Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Quan hệ giữa yếu tố tôn giáo và yếu tố thẩm mỹ trong những sáng tác văn học của Tuệ Trung Thượng sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.29 KB, 111 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





VŨ THỊ HẢI YẾN




QUAN HỆ GIỮA YẾU TỐ TÔN GIÁO VÀ YẾU
TỐ THẨM MỸ TRONG NHỮNG SÁNG TÁC
VĂN HỌC CỦA TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ





LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam






Hà Nội-2012


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





VŨ THỊ HẢI YẾN




QUAN HỆ GIỮA YẾU TỐ TÔN GIÁO VÀ YẾU
TỐ THẨM MỸ TRONG NHỮNG SÁNG TÁC
VĂN HỌC CỦA TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN KIM SƠN




Hà Nội-2012


4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài. 6
2. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu. 7
3. Mục đích, ý nghĩa của đề tài. 7
4. Lịch sử vấn đề. 8
5. Phương pháp nghiên cứu 10
6. Cấu trúc của Luận văn 11
CHƢƠNG 1: THIỀN VÀ VĂN CHƢƠNG TUỆ TRUNG THƢỢNG SĨ TRONG
BỐI CẢNH THIỀN VÀ VĂN CHƢƠNG ĐỜI TRẦN 12
1.1. Khái niệm về Thiền và thực tiễn của Thiền học 12
1.1.1. Khái niệm về Thiền 12
1.1.2. Vấn đề thực tiễn của Thiền học 13
1.2. Diện mạo của văn học Thiền Lý - Trần 15
1.2.1. Đội ngũ sáng tác 19
1.2.2. Khuynh hướng sáng tác của văn học Lý – Trần 21
1.2.2.1. Đề tài về cảnh giới giác ngộ 21
1.2.2.2. Về cách tu tâm dưỡng tính 26
1.3. Cuộc đời và những sáng tác văn chƣơng của Tuệ Trung Thƣợng sĩ 30
CHƢƠNG 2: THIỀN TRONG VĂN CHƢƠNG CỦA TUỆ TRUNG THƢỢNG SĨ 34
2.1. Quan niệm về Thiền trong sáng tác văn học của Tuệ Trung Thƣợng sĩ 34
2.2. Triết lý Thiền trong văn chƣơng của Tuệ Trung Thƣợng sĩ 36
2.2.1. Những phạm trù về bản thể luận thể hiện trong văn chương Tuệ Trung
Thượng sĩ 36

5
2.2.1.1. Triết lý về tâm không 36
2.2.1.2. Phạm trù chân như 42

2.2.2. Tu dưỡng luận hay chính là tư tưởng “hòa quang đồng trần” của Tuệ
Trung Thượng sĩ 51
CHƢƠNG 3: VĂN CHƢƠNG CHUYỂN TẢI THIỀN CỦA TUỆ TRUNG
THƢỢNG SĨ 57
3.1. Tƣ duy Thiền và tƣ duy thơ – tính phi lô gic của Thiền và tƣ duy trực
ngộ phi lô gic của thơ 57
3.2. Thi pháp thơ Tuệ Trung Thƣợng sĩ 59
3.2.1. Đề tài tôn giáo thể hiện trong thơ 59
3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính triết lý Phật giáo 67
3.2.3. Không gian và thời gian trong thơ Thiền Tuệ Trung Thượng sĩ 77
3.2.3.1. Không gian trong thơ Thiền Tuệ Trung Thượng sĩ 77
3.2.3.2. Thời gian trong thơ Thiền Tuệ Trung Thượng sĩ 80
3.3. Hình tƣợng và xúc cảm 83
3.3.1. Thiền gia là chủ thể trữ tình trong thơ 83
3.3.2. Xúc cảm của Thiền gia 94
KẾT LUẬN 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO 102
PHỤ LỤC 107





6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Văn học Lý - Trần từ lâu luôn là thách thức đối với giới nghiên cứu cả ở
nội dung cũng như là hình thức. Nó được các nhà văn, nhà thơ thể hiện qua
các tác phẩm của mình bằng những gam màu tôn giáo và những suy tư về
cuộc sống đương thời. Có thể nói đó là thời kỳ nở rộ của nền văn học viết

Việt Nam.
Thời Lý - Trần tư tưởng Phật giáo chiếm vị trí độc tôn và chi phối tới
những sáng tác văn học. Tư tưởng đó xuyên suốt trong những tác phẩm của
các Thiền sư với những nội dung về cuộc đời và thế sự. Một trong những tác
giả tiêu biểu của triều đại nhà Trần đó là Tuệ Trung Thượng sĩ. Chính ông đã
truyền tư tưởng Phật giáo vào trong thi phẩm của mình như một sức mạnh của
thái độ “cư trần lạc đạo”. Ông là người đầu tiên bàn tới những quan điểm “bất
nhị” và sự giải thoát con người ngay giữa cuộc đời hiện thực.
Tuệ Trung Thượng sĩ là người của dòng dõi vương triều, song ông có một
cảm quan về cuộc đời, và một cách sống của Thiền gia. Ông chịu ảnh hưởng
lớn của tư tưởng Phật giáo, nhưng những giáo điều và những luật định
nghiêm ngặt của Phật giáo không ràng buộc, bó chặt vào trong suy tưởng và
phong cách sáng tác của ông. Tuệ Trung Thượng sĩ – hình ảnh tự tại giải
thoát, “hòa quang đồng trần” đã trở thành một người tiên phong trong việc
“hòa lẫn” thế tục với Thiền.
Những sáng tác của Tuệ Trung Thượng sĩ là những bài ca mang âm
hưởng của tôn giáo, bộc lộ những suy tư về cuộc đời, về vô thường, chân như,
về cả cái tự tại siêu thoát trong hiện thực. Ông đã đem cái mới đến cho văn
chương Lý - Trần. Song cái mới đó được thể hiện ở sự hòa trộn giữa những
yếu tố thẩm mỹ và những yếu tố tôn giáo trong các sáng tác văn học của ông.

7
Những tác phẩm văn học của ông không bị khô cứng như những tác phẩm tôn
giáo khác, bởi trong đó thể hiện những cảm xúc và tâm tư riêng của Tuệ
Trung Thượng sĩ.
Vì những lý do trên chúng tôi nghiên cứu đề tài Quan hệ giữa yếu tố tôn
giáo và yếu tố thẩm mỹ trong những sáng tác văn học của Tuệ Trung Thượng
sĩ nhằm tìm hiểu sâu hơn về tư tưởng cũng như những giá trị nghệ thuật trong
sáng tác văn học của Tuệ Trung Thượng sĩ.
2. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu.

