Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc (Qua các tác phẩm của Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy và Nguyễn Huy Thiệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.92 KB, 86 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN




NGUYỄN MINH TRƯỜNG



TRUYỆN NGẮN VỀ ĐỀ TÀI DÂN TỘC MIỀN NÚI
PHÍA BẮC (QUA CÁC TÁC PHẨM CỦA CAO DUY SƠN,
ĐỖ BÍCH THÚY VÀ NGUYỄN HUY THIỆP)


CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
MÃ SỐ: 60.22.32




LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC




Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS ĐOÀN ĐỨC PHƯƠNG







HÀ NỘI - 10/2009





3

MỤC LỤC
Phần mở đầu

1. Lý do chọn đề tài……………………………………………
1
2. Lịch sử vấn đề ………………………………………………
3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu …………………………………………
7
4. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………
8
5. Mục đích, ý nghĩa đóng góp của luận văn ……………………………
8
6. Cấu trúc luận văn ……………………………………………………….
9
Nội dung


Chương 1: Truyện ngắn về để tài dân tộc miền núi phía Bắc trong
bức tranh truyện ngắn đƣơng đại ……………………………………….

10
1.1. Truyện ngắn và những sự đổi mới trong điều kiện xã hội đương đại
10
1.1.1 - Những chuyển biến về nội dung, khuynh hướng phản ánh …….
10
1.1.2. Khả năng mới trong việc thể hiện con người ……………………
16
1.1.3. Sự phong phú về hình thức nghệ thuật …………………………
18
1.2. Truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc - những bức tranh
sinh động về không gian văn hóa và cuộc sống …………………………

22
1.2.1. Khái quát về khu vực miền núi phía Bắc ………………………
22
1.2.2. Truyện ngắn về đề tài vùng núi phía Bắc và vấn đề truyền thống
- hiện đại …………………………………………………………………

25
1.2.3. Những nét chấm phá về bức tranh đời sống văn hóa vùng núi
phía Bắc ……………………………………………………………………

36
Chương 2: Hình tƣợng cuộc sống và con ngƣời miền núi phía Bắc qua
truyện ngắn của Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Huy Thiệp

40

2.1 - Thế giới thiên nhiên ………………………………………………….
42
2.1.1 - Thiên nhiên kỳ vĩ, nguyên sơ và bí hiểm ……………………….
42
2.1.2 - Thiên nhiên, “người bạn lớn” giao hòa với cuộc sống con người
45
2.2 - Thế giới nhân vật …………………………………………………….
50

4
2.2.1 - Hình tượng những già làng, trưởng bản ………………………
52
2.2.2 - Hình tượng tuổi trẻ và tình yêu …………………………………
55
2.2.3 - Hình tượng người phụ nữ dân tộc thiểu số ……………………
57
2.3 - Những đặc trưng văn hóa, phong tục ………………………………
59
2.3.1 - Sự tương tác giữa văn hóa - văn học ……………………………
59
2.3.2 - Bức tranh về môi trường sống ………………………………….
61
2.3.3 - Đặc trưng văn hóa của người vùng cao ………………………
66
Chương 2: Hình thức thể hiện …………………………………………
70
3.1 - Kết cấu ……………………………………………………………….
71
3.1.1- Nghệ thuật dùng chi tiết …………………………………………
71

3.1.2 - Nghệ thuật tạo tình huống ………………………………………
73
3.1.3 - Tính chất cốt truyện …………………………………………….
75
3.2 - Nghệ thuật trần thuật …………………………………………………
76
3.2.1 - Người kể chuyện ………………………………………………
76
3.2.2 - Nghệ thuật miêu tả nhân vật ……………………………………
76
3.3 - Ngôn ngữ và giọng điệu ……………………………………………
77
3.3.1 - Ngôn ngữ dung dị, độc đáo ……………………………………
77
3.3.2 - Giọng điệu trần thuật khách quan, đa diện về điểm nhìn ……….
77
Kết luận ………………………………………………………………….
79
Tài liệu tham khảo …………………………………………………….
81









