệu quả sản xuất, kinh
doanh, từng bước đa dạng hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn, cải thiện
đời sống nhân dân, tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, tạo
nguồn tích lũy và thị trường rộng lớn cho công nghiệp hóa.
Đến đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: "Đẩy nhanh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn theo hướng hình thành nền
nông nghiệp hàng hóa lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh
thái của từng vùng, chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu lao động, tạo
việc làm thu hút nhiều lao động ở nông thôn" [6, tr. 168].
Để thoát khỏi thế độc canh của nền nông nghiệp truyền thống, từng
bước tiến tới một nền nông nghiệp hiện đại, cơ cấu nông nghiệp phải
hướng vào tăng nhanh tỷ suất hàng hóa phù hợp với nhu cầu thị trường,
nâng cao năng suất và hiệu quả trên mỗi đơn vị diện tích và mỗi lao động.
Theo hướng đó, phải đẩy mạnh thâm canh để tăng năng suất, sản lượng
lương thực và dành được diện tích phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả
có giá trị cao. Đưa chăn nuôi lên thành một ngành chính. Đẩymạnh phát
triển và khai thác có hiệu quả các nguồn lực rừng và biển. Chú trọng phát
triển các vùng có khối lượng nông sản hàng hóa lớn, chuyên canh kết hợp
với đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp, đa dạng hóa ngành nghề ở nông
thôn, phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội, hệ sinh thái và lợi thế so sánh
của từng vùng, đi đôi với mở rộng giao lưu trong nước và ngoài nước, có
chương trình, giải pháp thiết thực để hỗ trợ những vùng nghèo, vùng khó
khăn vươn lên nhanh.
Cùng với sự chuyển dịch nội bộ nông nghiệp như trên, phải có
chính sách và biện pháp xúc tiến quá trình công nghiệp hóa nông thôn,
nhằm triệt để giải phóng sức sản xuất, tạo thêm việc làm, thúc đẩy phân
6
công lại lao động theo hướng ai giỏi việc gì làm việc ấy. Mấy năm qua, giá
trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân hàng năm 5,7%, so với
mục tiêu đề ra 4,5 - 5% trong đó nông nghiệp tăng 5,6%, lâm nghiệp 0,4%,
ngư nghiệp 8,4% [6, tr. 224].
Cơ cấu mùa vụ đã chuyển dịch theo hướng tăng diện tích lúa đông
xuân và lúa hè thu có năng suất cao, ổn định. Các loại giống lúa mới đã
được sử dụng trên 87% diện tích gieo trồng. Sản lượng lương thực có hạt
tăng bình quân hàng năm trên 1,6 triệu tấn, lương thực bình quân đầu người
đã tăng từ 360kg năm 1995 lên trên 444kg năm 2000.
Nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung gắn với công
nghiệp chế biến bước đầu được hình thành, sản phẩm nông nghiệp đa dạng
hơn. So với năm 1995, diện tích một số cây công nghiệp tăng khá: cà phê
gấp hơn 2,7 lần, cao su tăng 46%, nửa tăng khoảng 35%, bông tăng 8%...
Một số giống cây công nghiệp có năng suất cao đã được đưa vào sản xuất
đại trà. Giá trị sản xuất nông nghiệp trên một đơn vị đất nông nghiệp tăng
từ 13,5 triệu đồng/ha, năm 1995 lên 17,5 triệu đồng/ha năm 2000 [6, tr. 224].
Song, năng suất trên một lao động nông nghiệp nước ta hiện còn
thấp. Vì vậy, phải chuyển dịch cơ cấu để chuyển dần lao động trong nông
nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ nói chung, trước hết là ngay
tại chỗ. Mộtmặt phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là công nghiệp
chế biến nông, lâm, thủy sản ở cả nông thôn và thành phố. Mặt khác phải
phát triển công nghiệp nông thôn một cách toàn diện, từ công nghiệp hàng
tiêu dùng, đến công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp cơ khí chế tạo
và sửa chữa... với quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu. Phải có chính sách mở
rộng thị trường, khuyến khích và khôi phục các làng nghề truyền thống.
Đồng thời mở mang nhiều làng nghề ở nông thôn. Khuyến khích các hộ
nông dân và các tổ chức hợp tác phát triển công nghiệp, đi đôi với khuyến
khích các doanh nghiệp về nông thôn lập nghiệp, góp phần tích cực cùng
nông dân phát triển mạnh mẽ công nghiệp nông thôn.
7
Tóm lại chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, công nghiệp hóa
nông nghiệp và nông thôn là con đường cơ bản để tiến hành phân công lại
lao động, xã hội hóa nền sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa, tạo ra nhiều
việc làm, sản xuất ra nhiều của cải, nâng cao thu nhập, tác động tích cực
đến phát triển công nghiệp và dịch vụ của cả nước.
Thứ hai, phát triển mạnh nền nông nghiệp hàng hóa hướng vào
xuất khẩu.
Nông nghiệp nông thôn vừa phục vụ nhu cầu tại chỗ, nhu cầu trong
nước, vừa tham gia thị trường xuất khẩu. Theo hướng đó, phải phát triển
mạnh nền nông nghiệp hàng hóa hướng vào xuất khẩu, phải phấn đấu đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng về sản phẩm tiêu dùng, từ thị trường địa
phương vươn ra thị trường cả nước. Đối với xuất khẩu, cần nhanh chóng áp
dụng công nghệ chế biến hiện đại, tăng hàm lượng kỹ thuật và giá trị sản
phẩm, nâng cao sức cạnh tranh, phấn đấu thâm nhập, từng bước tạo chỗ
đứng vững chắc trên thị trường thế giới và khu vực, thu hút nước ngoài đầu
tư phát triển công nghiệp và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta.