Đề tài tập trung nghiên cứu về Yếu tố tôn giáo và yếu tố thẩm mỹ trong
những sáng tác văn học của Tuệ Trung Thượng sĩ (chủ yếu là qua sáng tác về
thơ). Yếu tố tôn giáo chủ yếu thể hiện trên phương diện Thiền học, Thiền
tính.
3. Mục đích, ý nghĩa của đề tài.
Qua việc tìm hiểu tư liệu về cuộc đời, sự nghiệp, những tư tưởng của Tuệ
Trung Thượng sĩ thể hiện trong sáng tác văn học. Chúng tôi nghiên cứu đề tài
Quan hệ giữa yếu tố tôn giáo và yếu tố thẩm mỹ trong những sáng tác văn
học của Tuệ Trung Thượng sĩ với mục đích làm rõ hơn về giá trị tư tưởng
trong các tác phẩm của Tuệ Trung Thượng sĩ. Đồng thời khám phá về sự đan
xen, tác động qua lại giữa yếu tố tôn giáo và yếu tố thẩm mỹ trong mỗi tác
phẩm văn học để từ đó hiểu một cách chân xác và tổng quát về thái độ sống
của tác giả, về cảm quan sống của một Thiền gia nhập thế.
Từ mục đích đó, nghiên cứu đề tài chúng tôi mong muốn góp phần làm
phong phú tư liệu về Tuệ Trung Thượng sĩ. Qua đó làm nổi bật giá trị tư
tưởng cũng như nghệ thuật các tác phẩm của Tuệ Trung Thượng sĩ, đồng thời
mang lại những giá trị nhất định trong việc khơi mạch nguồn sáng tạo cho
những công trình nghiên cứu tiếp theo.

8
4. Lịch sử vấn đề.
Từ trước đến nay một số các công trình nghiên cứu về Phật giáo Việt
Nam, Phật giáo Lý – Trần đều đã đề cập tới nhân vật Tuệ Trung Thượng sĩ,
đã có một số công trình và bài viết về Tuệ Trung Thượng sĩ trên phương diện
tư tưởng, trong lĩnh vực văn học. Trong đó kể tới Kỷ yếu hội thảo khoa học
về Tuệ Trung Thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm
nghiên cứu Hán Nôm, (2000) [59]. Cuốn sách là tập hợp những bài nghiên
cứu về Tuệ Trung Thượng sĩ. Trong đó có những bài nghiên cứu thiên về
cuộc đời, về hành trạng, và những khám phá Tuệ Trung Thượng sĩ trên
phương diện đạo, về phương diện Thiền. Trong một số bài được đăng trong

kỷ yếu có bài “tinh thần tam giáo đồng nguyên qua một số bài thơ Tuệ Trung
Thượng sĩ “ tác giả Trần Thanh Đam đã trình bày về tư tưởng của Tuệ Trung
Thượng sĩ Trần Tung qua một số bài thơ trong hệ thống thơ của Tuệ Trung.
Hay bài “Chất Thiền Đại Việt trong thơ Tuệ Trung Thượng sĩ” của tác giả
Nguyễn Thị Thanh Xuân, ở bài viết này cũng đã chọn một số bài thơ của Tuệ
Trung phân tích và bình luận về chất Thiền, nhưng ở mức độ giới thiệu và
chưa đi vào phân tích cụ thể những triết lý hay Thiền ngữ trong đó. Và một số
bài nghiên cứu về vai trò của phái Thiền Trúc Lâm trong xã hội Việt Nam đời
Trần. Đồng thời những bài viết trong cuốn kỷ yêu cũng nêu ra được vai trò
của Tuệ Trung Thượng sĩ với của Thiền tông Việt Nam trong lịch sử phát
triển của dân tộc. Tuy nhiên trong số nhiều những bài nghiên cứu đó chưa có
bài nghiên cứu nào đi vào khai thác thi phẩm của Tuệ Trung Thượng sĩ dưới
góc độ tôn giáo và thẩm mỹ.
Luận án tiến sĩ Triết học của Nguyễn Đức Diện với đề tài Tư tưởng triết
học của Tuệ Trung Thượng sĩ [62] đã phân tích hoàn cảnh ra đời của những
tư tưởng triết học của Tuệ Trung Thượng sĩ. Trong công trình nghiên cứu này,
tác giả đã làm rõ về cuộc đời, sự nghiệp và những tác phẩm của ông trên

9
phương diện tư tưởng. Luận án cũng đã trình bày một cách có hệ thống quan
điểm về bản thể, thế giới hiện tượng, mối quan hệ giữa bản thể và thế giới
hiện tượng trong triết học của ông.
Lê Thị Thanh Tâm trong luận án Tiến sĩ Nghiên cứu so sánh thơ Thiền Lý
- Trần Việt Nam và thơ Thiền Đường Tống[42] cũng có những đánh giá phân
tích so sánh về một số bài thơ của Tuệ Trung Thượng sĩ với những nhà thơ
Đường Tống trên phương diện hình ảnh con người với những chuyến tiêu
dao, trên thuyền và hình ảnh con người tìm kiếm. Tác giả có trích dẫn và đánh
giá một số bài thơ của Tuệ Trung Thượng sĩ khi so sánh với Hoa Đình
Thuyền tử: “Tuệ Trung Thượng sĩ đời Trần thì khác hơn. Con thuyền của ông
là con thuyền ngao du, con thuyền trong cuộc chơi của mọi sóng gió, con

thuyền “chơi đùa với chân như”, “chơi đùa vơi hư không”. Với hệ thống thi
liệu này, tác giả cung cấp được phần nào trong cách nhìn về tiêu dao của Tuệ
Trung Thượng sĩ. Tuy nhiên đó chỉ là những so sánh giữa thơ Tuệ Trung
Thượng sĩ với thơ Thiền Đường Tống, tác giả không đi cụ thể những bài thơ
của Tuệ Trung.
Hoàng Văn Cảnh với luận án Tiến sĩ “Pháp bảo đàn kinh” và ảnh hưởng
của nó với các nhà Thiền học đời Trần [3] đã có những phân tích mang tính
hệ thống về sự ảnh hưởng của Pháp bảo đàn kinh đến tư tưởng và đối với
những sáng tác của Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng
sĩ. Tác giả đã phân tích ảnh hưởng đó trên phương diện tư tưởng. Đó là tài
liệu quan trọng trong việc nghiên cứu Tuệ Trung Thượng sĩ. Bởi Tuệ Trung
Thượng sĩ là một Thiền gia, và cuốn Pháp bảo đàn kinh của Huệ Năng, là
một trong những kinh điển của Thiền tông Trung Hoa, có ảnh hưởng vô cùng
lớn tới hệ tư tưởng của phái Trúc Lâm Yên Tử về thể tính, bản lai diện mục,
vô trụ, vô chấp, vô tướng. Và sự ảnh hưởng từ cuốn kinh điển đó mang tới
những cách nhìn đầy triết lý trong thơ của Tuệ Trung Thượng sĩ.