5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học viết về đề tài dân tộc miền núi nói chung, khu vực miền núi
phía Bắc nói riêng từ sau thời kỳ đổi mới đến nay đã có những bước phát
triển mạnh mẽ, đáp ứng được phần nào nhu cầu thưởng thức của độc giả.
Nhìn lại quá trình vận động và phát triển của văn học, ta thấy rằng đội ngũ
các nhà văn tham gia sáng tác về đề tài dân tộc thiểu số miền núi nói
chung, mảng đề tài về dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng xuất hiện ngày
càng đông đảo. Nếu như trước đây chỉ có rải rác một số cây bút là người
dân tộc như Hoàng Văn Thụ, Nông Minh Châu, Nông Quốc Chấn (dân tộc
Tày), Bàn Tài Đoàn (dân tộc Dao), Cầm Biêu, Hoàng Nó, Lương Quy
Nhân (dân tộc Thái) và một số cây bút người Kinh như Tô Hoài, Nam Cao,
Nguyễn Huy Tưởng, Trung Trung Đỉnh, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy
Thiệp thì hiện nay đã xuất hiện thêm hàng trăm nhà văn thuộc nhiều dân
tộc khác nhau cùng khai thác mảng đề tài này. Đại diện cho thể loại văn
xuôi có Cao Duy Sơn (dân tộc Tày - Cao Bằng), Sa Phong Ba (dân tộc Thái
- Sơn La), Địch Ngọc Lân (dân tộc Nùng - Yên Bái), Hà Thị Cẩm Anh
(Mường - Thanh Hóa), Đoàn Hữu Nam, Đỗ Bích Thúy (Kinh)
Những năm gần đây, trong hệ thống các giải thưởng của Hội Liên hiệp
Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam chúng ta thấy có
khá nhiều tác phẩm văn học viết về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc đã
giành được những giải thưởng cao, được dư luận xã hội đón nhận nồng
nhiệt. Đơn cử như: tập thơ Đêm bên sông yên lặng, Chia trứng công của
Dương Thuấn (giải B Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm
2005, 2006); tập thơ Ngược gió của Y Phương (giải B năm 2006); tiểu
thuyết Đàn trời của Cao Duy Sơn (giải B năm 2006); tập truyện ngắn Tiếng
đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích Thúy và Cơn mưa hoa mận trắng của
Phạm Duy Nghĩa (đồng giải B năm 2006); tập truyện ngắn Ngôi nhà xưa


6
bên suối của Cao Duy Sơn (giải B năm 2008) Có thể nói, những tác phẩm
văn học này đã thực sự góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần
của người dân trên các làng bản vùng cao, trở thành nhân tố quan trọng
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng tài năng và những trải nghiệm
của mình, đội ngũ những tác giả tâm huyết với đề tài dân tộc miền núi phía
Bắc đã cho ra đời những tác phẩm hay, có nội dung lành mạnh, mang tư
tưởng nhân văn cao.
Thế nhưng, có một thực tế đáng trăn trở hiện nay là những tác phẩm văn
học viết về đề tài văn học dân tộc miền núi nói chung, đề tài dân tộc miền
núi phía Bắc nói riêng dù được giới chuyên môn đánh giá cao nhưng lại có
ít độc giả quan tâm, tìm đọc và hơn nữa hoạt động nghiên cứu về đối tượng
này vẫn còn để ngỏ, có chăng chỉ là những bài viết phê bình nhỏ lẻ đăng
trên các tờ báo chuyên ngành, thiếu hẳn tính toàn diện, hệ thống, chưa
tương xứng với đóng góp của đội ngũ các nhà văn đối với nền văn học
nước nhà. Từ những luận cứ đó, chúng tôi thấy rằng, việc dành thời gian
nghiên cứu các tác phẩm viết về đề tài dân tộc miền núi là nhiệm vụ cấp
thiết để làm sáng tỏ một số vấn đề lí luận về quan niệm nghệ thuật, cảm
hứng sáng tác, đề tài, chủ đề của các nhà văn.
Hơn nữa, việc nghiên cứu hệ thống văn học nói chung, các tác phẩm
truyện ngắn nói riêng về đề tài dân tộc miền núi còn mang ý nghĩa thời sự
thực tiễn nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Đảng và Nhà nước đang dành
rất nhiều quan tâm đến sự phát triển mọi mặt của các khu vực miền núi cả
nước trong đó có khu vực miền núi phía Bắc. Với công trình nghiên cứu
này, mong muốn lớn nhất của chúng tôi đó là góp phần gợi ra một cách
nhìn đầy đủ hơn về bức tranh văn học đương đại nói chung, truyện ngắn về
đề tài dân tộc miền núi nói riêng. Hơn nữa, thông qua việc phân tích, nhận
xét về những truyện ngắn của cả 3 nhà văn, chúng tôi có thể đưa ra thêm
một số kiến giải mới về sự vận động và phát triển của thể loại này giữa
nhịp sống gấp gáp, hối hả của xã hội hôm nay.