Với tầm quan trọng đó tại Đại hội IX Đảng ta đã chỉ rõ: "Phát triển mạnh
công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn hình thành các khu vực tập trung công
nghiệp, các điểm công nghiệp nông thôn, các làng nghề gắn với thị trường
trong nước và xuất khẩu"[6, tr. 172].
Hiện nay, công nghiệp hóa nông nghiệp đang là nhu cầu cấp bách
để nâng cao giá trị hàng hóa nông sản, tăng năng suất lao động, phân công
lại lao động xã hội nông thôn nước ta. Chúng ta đang phải xuất khẩu hầu
hết dưới dạng thô, với giá rẻ, lại phải nhập rất nhiều vật tư kỹ thuật, hàng
hóa công nghiệp, vừa mất việc làm vừa giảm thu nhập. Trong khi đó, nhiều
năng lực sản xuất, nhiều nguồn lực chưa được huy động để đẩy mạnh quá
trình công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy để đẩy mạnh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cần phát triển
mạnh nền nông nghiệp hàng hóa hướng vào xuất khẩu, bằng cách khuyến
khích và khôi phục, phát triển các ngành nghề truyền thống, nâng cao độ
8
tinh xảo, tính dân tộc độc đáo trong các chủng loại mặt hàng. Đồng thời,
mở mang nhiều ngành nghề mới ở nông thôn, kết hợp cùng với phát triển
các ngành nghề kinh tế mũi nhọn như: chăn nuôi, trồng trọt. Đặc biệt là
công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản là một trọng tâm phát triển công
nghiệp tại nông thôn theo hướng chung là sơ chế tại chỗ và tinh chế tập trung.
Nông dân vừa là người cung cấp sản phẩm nông nghiệp cho thị
trường trong nước và xuất khẩu, vừa là người tiêu dùng đông đảo, với nhu
cầu ngày càng tăng, cả về khối lượng, chủng loại và chất lượng hàng hóa,
dịch vụ. Vì vậy nông thôn cung cấp sản phẩm cho thị trường, đồng thời
chính nông thôn là một thị trường rộng lớn mà các ngành sản xuất, dịch vụ
phải hướng vào phục vụ, đáp ứng cả về nhu cầu sản xuất lẫn tiêu dùng, cả
về vật chất cũng như văn hóa. Phát triển kinh tế nông thôn sẽ làm tăng sức
mua của nông dân, tạo động lực thúc đẩy các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Trong mấy năm trở lại đây, các mặt hàng nông nghiệp của chúng ta
đã có mặt trên các thị trường lớn như: châu á, EU, Trung Đông... nhiều mặt
hàng đã trở thành thế mạnh của chúng ta như gạo, nông sản... Xuất khẩu
nông, lâm, thủy sản năm 2000 đạt 4,3 tỷ USD, gấp hơn 1,7 lần so với năm
1995, bình quân hàng năm chiếm khoảng 30% kim ngạch xuất khẩu của cả
nước, đã tạo được ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực là gạo (đứng thứ 2 thế
giới), cà phê (đứng thứ 3) và thủy sản chiếm 34% trị giá kim ngạch xuất
khẩu toàn ngành: [6, tr. 225].
Cùng với việc hướng các sản phẩm nông nghiệp vào xuất khẩu,
chúng ta phải mở rộng quan hệ đối ngoại, phát triển hợp tác làm ăn với bên
ngoài, chúng ta ngày càng có thêm điều kiện tranh thủ nguồn vốn, tiếp thu
kỹ thuật và công nghệ, thúc đẩy cạnh tranh, mở rộng cho việc phát triển
công nghiệp nông thôn và công nghiệp phục vụ nông nghiệp.
Thứ ba, đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học công nghệ mới vào phát
triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn.
Nông thôn và miền núi có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng đối
với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Thực tế cho thấy
9
một trong những yếu tố có tính quyết định bảo đảm sự thành công của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là quá trình
áp dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học và công nghệ. Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương lần thứ 2 (khóa VIII) đã khẳng định: "Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa phải bằng khoa học và công nghệ, dựa vào khoa học và công
nghệ" [4, tr. 61].
Tiếp đến Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 (khóa VIII)
tiếp tục khẳng định: Tập trung sức cao hơn nữa cho nhiệm vụ phát triển
nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa làm cơ sở vững chắc cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội trong
mọi tình huống (trang 44). Vì vậy, nội dung cốt lõi của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tăng nhanh các ngành sản xuất có hàm lượng khoa học công nghệ cao, giá
trị gia tăng lớn. Thời gian qua khoa học công nghệ đã có đóng góp tích cực
vào phát triển sản xuất nông nghiệp.
Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, ước
tính 30 - 35% giá trị gia tăng của sản xuất lương thực là do đóng góp của
khoa học công nghệ. Nhiều tiến bộ khoa học công nghệ được nông dân tiếp
thu nhanh. Các viện, trường đã huy động lực lượng nghiên cứu giải quyết
các vấn đề khoa học công nghệ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp hóa nông thôn.
Trong nhiều kế hoạch 5 năm các hoạt động khoa học công nghệ đã
hướng vào phục vụ nông nghiệp và nông thôn, các chương trình cấp nhà
nước, đề tài cấp bộ đã tập trung vào giải quyết một số nội dung như: các
giống cây, con, phương pháp nuôi, trồng tiên tiến, xây dựng các mô hình
chuyển giao công nghệ, tiến bộ kỹ thuật phù hợp với điều kiện nông thôn,
miền núi, đưa công nghệ mới vào để phát huy thế mạnh về cây công
nghiệp, dược liệu, chăn nuôi... đưa công nghiệp chế biến vào nông thôn, tạo
nên sản phẩm hàng hóa, nâng cao dân trí, đào tạo nghề nghiệp.