10
Những bài viết và tư liệu trên đã góp phần vào hệ thống nghiên cứu về
Tuệ Trung Thượng sĩ, tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu, hay bài viết
nào khai thác cụ thể về yếu tố tôn giáo và yếu tố thẩm mỹ trong những sáng
tác văn học của Tuệ Trung Thượng sĩ.
Với việc tham khảo tài liệu của các nhà nghiên cứu, cũng như những bài
viết về Tuệ Trung Thượng sĩ chúng tôi nghiên cứu đề tài Quan hệ giữa yếu tố
tôn giáo và yếu tố thẩm mỹ trong những sáng tác văn học của Tuệ Trung
Thượng sĩ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với việc lựa chọn nghiên cứu đề tài Quan hệ giữa yếu tố tôn giáo và yếu
tố thẩm mỹ trong những sáng tác văn học của Tuệ Trung Thượng sĩ chúng tôi
đã sử dụng Phương pháp Phân tích, tổng hợp. Dựa trên những tác phẩm văn

học cụ thể của Tuệ Trung Thượng sĩ, từ đó phân tích những giá trị nghệ thuật,
những hình tượng, và giá trị triết lý của Thiền học. Qua đó để đánh giá về tư
tưởng đồng thời qua đó khẳng định được trong thơ của Tuệ Trung Thượng sĩ
có những yếu tố tôn giáo và yếu tố thẩm mỹ.
Bên cạnh đó việc sử dụng phương pháp liên ngành trong đề tài nghiên cứu
này rất quan trọng và không thể thiếu. Tên đề tài thể hiện mối liên hệ giữa
lĩnh vực văn hóa học với văn học. Bằng những kiến thức về văn hóa học, tôn
giáo học cụ thể là về những khái niệm cơ bản của Phật giáo Thiền tông, dựa
trên nền tảng về tác gia văn học Tuệ Trung Thượng sĩ, chúng tôi tham chiếu
và phân tích trên góc độ văn học. Đó thể hiện tính liên ngành trong quá trình
nghiên cứu, và nhờ đó một tác gia văn học, một Thiền gia Tuệ Trung được lột
tả trên bình diện tư tưởng cũng như những nghệ thuật trong thơ ông.
Nghiên cứu đề tài về một tác giả văn học trong bối cảnh văn học đời Trần
việc đánh giá so sánh là không thể thiếu. Từ đó chúng tôi sử dụng phương

11
pháp so sánh để làm nổi bật hơn con người cũng như tư tượng nghệ thuật của
tác giả Thiền gia Tuệ Trung Thượng sĩ. So sánh những tác phẩm thơ văn của
ông với các tác phẩm của tác gia khác trong cùng thời đại để thấy sự giống và
khác nhau của Tuệ Trung Thượng sĩ với những thi nhân vừa là thiền gia,
không phải là Thiền gia khi làm thơ
6. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết Luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung đề
tài gồm 3 chương:
Chương 1: Thiền và văn chương Tuệ Trung Thượng sĩ trong bối cảnh Thiền
và văn chương đời Trần
Chương 2: Thiền trong văn chương Tuệ Trung Thượng sĩ
Chương 3: Văn chương chuyển tải Thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ


















12
CHƢƠNG 1: THIỀN VÀ VĂN CHƢƠNG TUỆ TRUNG THƢỢNG SĨ
TRONG BỐI CẢNH THIỀN VÀ VĂN CHƢƠNG ĐỜI TRẦN
1.1. Khái niệm về Thiền và thực tiễn của Thiền học
1.1.1. Khái niệm về Thiền
Samadhi: Định hay là Thiền định. Theo các nhà nghiên cứu, “Thiền” là
nói tắt, nói đầy đủ là Thiền na, phiên âm theo ngôn ngữ Ấn Độ, là Dhyna,
được dịch là tịch lự, trầm tư về một chân lý, một triết lý hoặc đạt đến chỗ ngộ
và in sâu trong tâm thức. Xung quanh khái niệm về Thiền, có nhiều ý kiến.
Tác giả Nguyễn Tài Thư, viết trong lịch sử Phật giáo Việt Nam: “Thiền là
phương pháp tự tỉnh, tự giác, tự ngộ, tự chứng. Đây là yếu tố hoàn toàn có
tính cá nhân, có tính cô đơn, tính triết lý sâu thẳm của con người đối với vũ
trụ. Sự giác ngộ và chứng đắc được ví như người uống nước lạnh, nóng tự
biết. Cái ngộ, cái biết ấy không thể nói cho ai thấy được” [49].
Hội thảo Tuệ Trung Thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam, Trần Trung

Phượng với bài viết Mạch Thiền trong văn hóa - tư tưởng Việt Nam viết:
“Thiền không phải là một hệ thống khái niệm có thể lĩnh hội được bằng lý trí
hoặc bằng phân tích khoa học. Diễn tả theo ngôn ngữ hình tượng (một cái hết
sức tương đối và hoàn toàn có tính chất biểu trưng), Thiền là một vòng tròn
không thể xác định được chu vi và chính vì thế có thể tìm thấy tâm điểm của
vòng tròn này ở bất cứ chỗ nào” [59].
Từ những khái niệm trên chúng tôi hiểu rằng Thiền là sự tu tập, tập luyện,
tập luyện thân tâm để đạt tới sự bừng sáng của trí tuệ. Để khái quát Thiền là
gì dùng lời của tác giả Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm, để hiểu hơn
những đặc tính của Thiền: “Những nhà tư tưởng Ấn Độ cho rằng, người thông
minh là người cả đời biết tập trung suy nghĩ, tư tưởng vào một cái. Nếu làm

13
được như vậy chắc chắn cuộc đời họ sẽ phát hiện, tìm ra được một cái gì đó
hữu ích. Việc tập trung tư tưởng này cũng giống như người ta tập trung ánh
sáng vào một điểm. Khi đó điểm sáng trở nên rất mạnh. Tư tưởng cũng vậy,
nếu biết tập trung, nó tạo nên được những sức mạnh mà người ta không bao
giờ ngờ tới. Các nhà bác học sở dĩ họ phát sinh ra cái này, cái kia là vì cả cuộc
đời họ cũng chỉ nghĩ về một vấn đề”[18].
1.1.2. Vấn đề thực tiễn của Thiền học
Thực tiễn của Thiền học là chuyên ngành nghiên cứu về phương pháp
Thiền định để con người đạt tới chứng ngộ. Các Thiền sư sử dụng những nghi
thức tu tập của đạo Thiền để mong cầu đạt tới cảnh giới giác ngộ, tìm kiếm
Niết bàn và khám phá về bản thể.
Triết lý nhà Phật quan niệm vũ trụ vốn là một cái “chân như”, “chân tính”,
hay “bản lai tính”, có tính chất hằng thường, không trái cũng không phải,
không xấu cũng không tốt, “vô thủy”, “vô chung”. Không có cái đầu cũng
không có cái cuối. Bản tính của sự vật vốn là tự tính, chẳng có cái “vô”, mà
cũng chẳng có cái “hữu”. Tất thảy mọi vật đều biến chuyển theo quy luật sinh
diệt, hoa nở rồi tàn, thời thế có thái có bĩ, con người sinh ra rồi cũng già và

chết đi cũng giống như cây cỏ, loài vật. Nếu xét về tự tính của sự vật các
Thiền gia Lý - Trần cho rằng bản thân con người cũng không nằm ngoài quy
luật đó, sống đúng với quy luật ắt hẳn không có buồn đau bi thương. Thiền
gia quan niệm không có khái niệm về “hư” cũng không có cái gọi là “thực”,
lúc mê thì cho là “thực” thì tỉnh thì nói là “hư”. Tất cả mọi biến chuyển có -
không đều do tâm vọng động mà ra, cái tâm tính đó chi phối tới con người, tới
hành động cũng như những sai trái của con người. Vốn mọi vật đều theo dòng
chảy tự nhiên, nắm bắt được sự vận động hằng thường hẳn con người đã tự
đốn ngộ được chân tâm của mình.