7
2. Lịch sử vấn đề
Từ trước tới nay, các công trình, bài viết về truyện ngắn đề tài dân
tộc miền núi chưa nhiều, chưa phong phú, chưa đa dạng ở góc độ và
phương diện đề cập. Chỉ có một vài công trình được tiến hành bởi các nhà
nghiên cứu như Đó là những công trình thiên về tính chất tuyển chọn,
bình, điểm những tác giả tiêu biểu viết về mảng đề tài khá “hóc” này với
những nét tiểu sử, các tác phẩm chính và những truyện ngắn tiêu biểu. Bên
cạnh đó cũng có một số công trình viết dành riêng cho văn học miền núi
nói chung, truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng và đã
có những Hội thảo về văn học dân tộc thiểu số và miền núi (như vào dịp
tháng 4/2004 tại Sa Pa, Lào Cai ). Tuy nhiên, những nhận định, đánh giá
đó chỉ dừng lại ở những thế hệ thứ nhất (trước Cách mạng tháng Tám), thứ
hai (trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ) còn đến thế hệ thứ
ba đương đại thì thực sự rất hạn chế. Chúng ta có thể kể kến một số công
trình như: Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại do GS. Phong
Lê chủ biên, NXB Văn hóa dân tộc, 1988 đã tập hợp 16 bài viết về 16 tác
giả dân tộc thiểu số ; Hợp tuyển thơ văn các tác giả dân tộc thiểu số Việt
Nam 1954 - 1980, NXB Văn hóa, 1981 đã tập hợp những tác phẩm tiêu
biểu của 44 nhà thơ, 11 nhà văn và 5 tác giả kịch - sân khấu…
Truyện viết về đề tài dân tộc miền núi ngay từ giai đoạn trước Cách
mạng tháng Tám (1945) đã được một số nhà nghiên cứu như Hoài Thanh,
Trương Tửu, Lê Tràng Kiều, Vũ Ngọc Phan quan tâm, khảo sát ở một vài
bình diện thuộc về nghệ thuật. Trong các công trình nghiên cứu cũng như
trên các phương tiện báo chí, truyện về đề tài dân tộc miền núi của những
tác giả như Lan Khai, Thế Lữ, Tchya, Lưu Trọng Lư được gọi bằng tên
“truyện đường rừng”. Trong tựa đề bài viết mang tên Ba nhà văn tả cảnh
đăng trên báo Loa, số 5/2935, nhà phê bình Trương Tửu đã gọi các nhà

văn viết “truyện đường rừng” là những “nhà văn mới mẻ” vì “đã cách
mệnh lối tả cảnh trong văn học Việt Nam hiện đại” ở nhiều bình diện và
trước hết là thể tài “các ông cùng rung động ngũ quan, sống bằng cảm