10
Các viện, trường đã đưa lực lượng khoa học công nghệ về nông
thôn hướng dẫn nhân dân ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển giao công
nghệ. Ngành nông, lâm, thủy sản tính đến cuối năm 1998 đã có 31 cơ quan
khoa học công nghệ, trong đó có 19 viện và trung tâm nghiên cứu thuộc bộ,
4 viện và 8 trung tâm nghiên cứu thuộc các tổng công ty. Có 2 trường Đại
học lâm nghiệp, 2 trường Đại học thủy lợi, 6 trường Đại học nông nghiệp,
1 trường Đại học thủy sản. Số cán bộ nghiên cứu khoảng 7000 người (trên
đại học 510 người, đại học 3.700 người. Đây là lực lượng không nhỏ, đã có
những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn:
- Trong lĩnh vực trồng trọt:
Việc áp dụng đồng bộ các kỹ thuật tiến bộ như: thay đổi các cơ cấu
mùa vụ, cơ cấu giống cây trồng, cơ cấu sản xuất các giống mới có năng
suất cao, thích hợp với các điều kiện sinh thái, chống sâu bệnh... góp phần
vào việc nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng, đa dạng hóa các sản
phẩm trồng trọt. Nổi bật trong lĩnh vực này là giống cây trồng. Từ năm
1991, khoảng gần 100 giống cây trồng mới đã được công nhận là giống
quốc gia và đã được áp dụng rộng rãi trong sản xuất nông nghiệp trên phạm
vi cả nước.
- Trong lĩnh vực chăn nuôi:
Với kỹ thuật, tiến bộ về giống vật nuôi như giống lợn lai, lợn nạc,
bò sữa... các tiến bộ về thức ăn, biện pháp nuôi dưỡng, cũng như thú y đã
góp phần đáng kể trong việc đẩy tốc độ gia tăng giá trị của tổng sản phẩm
chăn nuôi nhanh hơn trồng trọt trong những năm gần đây và phục vụ cho
việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng đưa sản xuất chăn nuôi
thành một ngành chính cân đối hơn trong cơ cấu nông nghiệp.
- Trong lĩnh vực cơ giới hóa nông nghiệp và chế biến nông, lâm,
thủy sản:
Tuy chưa làm được nhiều và những đóng góp của khoa học công
nghệ trong lĩnh vực này chưa có khả năng góp phần làm thay đổi cục diện
11
cũng như giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp, song các công nghệ
thích hợp, được áp dụng ở các mức độ khác nhau đã bước đầu góp phần
vào việc gia tăng năng suất lao động, chất lượng của một số sản phẩm nông
nghiệp đã góp phần vào tốc độ gia tăng khá cao của giá trị tổng sản lượng
công nghiệp chế biến, đạt bình quân 9,85% trong những năm qua. Theo báo
cáo của Bộ Khoa học công nghệ và môi trường, từ năm 1991 đến năm 1998
đã có 114 dự án của chương trình khoa học công nghệ phục vụ nông thôn
và miền núi. Nguồn tài chính được huy động khoảng 135 tỷ đồng. Lực
lượng cán bộ khoa học công nghệ được huy động khoảng 1.700 người,
phần lớn là cán bộ của viện nghiên cứu và trường đại học. Bên cạnh đó còn
nhiều chương trình như: phủ xanh đất trống, đồi núi trọc (327), xóa đói
giảm nghèo, khuyến nông... với kinh phí đã thực hiện lên tới 1.835 tỷ động.
Với các chương trình này, bộ mặt nông thôn đã được đổi mới.
Tuy vậy, nhìn chung mấy năm vừa qua sự phát triển của khoa học
công nghệ trong nông nghiệp, nông thôn vẫn còn chậm. Vai trò, động lực
và tiềm năng to lớn của khoa học công nghệ đối với phát triển nông nghiệp
và nông thôn chưa được phát huy. Nhiều mô hình tốt về khoa học công
nghệ chưa được nhân rộng, lực lượng khoa học công nghệ chưa được huy
động tốt vào phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Vì vậy tại Đại hội IX Đảng ta nhấn mạnh: "Trong nông nghiệp tập
trung nghiên cứu ứng dụng để có bước đột phá về giống cây, con có năng
suất và giá trị cao, nghiên cứu và đưa vào ứng dụng tốt công nghệ sinh học,
công nghệ bảo quản sau thu hoạch, công nghệ chế biến nông sản [6, tr. 295].
1.1.2. Những yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
vùng dân tộc thiểu số và miền núi
Sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đã và đang đặt ra những yêu cầu
mới cho nông nghiệp, nông thôn nói chung và nông nghiệp, nông thôn
miền núi, vùng dân tộc thiểu số nói riêng. Những yêu cầu ấy đã được Đảng
và Nhà nước cụ thể hóa trong chính sách dân tộc, trên tất cả các lĩnh vực:
12
Về kinh tế: Phát triển kinh tế miền núi và vùng dân tộc thiểu số,
khắc phục, thu hẹp khoảng cách chênh lệch về trình độ kinh tế giữa các dân
tộc, các vùng.