14
Nếu Thiên chúa giáo mang lại sự cuồng tín cho mỗi con chiên thì Phật
giáo mang tới con đường nhận chân bể khổ của đời người và tìm cách giải
thoát đường khổ đó cho con người. Nhưng tìm ra bể khổ ở Phật giáo không
dựa vào thần Phật mà ở chính bản thân bằng cách tu sửa, chứng ngộ. Tôn chỉ
của Thiền tông Lý - Trần theo đại thừa Phật giáo, sự quảng đại của thân tâm
và cách ứng xử với cuộc đời với con người. Với các Thiền phái Tì Ni Đa Lưu
Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và Trúc Lâm Yên Tử. Phật giáo Việt Nam
thời Lý - Trần, cụ thể là Thiền Trúc Lâm đã kế thừa và hình thành với những
kinh sách riêng mang tính chất một tôn giáo độc lập phù hợp với lòng người
với nhân quần. Thực tế Thiền học nghiên cứu về phương pháp Thiền định,
nhờ Thiền định mới tiếp cận được chân lý, giải thoát cùng với pháp môn đốn
ngộ “trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”. Theo quan niệm Phật giáo tất
cả những hiện tượng, những sự vật trên cõi nhân sinh này chỉ là hư ảo, không
có thật, mọi tên gọi khái niệm chỉ là giả danh. Tất cả đều từ tâm sinh ra. Tâm
động sinh ra vọng tưởng, tâm tĩnh thì hư vô, sắc không, sinh tử đều “không”.
Cái tánh không của vật thể, của thế giới khách quan hằng thường. Tánh
không, không phải là sự trống rỗng mà quay trở về với chính bản thể, bản
nguyên của tạo vật, trở về với nguồn cội. Thiền học, khai mở cho người ta
thấy thế giới chân như (tuyệt đối), một cảnh giới giác ngộ tự tâm. Tuy nhiên

Thiền học Lý - Trần bàn về một Niết bàn thực tại, không phải Niết bàn ở Tây
phương cực lạc như Tịnh độ, không cầu đạo, cầu Phật bên ngoài mà hướng
vào nội tâm con người. Phật nói rằng tất cả các chúng sinh đều có Phật tính,
chỉ cần quay trở về với Phật tính tự tâm hẳn nhiên sẽ thành Phật. Cuộc đối
thoại của Trần Thái Tông và quốc sư Phù Vân thể hiện rõ tư tưởng Phật tại
tâm. “Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm. Tâm lặng mà biết
gọi là chơn Phật. Nay bệ hạ nếu ngộ tâm này thì tức khắc thành Phật, Không
nhọc tìm cầu bên ngoài” [52].

15
Vấn đề tiếp theo mà Thiền học luôn đề cập tới đó là chuyện sinh tử, luôn
là đề tài trong các tác phẩm thi ca Thiền gia, vấn đề sinh tử là vấn đề vô
thường mà người mới học đạo luôn luôn truy tìm và đi lý giải điều đó, lý giải
về cuội nguồn của sự vật sinh ra, rồi mất đi, tìm về sự bắt đầu cũng như một
cái kết thúc. Tuy nhiên sinh tử đại sự là quan niệm của thường nhân, đau khổ
về sự ra đi của số kiếp, của đời người hay của một sự kết thúc nào đó. Phật
giáo cho rằng mọi hiện tượng luôn biến đổi và vận động theo trật tự của tự
tính, nó hằng thường như những gì vốn có, có khổ đau, có hoan hỉ ai lạc, cũng
đều do tâm khởi ra, thấy vui không cười, thấy buồn không khóc, đó mới đạt
đến sự chứng ngộ với chân tâm mình. Con người luôn nhầm lẫn và sự nhầm
lẫn đó cũng do tâm sai biệt mà ra người lầm mê cho rằng “sinh tử đại sự”.
Sinh cũng là giả sinh, tử cũng giả tử. Còn đối với các bậc Thiền sư đạt đạo
không có sinh cũng chẳng có tử, tất cả khái niệm đó chỉ là vọng tâm mà ra.
Trong cái quy luật sinh tử đó, con người chỉ là bước từ bến nọ sang bến kia,
chốn nào cũng khổ đau, chốn nào cũng an nhiên nếu người ta làm chủ được
tâm vọng động của mình thì lúc đó sinh tử trở lại bình thường, trở về đúng vị
trí của nó.
Thiền học thực chất là nghiên cứu về phương pháp Thiền định để chân
tâm tĩnh tại tìm đến giải thoát và giác ngộ. Thiền học cũng là nghiên cứu về
giáo lý đặc thù của Phật giáo, Thiền học Lý - Trần mang đến cho người học

những phương pháp đốn ngộ truyền thống và một tinh thần nhập thế siêu việt.
1.2. Diện mạo của văn học Thiền Lý - Trần
Xã hội thời Lý - Trần là xã hội kinh qua những biến cố và thăng trầm của
ngoại xâm cũng như nội loạn. Trước triều đại Lý, vào những năm đầu thế kỷ
X, với chiến thắng Ngô Quyền đã xóa sạch một nghìn năm bắc thuộc của dân
tộc đại Việt. Bằng việc khẳng định chủ quyền với phương Bắc, và một triều