8
giác. Bởi vậy, các ông thích tả những cảnh cổ lỗ, những nhân vật thô sơ,
man dã. Tài liệu viết của các ông là rừng núi âm u, là Mán, Thổ, Sơn
Nhân”
Trên báo “Khuyến học” số 2 ngày 15 September 1935, trong bài viết
Tiểu thuyết và những nhà tiểu thuyết hiện nay, nhà nghiên cứu Lê Tràng
Kiều đã nhắc đến hàng loạt cây bút tiểu thuyết, trong đó đề cao “sự sáng
tạo mãnh liệt” của Thế Lữ và Lưu Trọng Lư ở thể tài dân tộc miền núi. Tác
giả đề cao tập “Vàng và máu” viết về miền núi “chứa chan thi vị” và rất
tâm đắc với “trí tưởng tượng rất dồi dào dám viết những cảnh thần tiên
huyễn hoặc” của Lưu Trọng Lư.
Tiếp đó, trong bộ sách Nhà văn hiện đại (1942), nhà nghiên cứu Vũ
Ngọc Phan cũng dành nhiều trang viết cho các nhà văn viết về đề tài miền
núi, ở đó chỉ ra cả những ưu điểm và hạn chế của các tác giả, tác phẩm. Từ
đó chúng ta có thể thấy rằng, ngay từ trước năm 1945, một số cây bút lý
luận, phê bình đã quan tâm tới mảng sáng tác về miền núi và có những phát
hiện ban đầu về thành tựu của các nhà văn ở mảng hiện thực này, tuy vậy
các nhà nghiên cứu chưa đi sâu khảo sát vào bức tranh toàn cảnh của truyện
viết về miền núi mà chú ý nhiều hơn về những yếu tố kỳ ảo
Một thời kỳ dài khoảng 30 năm từ 1945 đến 1975 do hoàn cảnh của
chiến tranh kéo dài nên mặc dù có khá nhiều các tác phẩm văn xuôi trong
đó có truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền núi nói chung, khu vực miền
núi phía Bắc nói riêng của các tác giả như Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy
Tưởng, Ma Văn Kháng, Lương Quy Nhân, Hoàng Nó nhưng việc nghiên
cứu bị gián đoạn. Các bài phê bình xuất hiện trong thời kỳ này hầu hết có
dung lượng ngắn để đăng trên các ấn phẩm báo chí dưới hình thức giới

thiệu tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh ra đời, ý nghĩa, giá trị tư tưởng của
truyện ngắn nhằm tuyên truyền phục vụ cho cuộc kháng chiến của dân tộc.
Từ khi đất nước thống nhất (năm 1975) và đặc biệt là sau công cuộc
đổi mới (năm 1986), cùng với sự phát triển mạnh mẽ của văn học dân tộc,
nền lý luận, phê bình của nước ta cũng có nhiều khởi sắc. Cùng với chính

9
sách quan tâm của Nhà nước đối với các vùng sâu, vùng xa, khu vực biên
giới và hải đảo thì những tác phẩm truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền
núi phía Bắc cũng được các nhà phê bình, lý luận dành thời gian và tâm sức
nghiên cứu. Đặc biệt trong giai đoạn này, sự xuất hiện của tên tuổi nhà văn
Nguyễn Huy Thiệp đã như một luồng gió mới khiến dư luận xôn xao một
thời gian dài và từ đó trở đi số lượng những công trình nghiên cứu về các
tác phẩm của ông cũng nhiều dần lên, có thể kể đến như: Đi tìm Nguyễn
Huy Thiệp (NXB Văn hóa - Thông tin, H, 2001), Nguyễn Huy Thiệp - tác
phẩm và dư luận (NXB Trẻ, TP.HCM, 1990), Những cuộc tranh luận xung
quanh sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp (khóa luận tốt nghiệp cử nhân Văn
học), Hình tượng con người cô độc trong truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp (luận văn thạc sĩ Ngữ văn), Hình tượng người kể chuyện trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp (luận văn thạc sĩ Ngữ văn)… Nếu chỉ tính riêng
trong giới phê bình văn học, không kể đến những bài báo nhỏ lẻ, có lẽ
Nguyễn Huy Thiệp là hiện tượng gây nhiều tranh cãi nhất trong suốt hai
mươi năm cuối của thế kỷ XX. Ở tập sách Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, chúng
ta đã bắt gặp rất nhiều những tên tuổi uy tín như Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ
Đức Hiểu, Greg Lockhart, Lại Nguyên Ân… hay những nhà văn, nhà thơ
đứng đối chiều như Trần Đăng Khoa, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh
đều bình luận về truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp dưới mọi góc độ từ
ngôn ngữ, hình ảnh, nhân vật đến kết cấu cốt truyện, giá trị nội dung, tư
tưởng. Ý kiến khen cũng nhiều, phản biện lại nhà văn cũng có nhưng xét về
tổng quan, tất cả những khía cạnh được các nhà phê bình đưa ra đều góp