Miền núi là một địa bàn rộng lớn, chiếm đến 3/4 diện tích tự nhiên
của nước ta. Những địa hình hiểm trở, bị chia cắt bởi núi cao, vực sâu, sông
suối khiến cho giao thông khó khăn, đó là một đặc điểm tự nhiên hạn chế
sự phát triển kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số. Do hoàn cảnh tự nhiên
và lịch sử, nền kinh tế của đồng bào miền núi mang nặng tính chất tự nhiên,
tự cấp, tự túc, kinh tế hàng hóa kém phát triển. Năm 1945 nước Việt Nam
dân chủ Cộng hòa ra đời, đến năm 1954 miền Bắc đi vào xây dựng chủ
nghĩa xã hội (CNXH) làm hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam. Công cuộc
xây dựng ở miền Bắc đã tác động sâu sắc tới sự phát triển của miền núi.
Nhiều tuyến giao thông ở Tây Bắc, Đông Bắc được mở mới. Núi rừng và
đồng bằng gần nhau hơn thông qua một hệ thống kinh tế được nhà nước tổ
chức chặt chẽ, thống nhất, trong đó các thành phần kinh tế quốc doanh và
tập thể là chủ yếu. ở miền núi, sản xuất công nghiệp do các doanh nghiệp
quốc doanh thực hiện, sản xuất nông nghiệp được hợp tác hóa, mạng lưới
thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán trải rộng để phân phối
hàng hóa cho cán bộ, nhân dân và thu mua nông, lâm sản.
Hàng hóa, sản phẩm được mua, bán theo giá chỉ đạo của Nhà nước,
được điều hòa theo giá cả thống nhất hoặc chỉ chênh lệch rất ít giữa miền
núi và miền xuôi. Người dân ở miền núi cũng có điều kiện mua hàng gần
như ở miền xuôi, nông sản hàng hóa làm ra được bán cho thương nghiệp
quốc doanh, đó thực sự là biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế của đồng
bào các dân tộc thiểu số.
Đại hội VI của Đảng đã vạch ra đường lối đổi mới, xóa bỏ cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật
khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế. Ba năm sau, một số chủ
trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội miền núi đã được Bộ
13
Chính trị quyết định trong Nghị quyết số 22. NQ/TW ngày 27-11-1989 và
sau đó, được đưa vào thực hiện. Thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX với Nghị
quyết 22 và các chính sách phát triển vùng miền núi đã đi vào thực tiễn
cuộc sống của các dân tộc thiểu số và đã đem lại thành tựu bước đầu rất
đáng khích lệ, đánh dấu một thời kỳ phát triển mới của kinh tế - xã hội nói
chung, kinh tế hàng hóa miền núi nói riêng.
Vượt qua những khó khăn, thử thách, đảng bộ và nhân dân các dân
tộc miền núi không ngừng phấn đấu đạt được nhiều tiến bộ trong sự nghiệp
phát triển kinh tế, từng bước phát huy các thế mạnh của mình, tạo ra những
vùng chuyên canh lớn, làm ra ngày càng nhiều nông, lâm sản xuất khẩu,
mở mang công nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp. Bộ mặt nông
thôn ở miền núi có chuyển biến rõ rệt, một số thị trấn, thị xã, điểm công
nghiệp lớn đã hình thành. Tuy nhiên, đánh giá tổng quát, trình độ phát triển
kinh tế - xã hội ở miền núi còn ở mức thấp. Kết cấu hạ tầng, đặc biệt là
đường giao thông ở miền núi, nhất là ở các xã vùng cao, xa xôi, hẻo lánh
còn kém phát triển và bị chia cắt, chưa thành các hệ thống thông suốt giữa
các vùng, kìm hãm mở mang giao lưu ở miền núi cũng như giữa miền núi
và miền xuôi. Bộ phận chủ yếu trong cơ cấu kinh tế là quốc doanh và tập
thể lại hoạt động kém hiệu quả. Đại bộ phận các hợp tác xã ở nông thôn
miền núi mang nặng tính hình thức, nhất là các hợp tác xã nông nghiệp
vùng cao, kinh tế hộ gia đình và các loại hình kinh tế hợp tác ở trình độ phù
hợp chưa được chú ý đúng mức. Thương nghiệp nhỏ, tương ứng với trình
độ sản xuất hàng hóa nhỏ bị phân tán thu hẹp, có nơi bị xóa bỏ. Trên nền
kết cấu hạ tầng và cơ cấu kinh tế như vậy, kết quả là không tránh khỏi kinh
tế tự nhiên và nửa tự nhiên còn chiếm tỷ lệ không nhỏ, kinh tế hàng hóa
chưa phát triển.
Từ thực trạng trên tại đại hội lần thứ IX của Đảng, Đảng ta chỉ ra:
"Tập trung đầu tư nâng cấp các quốc lộ: 6, 2, 3, 1, 70, 37, 4D, 279, 32, 42.
Khôi phục và nâng cấp các đường vành đai quốc lộ 4, N1, N2 để tạo ra
14
mạng lưới đường hoàn chỉnh cho cả vùng. Cải tạo đường thủy, nâng cấp
các cảng sông chuyên dùng như Vạn Yên, Hà Nội, Sơn La. Phát triển tuyến
hành lang biên giới trên cơ sở phát triển các đô thị gắn với kinh tế cửa
khẩu, nâng cấp các đường giao thông tới vùng biên quan trọng. Từng bước
xây dựng các vùng biên giới đủ mạnh để bảo vệ biên cương, đảm bảo quốc
phòng và an ninh.
Phát triển nhanh các loại hình dịch vụ, trước hết là thương mại, phát
triển mạng bưu chính - viễn thông an toàn, thông suốt, cấp điện, cấp nước,
xây dựng các trung tâm cụm xã, các đô thị trung tâm gắn với khu công
nghiệp, nâng cấp các cửa khẩu biên giới" [6, tr. 304].