16
đại hùng cường xuất hiện, Việt Nam tự đứng trên đôi chân và nền văn hóa đa
dạng của mình. Thời kỳ bắc thuộc, về lĩnh vực văn hóa không tránh khỏi sự
pha trộn, loại bỏ và ảnh hưởng của nước ta và phương Bắc. Tuy nhiên tinh
thần của đại Việt không lúc nào bị lu mờ trong sự kinh bang của nền văn hóa
khác. Lý Công Uẩn lên ngôi, đánh dấu mốc sử vàng bằng việc dời đô về
Thăng Long, tiếp đến là sự chuyển giao quyền lực có một không hai trong
lịch sử các triều đại phong kiến trong và ngoài nước là nhà Lý sang nhà Trần.
Một sự chuyển giao quyền lực tuy còn nhiều điều bàn cãi song cái được hơn
là cái mất. Trần Thủ Độ, con người tham vọng, chính sự tham vọng của ông
đã mở ra thời kỳ hoàng kim cho triều Trần, và sự thịnh vượng lâu bền của dân
tộc trong các đời vua Trần.
Thời kỳ này các dòng phái Thiền tông vào nước ta, thế kỷ thứ 6 Thiền sư
Tì Ni Đa Lưu Chi người miền Nam Thiên Trúc (Ấn Độ) đắc pháp với tam tổ
Tăng Xán ở Trung Hoa, qua Việt Nam truyền đạo, mở đầu cho dòng Thiền Tì
Ni Đa Lưu Chi vào Việt Nam “Đây là một Thiền phái rất có tính cách dân tộc
Việt Nam, vừa biểu lộ được sinh hoạt tâm linh siêu việt của Phật giáo vừa
biểu lộ được đời sống thực tế và đơn giản của quần chúng nghèo khổ”
1
. Dòng
Thiền Tì Ni Đa Lưu Chi tồn tại và phát triển từ năm 580 – 1216, truyền thừa
được 19 thế hệ, có những Thiền sư của Thiền phái này đã nhập thế tích cực
giúp đời: Thiền sư Định Không, Trưởng lão La Quý An, Thiền sư Vạn Hạnh,

Minh Không, Bảo Nghiêm… Khoảng 300 năm sau vào thế kỷ thứ IX, Việt
Nam xuất hiện đạo Thiền theo hướng Trung Quốc truyền qua, đó là dòng
Thiền Vô Ngôn Thông. Dòng Thiền Vô Ngôn Thông trải qua 15 thế hệ với 40
vị truyền thừa kể đến một số Thiền sư có ảnh hưởng lớn tới thời cuộc bấy giờ:
Định Hương, Khuông Việt, Viên Chiếu, Mãn Giác, Không Lộ, Thường
Chiếu… Đến thời Lý Thánh Tông, vị vua nằm mộng xây chùa Diên Hựu đã

1
Nuyễn Lang, Việt Nam phật giáo sử luận

17
thành lập Thiền phái Thảo Đường. Với sự ra đời và phát triển của ba dòng
Thiền, dân tộc Việt Nam được thừa hưởng những tinh hoa của tư tưởng Phật
giáo Thiền tông truyền vào kết hợp với tinh thần yêu nước, yêu dân, đoàn kết
tự cường. Những Thiền sư đại diện cho các dòng Thiền đó thể hiện tinh thần
Thiền tông với sự truyền giáo đến các đệ tử của mình bằng những bài thi kệ
nổi tiếng, những bài thi kệ đó tồn tại trong hệ thống văn thơ Việt Nam như
những tác phẩm văn học Phật giáo chói sáng của thời kỳ văn học Lý - Trần,
nó không chỉ mang ý nghĩa răn dạy, chỉ dẫn các đệ tử mà còn có giá trị nhân
văn sâu sắc, bên cạnh cảm thức tôn giáo của mỗi bài thi kệ là hồn cốt của dân
tộc Việt trong đó. Những bài thơ chứa đậm tinh thần Phật giáo cùng với văn
phong tính cách của người Việt tạo nên những nốt thăng, nốt trầm của bản
nhạc văn chương Thiền đại đồng thuần Việt. Đến thời Trần Nhân Tông, Phật
Giáo hoàn toàn trở thành quốc giáo, bởi chính vị hoàng đế minh tuệ này đã trở
thành Hương Vân Đầu Đà Trúc Lâm Yên Tử. Ngài được tôn xưng là Phật
Hoàng, bên cạnh những triết thuyết hoằng pháp thần dân, Phật Hoàng còn để
lại những bài thơ, bài phú mang chất Thiền tông rõ nét, trong những bài thơ
phú đó, tư tưởng tùy duyên, hòa quang đồng trần, vô sở đại, được ngài bộc lộ.
Để có được một Phật Hoàng của Trúc Lâm, không thể không nói tới người
thầy mà chính Trần Nhân Tông thừa nhận, có ảnh hưởng vô cùng lớn trong

con đường ngộ đạo của mình đó là Tuệ Trung Thượng sĩ. Tuệ Trung Thượng
sĩ - ngọn đuốc sáng của Thiền tông thời Lý - Trần.
Từ hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh ra đời của các dòng Thiền, thời đại Lý -
Trần với hệ tư tưởng xuyên suốt, trải dài một màu sắc Phật giáo. Không thể
phủ nhận trên con đường Phật giáo trở thành quốc giáo thì Nho giáo, Lão
Trang luôn song hành, đỉnh cao của sự dung hòa đó là hệ thống tam giáo đồng
nguyên, trong phương thức trị nước an dân của các bậc hoàng đế. Khi Phật
giáo chủ đạo, khi Nho giáo lên ngôi, nhưng những hệ tư tưởng ngoại bang đó

18
vào Việt Nam, đã hòa đồng trong dòng chảy của tinh thần yêu nước thương
nòi của người Việt. Không còn sắc diện của Phật giáo Trung - Ấn, không còn
Nho giáo, Lão giáo thuần Trung Hoa. Đến Việt Nam, kết hợp với cung cách
và tâm tính của người Việt, các luồng tư tưởng đó đã tồn tại theo âm hưởng
của văn hóa dân tộc Việt, đã tạo ra những thành tựu trong văn học. Kiều Thu
Hoạch khẳng định: “ Thiền sư Lý - Trần tỏ ra rất sở trường trong việc hình
tượng hóa giáo lý nhà Phật” [25]. Qua những bài thơ Thiền, những bài phú,
các Thiền sư vẫn dữ nguyên khí chất truyền đạo của mình, gợi mở cho người
tiếp nhận tự khai sáng tâm siêu việt của mình. Tuy nhiên trong một số những
bài thơ mang đậm chất Thiền tông, một số bài thơ vẫn có hơi hướng của Nho
- Lão. Sự kết hợp tinh tế đó, là sản phẩm đặc biệt mang tâm hồn của người
Việt.
Phải nói rằng trong giai đoạn Phật giáo nở nộ này, để trích cú ý nghĩa
những câu kinh, để truyền giảng về giáo lý của Phật giáo, với phương trâm
“dĩ tâm truyền tâm” hẳn chỉ có những câu thơ Thiền là hàm ý đủ nhất, vừa
ngắn gọn, vừa sâu xa, vừa nói hết được đạo lý lại không mắc vào sự diễn giải
dễ nhầm lẫn khái niệm. Văn học có vai trò đáng kể để các Thiền sư qua đó
bộc lộ tâm đạo của mình. Văn học giai đoạn này, có vai trò chuyên trở tư
tưởng của các Thiền gia tới người tiếp nhận, những câu thơ miêu tả về thiên
nhiên, về thế sự hay chính là bày tỏ tư tưởng thâm sâu của sự chứng ngộ, cách

tu tâm của bậc trí giả. Với bút pháp khi tả cảnh, khi gợi mở nội tâm, những
câu hỏi tu từ bỏ lửng. Giá trị thẩm mỹ trong mỗi bài thơ Thiền thể hiện qua
cảm xúc của thi nhân trước thiên nhiên vạn vật trước thời cuộc ví như “Thị đệ
tử” của Thiền sư Vạn Hạnh, “Ngôn hoài” của ngài Không Lộ, hay tiêu biểu có
“Cáo tật thị chúng”, Mãn Giác Thiền sư, “Cư trần lạc đạo” của Trần Nhân
Tông, và không thể không nói đến những bài thơ Thiền của Tuệ Trung
Thượng sĩ. Trong những bài thơ Thiền của Tuệ Trung Thượng sĩ nói riêng