phần khẳng định một phong cách truyện ngắn độc đáo của Nguyễn Huy
Thiệp. Với những tác phẩm khác đặc biệt là các công trình khóa luận tốt
nghiệp, luận văn thạc sỹ của sinh viên và học viên cao học thì truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp lại được tiếp cận một cách sâu sắc, tỉ mỉ hơn từ
những điểm nhìn khác nhau về nghệ thuật lựa chọn, xây dựng tính cách
nhân vật, cách thức sử dụng ngôn ngữ, biểu tượng, phương pháp điển hình
hóa đối tượng, nhân vật người kể chuyện Tuy nhiên có một khía cạnh mà

10
tất cả những công trình, tác phẩm nghiên cứu về Nguyễn Huy Thiệp chưa
đề cập, hoặc chỉ giới thiệu thoáng qua đó là đề tài về dân tộc miền núi phía
Bắc trong các truyện ngắn của ông mà chúng tôi sẽ khai thác ở trong luận
văn này.
Với Cao Duy Sơn và Đỗ Bích Thúy là hai nhà văn thuộc hai thế hệ
gần kề nhau và đều thành công nhờ những tác phẩm truyện ngắn viết về
mảng đề tài dân tộc miền núi phía Bắc. Có thể nói rằng các tác phẩm của
hai tác giả này đã giúp bạn đọc khám phá được rất nhiều về đặc trưng
phong tục, tập quán, văn hóa, lối sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở
vùng núi phía Bắc. Tuy mới chỉ xuất hiện trên văn đàn trong khoảng 10
năm trở lại đây nhưng tên tuổi của hai nhà văn Cao Duy Sơn và Đỗ Bích
Thúy đã được khẳng định và có vị trí trên văn đàn. Qua tìm hiểu, chúng tôi
thầy rằng, đa phần những bài nghiên cứu, những ý kiến đánh giá tác phẩm
của Cao Duy Sơn và Đỗ Bích Thúy là những bài đăng trên các báo, tạp chí
cũng như các chương trình phát thanh, truyền hình mà chưa có một công
trình quy mô hoặc một cuốn sách chuyên khảo riêng biệt. Chúng ta có thể
kể đến các bài viết nổi bật như: Cao Duy Sơn - Đàn trời cất tiếng ca vang”
(báo phát thanh VOV), Cao Duy Sơn - Bông hoa sen đang ngát (Báo điện
tử Evan), Cao Duy Sơn - Viết văn là một cuộc viễn du về nguồn cội (Báo
Thể thao Văn hóa) hay Nhà văn Đỗ Bích Thúy - Sự mềm mại quyết liệt
(Báo An ninh Thế giới cuối tháng), Nhà văn Đỗ Bích Thúy - Một người đã

từng bị tước đi hạnh phúc sẽ biết gìn giữ nó một cách tận tụy (Báo Điện tử
ĐCSVN) Những bài báo phê bình này đều có dung lượng ngắn, đa phần
là những bài phỏng vấn trực tiếp nhà văn về vấn đề nhân vật, hoàn cảnh ra
đời cũng như thông điệp mà tác giả gửi gắm qua tác phẩm. Cũng giống như
trường hợp của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, nghiên cứu về truyện ngắn của
Cao Duy Sơn và Đỗ Bích Thúy chưa có một công trình quy mô, đầu tư theo
chiều sâu tập trung vào mảng đề tài chủ lực của hai tác giả này là đề tài về
khu vực dân tộc miền núi phía Bắc.