Một yêu cầu quan trọng đối với thị trường miền núi là phải giữ ổn
định giá cả mặt hàng thiết yếu như muối ăn, dầu thắp sáng, thuốc chữa
bệnh... không để giá cả ở vùng cao, hẻo lánh tăng lên cho dù chi phí lưu
thông hàng hóa đến vùng đó cao. Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị đã đề ra
những chủ trương, chính sách lớn giải quyết một cách toàn diện vấn đề
phát triển kinh tế hàng hóa miền núi, giải phóng triệt để mọi năng lực sản
xuất, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, thực hiện tự do lưu thông, trao đổi mua bán, thỏa thuận trên thị
trường trong nước, mở rộng kinh tế đối ngoại.
Phát triển mạnh mẽ kinh tế miền núi là góp phần quan trọng bảo
đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Theo ý nghĩa đó, nhiệm vụ đẩy
mạnh sự phát triển kinh tế hàng hóa, tăng cường giao lưu giữa các dân tộc
thiểu số phải được coi là nhiệm vụ quan trọng. Là một trong những yêu cầu
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Về văn hóa: Giữ gìn, phát huy bản sắc tộc người trong nền văn hóa
Việt Nam thống nhất.
Đất nước Việt Nam có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều góp vào
sự hình thành sắc thái văn hóa chung của cả nước bằng những đặc trưng
15
văn hóa riêng độc đáo của từng vùng đất, đóng góp tích cực vào công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam thống nhất, đa dân tộc.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận diện những vùng văn hóa tộc người
thiểu số như:
Vùng văn hóa Tây Bắc nơi cư trú chính của các dân tộc: Thái,
Mường, H'Mông, Dao với các đặc trưng văn hóa của các làn điệu: khắp,
xòe Thái, nhảy khèn H'Mông, rượu cần.
Vùng văn hóa Đông Bắc, tiêu biểu là các văn hóa của dân tộc Tày,
Nùng, Dao, Sán chay với các làn điệu then, sli,... Có thể nói nền văn hóa
Việt Nam là sự phong phú, đa dạng của những sắc thái riêng biệt của văn
hóa các dân tộc ở nước ta.
Do đặc điểm lịch sử, các sản phẩm văn hóa các dân tộc thiểu số
Việt Nam có xu hướng hóa thân vào nền văn hóa dân gian của mỗi dân tộc.
Vì vậy, văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số tồn tại và phổ biến
chủ yếu ở văn hóa dân gian với các loại hình tiêu biểu như ngôn ngữ (nói
và viết), văn học, âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật, kiến trúc...
Dân tộc nào cũng có tiếng nói riêng là công cụ thực hiện giao tiếp
xã hội, gắn với sự hình thành và phát triển của mỗi dân tộc, thể hiện bản
sắc độc đáo của mỗi dân tộc. Chúng ta tự hào về một số dân tộc anh em, đã
sản sinh ra hệ chữ viết cho dân tộc mình từ khá sớm. Đó là chữ viết của dân
tộc Tày, Thái, Dao, Khơme, Êđê... được viết trên giấy và lá cây. Chúng ta
tự hào về kho tàng văn học dân gian đồ sộ của các dân tộc thiểu số. Mấy
chục năm qua, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc sưu tầm và
phổ biến văn học dân gian các dân tộc. Một số bộ sách quý được xuất bản
như sử thi: "Đẻ đất, đẻ nước" của dân tộc Mường "Chương Han, ẵm ệt
Luông" của dân tộc Thái, sử thi H'Mông... đã thực sự góp phần bồi đắp tâm
tư tình cảm con người Việt Nam.
Nói đến văn hóa các dân tộc thiểu số chúng ta không thể quên âm
nhạc và dân vũ. Múa hát đã ngấm vào máu thịt các thế hệ người dân tộc.
16
Các nhạc cụ dân tộc đã trở thành người bạn tâm tình của họ. Người Pà
Thẻn đắm mình trong múa nhảy lửa, bản làng người Thái sôi động trong
múa xòe vòng, múa sạp, chàng trai H'Mông nhảy cô, múa khèn...
Đối với mỗi dân tộc trên đất nước Việt Nam, chúng ta lại gặp rất
nhiều công trình kiến trúc tôn giáo, tòa tháp, nhà ở... Những cái đó đã trở
thành tài sản văn hóa của Việt Nam, có cái là tài sản văn hóa của nhân loại
như việc UNESCO công nhận khi di tích tháp Chàm ở Mỹ Sơn (Quảng
Nam) là di sản văn hóa thế giới. Văn hóa truyền thống còn biểu hiện ở các
sinh hoạt văn hóa như: lễ hội, cưới xin, tang lễ... hình thành nên thuần
phong mỹ tục và trở thành nếp sống đặc trưng của mỗi dân tộc.
Hiện nay, văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số ở nước ta
đang đứng trước những khó khăn thách thức:
- Một là: Xu hướng đồng hóa tự nhiên về văn hóa đang làm mai
một văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số.
- Hai là: Các thế lực phản động thực hiện âm mưu: "diễn biến hòa
bình" tác động vào văn hóa truyền thống các dân tộc.
- Ba là: Chưa căn bản đẩy lùi mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội và những
hủ tục lạc hậu ở một số dân tộc thiểu số.
- Bốn là: Nạn chảy máu cổ vật ra nước ngoài và sự xâm hại các di
tích lịch sử - văn hóa các dân tộc thiểu số.
Do đó để thực hiện tốt nghị quyết Trung ương lần thứ 5 khóa VIII
của Đảng, cần phải chú ý những nhiệm vụ sau:
- Giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa tộc người, nâng cao trình độ dân
trí, trình độ văn hóa cho cán bộ và nhân dân các dân tộc thiểu số.