19
của các Thiền sư Lý - Trần nói chung cảm thức tôn giáo hòa quyện với giá trị
nhân văn, vừa răn dạy người vừa giáo hóa nhưng không khô khan, nhẹ nhàng,
đơn giản sâu sắc, luôn đạt tới cảnh giới tột đỉnh của nhận thức để người tiếp
nhận tự khai ngộ.
1.2.1. Đội ngũ sáng tác
Tôn giáo là hệ thống giáo lý kinh điển, tuy nhiên những Thiền sư, các tác
gia văn học Lý - Trần bàn về hữu vô, sinh tử, niết bàn qua những áng văn thơ.
Trong mỗi bài thơ Thiền, thể hiện sự lắng đọng cảm xúc và truyền tải nhiều
luận đàm về cuộc sống. Đội ngũ sáng tác họ là ai? Là những nhà tu hành,
hoàng thân quốc thích hay những cư sĩ an bần lạc đạo. Tất cả họ đã mang tới
cho thơ văn Lý - Trần những sáng tác văn học tiêu biểu thể hiện hệ thống tư
tưởng cho cả thời đại về giáo lý về thẩm mỹ văn chương.
Người Việt Nam với bản lĩnh độc lập tự cường, cùng với tính uyển
chuyển của cư dân lúa nước phương nam, nên bất kỳ một học thuyết nào vào
Việt nam đều phục vụ đạo yêu nước yêu dân của dân tộc. Phật giáo khi vào
Việt Nam cũng ảnh hưởng và chịu sự chi phối của quy luật đó. Với tính cởi
mở, quảng đại quần chúng, với hệ thống giáo lý phá chấp triệt để, tinh thần
đốn ngộ tự tại, Phật giáo bắt gặp được những luồng tư tưởng vốn có, kết hợp
với tín ngưỡng dân gian, dung hợp với các hệ tư tưởng khác như Nho giáo,
Lão Trang tạo nên một diện mạo riêng cho đạo Phật Việt Nam. Phật giáo
Thiền tông thời Lý - Trần tạo cho mình một vị thế đặc biệt trong dòng chảy

lịch sử của dân tộc Việt. Sự du nhập Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Quốc với hệ
quả là các dòng phái, Vô Ngôn Thông, Tì Ni Đa Lưu Chi và Thảo Đường,
hình thành phát triển đã mở ra một thời kỳ nở rộ của Thiền tông, cùng hệ
thống các kinh điển truyền thừa các tác giả văn học Phật giáo xuất hiện với
những bài thi kệ nói lên sự vô chấp, giáo truyền sự đốn ngộ, và những nguyên

20
tắc của quy luật sinh tồn. Hệ thống những bài thi kệ đó, là sản phẩm tất yếu
của một thời kỳ Thiền tông đơm hoa.
Trong hệ thống văn học Việt Nam có thể nói, thời đại văn học Lý - Trần
là thời đại bùng nổ của các Thiền sư xuất gia và tại gia. Từ nhà tu hành đến
bậc quan lại, hoàng đế, tinh thần Phật giáo thấm sâu trong mỗi dòng tư tưởng
của họ qua các bài thi kệ. Tuy Phật giáo dường như đã trở thành một hệ tư
tưởng chính thống trong xã hội thời Lý – Trần, nhưng Nho giáo và Lão giáo
cũng không bị lu mờ. Thời kỳ này hiện tượng tam giáo đồng nguyên hiện tiền
rõ nhất, hòa quyện nhất và thông đạt nhất. Nho giáo với đặc quyền riêng của
mình vẫn giữ một vị trí tối cao trong phương pháp “trị an” của các hoàng đế
thời đó. Nho giáo có những tôn chỉ riêng trong hệ thống tư tưởng mà các vua
quan đời Lý – Trần sử dụng như một cách thức trị quốc, tuy nhiên để “an
dân” và hướng lòng dân theo thì các vua triều Lý đặc biệt là đến triều Trần
dùng Phật giáo để truyền bá tư tưởng của giai cấp thống trị. Những Thiền sư,
quốc sư ra giúp vua gây dựng cơ đồ như Vạn Hạnh, Khuông Việt, Mãn Giác,
Không Lộ, đến những đế vương Lý Thái Tông, Trần Thái Tông, Trần Nhân
Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ… Họ tiêu biểu cho những con người tham vọng
“giáo dân” bằng Phật giáo, và tìm đến một phương pháp chứng ngộ của riêng
mình. Hệ thống đội ngũ sáng tác giai đoạn này thể hiện thái độ yêu nước,
đoàn kết toàn dân. Tiên phong trong vấn đề này phải kể đến Thiền sư Vạn
Hạnh, người đã có công phò tá và lập ra triều Lý. Với những bài thơ, những
bài sấm vĩ thể hiện con mắt thông tường trước thời cuộc của ngài. Bài kệ : Thị
đệ tử, trước khi viên tịch, Thiền sư Vạn Hạnh đọc cho các đệ tử nói về sự sinh

diệt hằng thường, nói về cuộc đời thịnh suy, hay “Yết bảng thị chúng”, một
cách thông báo với toàn dân về sự sụp đổ của nhà Tiền Lê, và sự xuất hiện
của nhà Lý. Qua những bài sấm vĩ đó thấy được sự mẫn tuệ và nghệ thuật
chính trị của Thiền sư. Hay đến một loạt các tác gia văn học Lý - Trần tiêu