11
Tóm lại: Ba nhà văn Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy và Nguyễn Huy
Thiệp bằng những tác phẩm cụ thể đã có những đóng góp không nhỏ cho
nền văn xuôi đương đại Việt Nam nói chung, mảng truyện ngắn viết về đề
tài dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng. Tuy vậy trong thực tế, các công
trình, bài viết của các tác giả trước đây mới chỉ dừng lại ở từng nhận xét về
phương diện đề tài, cách thức triển khai từng tác phẩm trong môi trường xã
hội đương đại mà chưa có những nghiên cứu sâu về phong cách, bút pháp
nghệ thuật cũng như hệ thống các tác phẩm của các nhà văn. Bởi vậy chúng
tôi xác định đây là công trình nghiên cứu đầu tiên theo hướng toàn diện các
truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc của ba nhà văn này.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện công trình này chúng tôi sẽ tập trung khảo sát, nghiên
cứu toàn bộ những truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc
của: Cao Duy Sơn là các tập truyện gồm: Người lang thang, Người săn
gấu, Hoa mận đỏ, Cực lạc, Những chuyện ở Lũng Cô Sầu, Hoa bay cuối
trời, Ngôi nhà xưa bên suối; Đỗ Bích Thúy là các tập truyện ngắn: Sau
những mùa trăng; Những buổi chiều ngang qua cuộc đời; Ký ức đôi guốc
đỏ; Tiếng đàn môi sau bờ rào đá và Nguyễn Huy Thiệp là 11 truyện trong
Những ngọn gió Hua Tát, Những người thợ xẻ, Sống dễ lắm, Muối của
rừng, Tội ác và trừng phạt, Truyện tình kể trong đêm mưa. Đồng thời khi

cần thiết, chúng tôi có thể liên hệ với những tác phẩm viết cùng về đề tài
này trước và sau đó.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Để có được cái nhìn tổng quan về các truyện ngắn của cả 3 tác giả,
chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê, phân loại tập hợp các truyện
ngắn theo từng chủ đề khác nhau.
- Tiếp đó, chúng tôi dùng phương pháp phân tích, trích dẫn tác phẩm để
chứng minh cho từng luận điểm thuộc phạm vi đề tài. Từ việc khảo sát
truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc chúng tôi sẽ rút ra những
thành công và hạn chế trong sáng tác của từng tác giả.

12
- Phương pháp so sánh đồng đại, lịch đại được chúng tôi sử dụng trong
một số tình huống để tìm ra những đặc điểm riêng trong truyện ngắn cùng
một phạm vi đề tài, thể loại của 3 nhà văn này so với các tác giả trước và
sau đó.
- Phương pháp tổng hợp sẽ hỗ trợ chúng tôi trong việc rút ra những đánh
giá, nhận định chung nhất về thành tựu cũng như đóng góp của từng nhà
văn cũng như của cả 3 nhà văn này về phương diện nội dung, nghệ thuật
đối với mảng đề tài dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng, nền văn học nước
nhà nói chung. Từ thực tiễn nghiên cứu, chúng tôi sẽ rút ra một số vấn đề
mang tính chất lý luận làm kinh nghiệm cho những công trình nghiên cứu
sau.
5. Mục đích, ý nghĩa đóng góp của luận văn
Từ việc nghiên cứu, khảo sát các truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền
núi phía Bắc của 3 nhà văn: Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy và Nguyễn Huy
Thiệp, tác giả công trình muốn tạo ra một góc nhìn đầy đủ hơn về văn xuôi
nói chung, truyện ngắn đương đại Việt Nam nói riêng
Công trình sẽ chỉ ra những thành tựu sáng tác của các nhà văn viết về
mảng đề tài dân tộc miền núi phía Bắc, về thế giới thiên nhiên, phong tục

tập quán, những hình tượng, số phận nhân vật tiêu biểu.
Chỉ ra con đường khám phá nghệ thuật, xây dựng cốt truyện, kết cấu,
cách xây dựng nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật của từng nhà văn.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn sẽ gồm
3 chương.
* Chương 1. Truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc trong truyện
ngắn đương đại
* Chương 2. Hình tượng cuộc sống và con người các dân tộc miền núi phía
Bắc qua truyện ngắn của Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Huy Thiệp
* Chương 3. Phương thức biểu hiện