- Xây dựng các thiết chế văn hóa phù hợp, phát triển văn hóa tộc
người trong mối quan hệ kết hợp truyền thống và hiện đại.
- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hoạt động trên lĩnh vực văn
hóa là người dân tộc thiểu số.
17
- Đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, chống "diễn biến hòa bình"
dưới nhiều hình thức, trong đó có cả hình thức lợi dụng: "giao lưu văn
hóa".
Về xã hội: Thực hiện công bằng xã hội, bình đẳng xã hội giữa các
dân tộc và trong nhân dân từng dân tộc - tộc người.
Nhận thức rõ vị trí và tầm quan trọng của vùng dân tộc thiểu số và
miền núi đối với sự nghiệp cách mạng chung của cả nước, Đảng và Hồ Chí
Minh đã chủ trương tăng cường chính sách đại đoàn kết dân tộc, xây dựng
và phát triển lực lượng cách mạng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chú
trọng đào tạo cán bộ dân tộc, vận động đồng bào các dân tộc đi theo cách mạng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã chỉ rõ:
"Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến
lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt các chính sách dân tộc, bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ, cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa. Chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy
bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc, thực hiện công
bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền xuôi và miền núi, đặc biệt quan
tâm đến vùng gặp nhiều khó khăn, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến.
Có chính sách ưu tiên trong việc đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số. Động
viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và
ở địa phương, khắc phục tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, đề phòng tư
tưởng dân tộc cực đoan" [6, tr. 127, 128]. Để thực hiện chính sách công
bằng xã hội, bình đẳng giữa các dân tộc. Đảng và Nhà nước ta ngày càng
có nhiều chủ trương, chính sách được cụ thể hóa trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng. Thực hiện triệt để quyền
bình đẳng mọi mặt giữa các dân tộc, tạo điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận
gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc thiểu số với
dân tộc đa số, đưa miền núi phát triển toàn diện, làm cho tất cả các dân tộc
tiến bộ, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
18
Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có sự
quan tâm rất lớn đến việc chăm lo, cải thiện đời sống đồng bào các dân tộc,
các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở vùng miền núi
nhằm: đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội theo hướng phát triển
kinh tế hàng hóa, thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
kết hợp với việc giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội ở vùng dân tộc
thiểu số và miền núi.
Ngày nay, nhân dân các dân tộc được tham gia ứng cử, bầu cử vào
các cơ quan nhà nước, từ Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, xã, huyện,
tỉnh đến Trung ương. Trong bộ máy chính quyền Đảng và các đoàn thể các
cấp đều có người thuộc các dân tộc thiểu số, hơn thế nữa, các thành phần
dân tộc thiểu số lại giữ cương vị chủ chốt như: Chủ tịch UBND xã, huyện,
tỉnh, giám đốc sở... tiêu biểu là đồng chí Nông Đức Mạnh, tổng bí thư, ủy
viên Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng...
Đến nay trong số 53 dân tộc thiểu số ở nước ta, có 26 dân tộc đã có
chữ viết. Song song với công tác đặt chữ mới cho các dân tộc. Nhà nước ta
cũng chủ trương cải tiến chữ một số dân tộc đã có chữ từ lâu, như chữ Tày,
Nùng, cải tiến chữ Thái, xây dựng bộ chữ dựa vào vần chữ cái la tinh...
Việc Đảng và Nhà nước ta tôn trọng tiếng nói dân tộc thể hiện rõ
trong công tác thông tin đại chúng. Đài tiếng nói Việt Nam và đài phát
thanh địa phương có một hệ thống các buổi phát thanh bằng các thứ tiếng
dân tộc như: Tày, Nùng, Thái, H'Mông... Một số địa phương đã xuất bản
các tờ báo bằng tiếng dân tộc, như ở Tây Bắc đã có báo bằng chữ Thái, ở
Lào Cai có báo bằng tiếng H'Mông... Một số ấn phẩm văn học được viết
bằng tiếng dân tộc và xuất bản bằng 2 thứ tiếng dân tộc và quốc ngữ.