21
biểu cho tinh thần đoàn kết tự cường, xây dựng một quốc gia thanh bình trên
phương châm đạo và đời song hành. Thánh đăng ngữ lục là tác phẩm viết về
cuộc đời hành trì và tài năng của năm vị hoàng đế triều Trần, Trần Thái Tông,
Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông. Những vị
hoàng đế đó ngoài là năm vị vua sáng của dân tộc, họ còn là những nhà tu
hành người xuất gia, người tại thế, và là những nhà thơ nhà văn tiêu biểu của
dòng văn học Lý - Trần. Có thể nói những sáng tác như Khóa hư lục, Thiền
Tông chỉ nam tự, Cư trần lạc đạo,…và những bài thơ sáng tác thời kỳ này là
những tác phẩm tiêu biểu, và những luồng tư tưởng khác nhau song mục đích
cuối cùng đều muốn thể hiện niềm khao khát yêu chuộng hòa bình, sự an bần
lạc đạo, và khơi gợi giúp đỡ thị chúng bỏ bến mê tìm về bến giác. Đội ngũ
sáng tác văn học Phật giáo giai đoạn này đa nhân cách, phong phú về thể loại
cũng như loại hình, thể hiện những khát khao giao cảm với đời, và sự chứng
ngộ nhân tâm cũng như những thông điệp mang tính đại đoàn kết dân tộc.
1.2.2. Khuynh hướng sáng tác của văn học Lý – Trần
Nghiên cứu về khuynh hướng sáng tác văn học Phật giáo giai đoạn Lý -
Trần cần một hệ thống nhiều tư liệu cũng như khảo chú, tuy nhiên trong đề tài
luận văn này việc mô tả một số thể loại chỉ để minh chứng cho sự truyền tải
tư tưởng Phật giáo trong đó. Không chú trọng làm sáng rõ những thể tài như
những nội dung độc lập mang giá trị lịch sử. Chúng tôi chỉ nhằm mục đích
giới thiệu một số thể tài trong văn học Phật giáo Lý - Trần để thấy được sự
toàn diện trong hình thức sáng tác của các tác gia văn học giai đoạn này.
1.2.2.1. Đề tài về cảnh giới giác ngộ
Văn học là lãnh địa để thi nhân mang cảm xúc từ cuộc sống trở về với

cuộc sống. Đề tài tôn giáo là phạm trù rộng lớn đó là mảng triết thuyết kỳ bí
của cảnh giới giác ngộ. Đề tài tôn giáo được các Thiền nhân gợi mở trong

22
những vần thơ và ý thơ. Những phạm trù sinh - tử, sắc - không vốn là những
hình tướng không rõ ràng nhưng được các tác gia chọn làm đề tài bàn luận và
tốn không ít giấy mực. Thiền sư Viên Chiếu (999- 1090) viết “Nhưng nếu
nhận thức được rằng cái tâm là không, sắc tướng cũng là không, thì “sắc”, và
“không”, khi ẩn khi hiện, mặc nó đổi dời”
2
. Trong quan niệm Phật giáo Thiền
tông thì sinh tử, sắc không cũng là giả tướng. Hình tướng của sự vật theo
quan niệm Phật giáo không xác định, sắc - không, chỉ là giả tướng, nếu gọi
tên được sự vật thì sự vật ấy đã biến đổi rồi. Quan niệm bất nhị, thể hiện rõ
nhất qua tư tưởng của Tuệ Trung Thượng sĩ. Cảnh giới giác ngộ mà các Thiền
sư thể hiện trong thi kệ của mình, không phải một thế giới Niết Bàn cao xa
ngoài thực tại, không phải một thế giới huyễn hoằng thâm sâu, mà nó tồn tại
ngay trong lòng con người, tại tâm mỗi người. Thiền học chủ trương “bất lập
văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật, giáo ngoại biết truyền”
3
.
Thiền tông thời Lý - Trần nhu cầu thể ngộ hướng vào nội tại bản tâm để truy
tìm sự giải thoát. Quay trở về với bản tâm là kim chỉ nam mà Thiền tông
hướng tới, Thiền tông Lý - Trần chủ trương tìm về cái tâm nội tại, an tâm tự
tại tức là Phật. Phật không ở bên ngoài, mà trong mỗi con người đều có Phật
tính. Giác ngộ tức là khơi gợi được Phật tính của bản thân. Thiền học thời kỳ
này đã thể hiện được hết quyền năng của mình, quyền năng của sự sáng tạo.
Thị đệ tử (Vạn Hạnh) [47]
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Dịch: Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cối xanh tươi thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.

2
Thơ văn Lý - Trần, tập 1
3
Đàn Kinh - Huệ Năng

23
Bài thơ nói đến sự vô thường của cuộc đời con người cũng như của tạo
vật. “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô”. Nếu là xác thân trong triết lý của đạo
Phật cũng do tứ đại mà hợp thành (đất, nước, lửa, gió). Hợp thành rồi tan ra
theo quy luật của tự nhiên. Nói “thân” là “cuộc đời” thì cuộc đời con người
cũng như bóng chớp, hữu sinh hữu tử. Chỉ một chớp mắt là mọi thứ đều thay
đổi. “Vạn mộc xuân vinh thu hựu khổ”, mùa xuân cây tốt tươi, mùa thu héo
úa. Điều đó giống như quy luật sinh, tồn, một quy luật hằng thường bất biến
và sự vật luôn luôn vận động, biến đổi từ trạng thái này đến trạng thái khác.
Thuận theo tự nhiên con người sẽ không còn khổ đau. Nhưng con người mãi
luẩn quẩn trong vòng sinh tử, con người luôn bị chính mình o ép lấy thân, tâm
rộng mở của mình. Luôn sống trong thế giới u minh, luôn mê động trước tạo
cảnh mà không biết rằng mọi thứ chỉ là giả tạm của thế giới hiện thực. Cuộc
thịnh suy kia rồi cũng sẽ đến, thịnh suy của tạo vật, của sự việc cũng như giọt
nước trên đầu ngọn cỏ, mong manh, dễ tan trước bình minh, triều đại nào
cũng hưng vong rồi suy tàn, cây cối rồi cũng héo úa, cái mầm còn thì lại xanh
tươi, một vòng tuần hoàn luân hồi của đạo Phật. Nhưng con người luôn đau
khổ trước thịnh suy, trước úa tàn, đau khổ trước sinh tử. Con người luôn chỉ

nhìn thấy cái ngọn mà chưa biết cái gốc, chỉ nhìn thấy cái mất đi mà không
quan tâm tới vì sao lại mất đi. Vạn vật hữu sinh hữu diệt. Sinh diệt là chuyện
thường tình mà luôn hao tâm tới những điều tự tại hiện tiền đó. Thiền sư là
bậc đạt đạo, trong con mắt của họ, mọi thứ luôn đúng vị trí của nó, mọi thứ
nói có là có nói không là không, không bị mê lầm trong cái có ảo ảnh mà
cũng không bị luyến ái trong cái diệt tàn của sự vật. Chứng ngộ được những
điều tưởng như đơn giản đó, con người không còn khổ đau, con người không
còn bi ai. Song Phật đã dạy, con người vạn kiếp vẫn không thoát khỏi được
luân hồi, chỉ có ai nhận thức, tĩnh đạt thì mới bật được ra vòng sinh tử đó thôi.
Trong bài thơ “Thị đệ tử” nhà thơ nhắc cho đệ tử biết quy luật tuần hoàn tự tại

24
của vũ trụ của tạo vật, xung quanh từ điều nhỏ nhất hoa tàn, hoa nở, đến cuộc
thịnh suy của sơn hà xã tắc. Mọi thứ tuân theo quy luật tự nhiên, mọi thứ luôn
là ảo ảnh, không có thực chỉ có chân tâm là tồn tại. Cảm nhận từng ý thơ của
Thiền sư thấy được sự chảy trôi của không gian, thời gian, sự chuyển biến của
con người cũng như là thế sự. Thản nhiên trước quy luật sinh tồn đó, cũng là
lúc con người ta đạt được chứng ngộ của riêng mình.
Cáo tật thị chúng (Mãn Giác Thiền sư) [47]
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân lai bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng đáo
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Dịch: Xuân ruổi, trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười\
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua, sân trước một cành mai
(Ngô Tất Tố)
Cáo tật thị chúng là bài thơ đúc kết sự giác ngộ chân lý đạo Phật và những
rung động chủ quan của nhà thơ trước hình ảnh, màu sắc, âm thanh của thế
giới vật chất. Bài kệ là sự hòa hợp tuyệt vời giữa nội dung tôn giáo và nội
dung nhân văn, thể hiện tính bất phân giữa văn và triết trong văn học Thiền
tông thời Lý - Trần
4
. Bài thơ mở đầu với quy luật muôn đời và vòng quay bất
tận của tạo vật “Xuân khứ bách hoa lạc”. “Xuân lai bách hoa khai”. Một quy
luật hằng thường của triết lý nhà Phật. Song, con người ta luôn luôn lầm lạc
trong thế giới hỗn dung u minh của chính mình, ao ước và mong muốn cuộc

4
Theo “Thuyền uyển tập anh” bài kệ ra đời vào ngày 30 tháng 11 Hội Phong thứ 5 (1906)
sư lâm bệnh, gọi đệ tử đến đọc kệ . Bài kệ do Mãn Giác thiền sư làm không có tên, “Cáo
tật thị chúng” là đầu đề do Lê Quý Đôn đặt.

25
đời lúc nào cũng như mùa xuân tươi đẹp, nhưng mùa xuân rồi cũng tàn, hoa
cũng rụng.
“Sự trục nhãn tiền quá. Lão tòng đầu thượng đáo”. Hai câu thơ tiếp tác giả
nói tới quy luật sinh lão bệnh tử của con người. Năm tháng qua đi, mọi việc
cứ thế tiếp diễn. Cuộc đời con người như xuân, hạ, thu, đông, hết đông xuân
lại tới. Đó là vòng tròn luân hồi theo quan niệm của đạo Phật. Nhận chân quy
luật đó, tự tại an nhiên với thực tại con người sẽ không có khổ đau. Nhưng
con người luôn luôn đau khổ, sinh cũng khổ, diệt cũng khổ. Bởi vì không biết
sinh diệt là do tâm, do chính bản thân của mình, giác ngộ là khai ngộ được
thân tâm. Khi tâm khai ngộ thì ý thức về sinh tử là chuyện thường tình, lúc đó
con người còn gì khổ đau.

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Hai câu kết nhà thơ diễn giải một cách hết sức giản đơn nhưng thâm thúy
triết lý Phật giáo Thiền tông. Phật giáo Thiền tông chủ trương thế giới niết
bàn không ở đâu xa, mà ở trong thực tại. Con người hốt nhiên đốn ngộ là lúc
con người ở thế giới Niết bàn rồi. Điều mà Thiền học muốn hướng con người
đến không phải trông chờ vào một cõi niết bàn sau cái chết cũng không phải
là tìm cách thay đổi thực tại mà là thay đổi thái độ với chính hiện thực ấy. Hai
câu kết có hình ảnh “nhất chi mai”, cành mai luôn là biểu tượng cao quý trong
văn thơ nhạc họa, cành mai ở đây nở khi xuân đã tàn, hay chính là tâm đạt
đạo của nhà thơ nở giữa rừng úa tàn của mùa xuân tạo vật. Đó là cái tâm an
nhiên tự tại của bậc đạt đạo, vượt lên trên sinh diệt. Nhành mai còn thể hiện
vẻ đẹp tâm linh bất diệt theo quan niệm đạo Phật.
“Cáo tật thị chúng” là thi phẩm độc đáo thể hiện niềm tin mãnh liệt của
Thiền sư về sự lạc quan trong cuộc sống. Bài kệ là tác phẩm trác tuyệt nêu lên
xu thế thời đại và cảm thức tôn giáo đã hòa quyện vào nhau đưa bài thơ tiến

26
xa hơn mục đích ban đầu của nó là đúc kết giáo lý Phật giáo nhằm răn dạy
chúng đệ tử.
Thiền sư Vạn Hạnh tiêu biểu với Thị đệ tử thì Mãn Giác Thiền sư nổi
tiếng với Cáo tật thị chúng, Trần Nhân Tông với Cư trần lạc đạo phú, Không
Lộ Thiền sư với Ngôn hoài… bênh cạnh đó một loạt các tác giả văn học Lý -
Trần lấy đề tài về cảnh giới giác ngộ mà “Thiền uyển tập anh” đã dẫn.
Cảnh giới giác ngộ là đề tài bất tận trong các thi kệ của các Thiền gia,
xuất gia cũng như tại gia. Người học đạo đau đáu trước việc khai ngộ chân
tâm, phải khai ngộ được bản tâm vi diệu của mình, lúc đó mới tường tận vén
được tấm màn u minh, mới giúp đời, truyền đạo. Nói tới cảnh giới giác ngộ,
là nói tới thế giới chân như, một sự tuyệt đối trong nhận thức của các tác giả
Thiền gia. Nhiều bài thơ trong hệ thống văn học Phật giáo Lý - Trần đã thâu

tóm được đủ nhất về đề tài giác ngộ, song những bài thơ lấy đề tài Phật giáo
đó không nói cụ thể thế nào là sự giác ngộ, mà qua lời thơ, cấu tứ, hình ảnh có
khi chỉ là âm thanh, các bậc Thiền sư nói với đệ tử, từ đó các đệ tử tự khai
ngộ.
1.2.2.2. Về cách tu tâm dưỡng tính
Các Thiền sư đã sử dụng văn học làm phương tiện truyền tải nội dung,
qua ngôn từ và câu chữ những ngụ ý về cách tu tâm dưỡng tính lộ diện trong
muôn màu cuộc sống. Nói đến cách tu tâm, dưỡng tính hẳn khái niệm gần
giống của Nho giáo. Nho giáo chủ trương “sửa mình”, “sửa” để trở thành
người quân tử hoàn thiện. Sự hoàn thiện đó bao bọc trong tam cương ngũ
thường, luôn sống theo khuôn phép, không vượt qua khuôn phép của bản
thân. Sự đúng mực hay mẫu mực trong Nho giáo khác với trong Phật giáo, cụ
thể trong cách tu Thiền của các Thiền gia. Chủ trương “sống Thiền” được các

×