Yêu cầu trên lĩnh vực xã hội hiện nay đòi hỏi các vùng dân tộc
thiểu số và miền núi thực hiện có hiệu quả các chính sách như: Chính sách
xóa đói giảm nghèo, chính sách tạo việc làm, chính sách đền ơn đáp nghĩa,
chính sách bảo trợ xã hội, các chính sách về kế hoạch hóa dân số, phòng
19
chống bệnh dịch, chống tệ nạn xã hội... thực hiện tốt các vấn đề về quản lý
xã hội - tộc người.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta
luôn xác định giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một nhiệm vụ có tính
chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân tộc. Đảng ta luôn đề ra chính sách đối với dân tộc là: Đoàn
kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc. Chính sách đại đoàn kết dân tộc
đã phát huy sức mạnh toàn dân, là một trong những nhân tố quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng và trở thành bài học kinh nghiệm quý báu của
Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
1.2. Thực hiện tốt công tác giáo dục - đào tạo, tạo nguồn động lực đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu
số
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về công tác giáo dục - đào tạo
Vấn đề con người là điểm xuất phát và sự giải phóng con người là
mục đích cao nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khi hình dung những nét đại
thể về xã hội tương lai, chủ nghĩa Mác - Lênin đã đặt con người vào vị trí
trung tâm, con người là chủ thể xây dựng, đồng thời là kết quả của sự phát
triển đó. Một luận điểm nổi tiếng của Mác tạo nên bước ngoặt cách mạng
trong việc nhận thức về con người đó là quan niệm về bản chất con người:
"Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng, cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các
mối quan hệ xã hội" [15, tr. 11]. Vì vậy trong chủ nghĩa Mác - Lênin cá
nhân và xã hội có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Do đó cả Mác,
Ăngghen, Lênin đều chú ý nhiều đến những vấn đề giải phóng xã hội, giải
phóng con người, đến những vấn đề phát triển cho mỗi cá nhân. Các ông đã
phác họa ra những nét chính của con người mới phù hợp với xã hội tương
20
lai: đó là những con người đã thực sự làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và
làm chủ bản thân, đó là những con người được phát triển toàn diện cả về
đức, trí, thể, mỹ. Chủ nghĩa Mác - Lênin còn khẳng định: Chính con người
đã sáng tạo ra lịch sử, làm nên lịch sử. Để có được những con người mới
ấy, công tác giáo dục - đào tạo đóng một vai trò rất to lớn. Theo Mác -
Ăngghen: "Công tác giáo dục sẽ làm cho những người trẻ tuổi có khả năng
nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn, làm cho
họ có thể lần lượt chuyển từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất nọ
theo nhu cầu của xã hội hoặc tùy theo sở thích của bản thân họ. Do đó,
công tác giáo dục sẽ làm cho họ thoát khỏi tình trạng một chiều mà sự phân
công lao động hiện nay đang buộc mỗi một người phải theo" [13, tr. 460].
Nhờ có giáo dục, con người mới có tri thức, nắm bắt được quy luật của tự
nhiên và xã hội, mới có khả năng để thực hiện năng lực làm chủ của mình,
hoàn thành vai trò chủ thể của quá trình phát triển của xã hội, bởi theo
Lênin: không thể xây dựng CNXH trên đất nước toàn những người mù chữ.
Tiếp thu những quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh - vị lãnh
tụ vĩ đại của chúng ta đã có những công lao to lớn trong việc giáo dục, đào
tạo con người mới, phù hợp với hoàn cảnh đất nước.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn luôn chăm lo đến việc giáo dục thế hệ trẻ, mở mang dân trí, coi đó như
là một điều kiện hết sức quan trọng để giải phóng con người, làm cho mỗi
con người thực sự được tự do và bình đẳng. Người viết: "Mọi người Việt
Nam muốn hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình phải có kiến
thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết
phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ" [16, tr. 36].
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc: "một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu" vấn đề giáo dục đã trở thành một mặt trận quan trọng.
Bởi vì: "Dốt nát cũng là kẻ địch, địch dốt nát giúp cho địch ngoại xâm.
Địch dốt tấn công ta về mặt tinh thần, cũng như địch thực dân tấn công ta
21
bằng vũ lực. Địch thực dân dựa vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu
dân" [17, tr. 50].
Theo Hồ Chí Minh, đào tạo thế hệ trẻ hôm nay cho tương lai đất
nước là vì lợi ích trăm năm của dân tộc, lợi ích lâu dài của đất nước. Tương
lai của đất nước phụ thuộc vào giáo dục, vào việc mang lại văn hóa cho
mỗi người, trước hết là cho thế hệ trẻ.
Từ chỗ xác định vai trò, vị trí quan trọng của giáo dục đào tạo
Người đã khai sinh ra nền giáo dục mới, tiến bộ, một nền giáo dục khoa
học, dân tộc, nhân dân, đại chúng. Người xác định rất rõ mục tiêu của giáo
dục - đào tạo: Học để làm việc, làm người làm cán bộ. Học để phụng sự
đoàn thể, giai cấp và nhân dân, tổ quốc và nhân loại. Học để tin tưởng; học
để tu dưỡng đạo đức cách mạng; học để hành, học tốt để lao động cho tốt;
để xây dựng nền công nghiệp và nông nghiệp tiên tiến...
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư t ưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục - đào tạo con người mới và phát huy truyền thống
hiếu học của dân tộc, cũng như những tinh hoa trí tuệ của nhân loại, trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương,
chính sách để nhằm không ngừng phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
Trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đứng trước những thời cơ và thử thách
mới, một câu hỏi đặt ra và phải làm gì, làm thế nào để đưa đất nước phát
triển mạnh, tránh nguy cơ tụt hậu. Đảng ta đã xác định: lấy phát triển giáo
dục - đào tạo và khoa học công nghệ làm khâu đột phá, và đầu tư cho giáo
dục là đầu tư cơ bản, quan trọng nhất cho sự phát triển toàn diện đất nước.
Hội nghị Ban chấp hành trung ương II (khóa VIII) đã nhấn mạnh: "Muốn
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng lợi phải phát triển giáo
dục - đào tạo phát huy nguồn lực con người, yếu tố để phát triển nhanh
bền vững [4, tr. 19].
1.2.2. Vai trò của công tác giáo dục - đào tạo trong công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số
22
Thứ nhất, giáo dục đào tạo nhằm nâng cao dân trí vùng dân tộc
thiểu số và miền núi
Trong những năm gần đây, các vùng dân tộc thiểu số và miền núi
nước ta đã có bước phát triển mới trên nhiều lĩnh vực. Cuộc sống của người
dân ngày càng được cải thiện, an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội
ngày càng được củng cố và tăng cường... Tuy vậy những thành tựu này mới
chỉ là những bước khởi đầu. Xét về cơ bản, vùng dân tộc thiểu số và miền
núi nước ta vẫn là khu vực chậm phát triển so với các vùng và khu vực
khác trong cả nước. Đặc biệt ở các tỉnh vùng cao phía Bắc, nơi sinh sống
của hơn 20 dân tộc thiểu số, địa thế núi non hiểm trở, điều kiện thiên nhiên
phức tạp, khó khăn ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội. Thêm vào đó đồng bào các dân tộc thiểu số còn rất hạn chế trong
việc nhận thức đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước, từ đó dẫn đến việc triển khai, thực hiện gặp nhiều khó khăn và
kém hiệu quả. Thực trạng này có một nguyên nhân cơ bản là trình độ dân
trí của đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng cao còn thấp. Vì vậy công
tác phát triển giáo dục, nâng cao dân trí cho đồng bào dân tộc thiểu số ở các
tỉnh miền núi, vùng cao là một trong những công tác có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng dân tộc thiểu số
hiện, nhằm đưa vùng này tiến kịp và hòa nhập với các vùng khác trên đất
nước.
Trong giai đoạn hiện nay, nhằm nâng cao dân trí cho đồng bào các
dân tộc thiểu số ở miền núi vùng cao. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách:
Một là, đầu tư phát triển giáo dục và nâng cao dân trí cho đồng bào
các dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi, vùng cao phải căn cứ vào vị trí địa
lý và tình hình phân bố dân cư ở khu vực này. Cụ thể như: Hệ thống
trường, lớp phải được đưa đến tận bản và coi đây như là một trung tâm văn
hóa - giáo dục bản làng, với mục tiêu thiết thực xóa nạn mù chữ.
23
Hai là, thực hiện chính sách trợ cấp toàn diện cho giáo dục ở các
vùng dân tộc thiểu số, miền núi cao, trước hết, cần thực hiện tốt nội dung
"hỗ trợ người nghèo về giáo dục". Cần ưu tiên phần lớn kinh phí cho các
tỉnh miền núi, vùng cao nhằm tạo điều kiện cho các em nghèo được đi học,
kích thích nhu cầu tới trường của các em.
Ba là, xây dựng và phát triển hơn nữa hệ thống các trường phổ
thông dân tộc nội trú, khuyến khích các con em dân tộc ít người đi học. Tạo
điều kiện cho các em học tập tốt, trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, bổ sung và
đào tạo giáo viên nhiệt tình, chuyên môn cao.
Bốn là, đầu tư vào dạy song ngữ cho học sinh. Đây là một việc khó
khăn, song nó giúp bảo tồn và phát huy văn hóa của từng dân tộc, mặt khác
nó giúp cho việc học chữ quốc ngữ hiệu quả hơn.
Năm là, bồi dưỡng nghiệp vụ và nâng cao trình độ cho các giáo
viên hiện đang công tác tại thôn, bản của đồng bào dân tộc ít người, thường
xuyên tổ chức đào tạo lại đội ngũ này.
Sáu là, đa dạng hóa các loại hình đào tạo nhằm huy động được tối
đa số lượng người tham gia học tập, mở rộng cơ hội học tập cho mọi người.
Phát triển giáo dục và nâng cao dân trí cho đồng bào các dân tộc
thiểu số ở các tỉnh miền núi, vùng cao là nhiệm vụ của tất cả các ngành, các
cấp, các lực lượng và tổ chức xã hội. Một mặt, phát triển giáo dục và nâng
cao dân trí ở các vùng đó phải trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện xóa đói, giảm nghèo... mặt khác phải đầu
tư cơ sở vật chất cho ngành giáo dục, có chế độ thỏa đáng đối với giáo viên
và học sinh nhằm khuyến khích cả thầy lẫn trò tham gia vào quá trình giáo
dục, góp phần thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,
trực tiếp là thực hiện tốt nghị quyết Trung ương 2 của Đảng (khóa VIII) về
giáo dục - đào tạo theo tinh thần: "Cùng với xã hội chủ nghĩa, giáo dục
được xem là quốc sách hàng đầu"
24
- Thứ hai: Giáo dục đào tạo nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác đào tạo, sử dụng cán bộ, xem
cán bộ là cái gốc của mọi việc. Do vậy việc đào tạo những cán bộ vừa giỏi
chuyên môn, vừa vững về chính trị là rất cần thiết.
Nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã chủ
trương phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo không những nhằm nâng cao
dân trí mà còn nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, nhất là ở
miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Bởi vì, cán bộ là những người đem chính
sách của Đảng, của chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành.
Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho chính phủ
hiểu rõ để đề ra chính sách cho đúng. Ngoài ra cán bộ là người hướng dẫn
nhân dân và quản lý địa phương làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, chấp
hành các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, bảo đảm sự lãnh đạo
thống nhất của Đảng. Đồng thời là người triển khai thực hiện các chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo
an ninh biên giới, phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện quyền bình đẳng,
đoàn kết các dân tộc... Cán bộ còn là người đi đầu tuyên truyền và động
viên đồng bào các dân tộc xóa bỏ những tập tục, tập quán lạc hậu đã tồn tại
lâu đời và giúp đồng bào phòng chống các tệ nạn xã hội và các tư tưởng
phản động bên ngoài. Cán bộ là lực lượng đảm bảo sự đoàn kết giữa các
dân tộc, chống lại các tư tưởng dân tộc lớn, tự ti dân tộc. Cán bộ còn là
những người lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của đồng bào để từ đó có
chính sách thích hợp. Cán bộ ngoài việc tổ chức, vận động quần chúng thực
hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. còn
là lực lượng kiểm tra và đôn đốc đồng bào thực hiện các chính sách đó.
Ngoài ra cán bộ còn giúp đồng bào học tập, mở mang kiến thức, giúp đồng
bào trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất...
25