13
CHƢƠNG 1
TRUYỆN NGẮN VỀ ĐỀ TÀI DÂN TỘC MIỀN NÚI PHÍA BẮC
TRONG BỨC TRANH TRUYỆN NGẮN ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Truyện ngắn và những sự đổi mới trong điều kiện xã hội đƣơng
đại
Từ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù
thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài,
phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp.
Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách
xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt
hái được không ít thành công trên nhiều phương diện
1.1.1 - Những chuyển biến về nội dung, khuynh hướng phản ánh
Chúng ta đều biết rằng khi xem xét quá trình đổi mới văn học phải
đặt các tác phẩm trong tương quan giữa hình thức - nội dung, quá khứ -
hiện tại, bản thân tác giả - các thế hệ cùng thời và đương đại. Sự chuyển
biến theo hướng đổi mới để phát triển là một đòi hỏi tất yếu của bất kỳ một

giai đoạn văn học nào và chính đội ngũ các nhà văn ở mỗi thế hệ, mỗi thời
kỳ đều nhận diện cũng như ý thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ này.
Chiến thắng hào hùng năm 1975 mở ra một chặng đường mới cho
dân tộc Việt Nam, giai đoạn hòa bình, xây dựng, tái thiết đất nước. Chiến
tranh đã lùi vào quá khứ, tiếng kèn và cờ hoa thắng trận bớt rực rỡ, ồn ào.
Sau một quãng lùi lịch sử, một khoảng cách về thời gian, các truyện ngắn
được sáng tác trong thời kỳ này đã nhạt dần chất sử thi, bớt đi khí vị anh
hùng cao cả mà thay thế vào đó là giọng điệu thâm trầm, sâu lắng hơn với
những sắc màu tình cảm, cung bậc thể hiện và bình diện mới. Ở mọi thời
đại, bao giờ nhân vật của truyện ngắn cũng được đặt trong vô vàn các quan
hệ và các bình diện như tập thể - cá nhân, lý tưởng - hiện thực, tiền tuyến -
hậu phương, sống - chết, được - mất, cho - nhận, cống hiến - hưởng thụ, vì
người - vì mình, lý tưởng chung - số phận riêng, ra đi - trở về Nếu trong
chiến tranh, những con người ấy được khai thác thiên về khía cạnh dân tộc,

14
tập thể, lý tưởng, chiến trường, cống hiến thì trong thời bình, khám phá
của các nhà văn đã nghiêng về trục đối lập. Không gian trong các tác phẩm
cũng được chuyển từ rộng sang hẹp, từ không gian lịch sử sang không gian
đời tư, từ chiến trường về cuộc sống thường nhật. Cảm hứng của các cây
bút cũng có bước thay đổi từ vĩ mô xuống vi mô, từ cao xuống thấp, từ số
phận chung của đất nước, dân tộc đến số phận của những con người cụ thể.
Trong các truyện ngắn đã xuất hiện với mật độ dày đặc hơn tâm thế đối
thoại của các nhân vật, nó chứng tỏ sự xuất hiện của những quan niệm, tiêu
chuẩn, thang bậc giá trị mới khác hoàn toàn trước đó. Chẳng hạn khi các
nhà văn viết về chiến tranh và cái chết đã không còn là sự hồi sinh, thăng
hoa mà là cả nỗi lạnh lẽo, cô đơn, một nỗi buồn chiến tranh đeo đẳng. Tư
thế của người chiến sĩ không còn cao vời vợi để người đời ngưỡng vọng
mà là chính bản thân của họ với ý thức cụ thể, rõ ràng về giá trị của mình,
sẵn sàng chối bỏ mọi ánh hào quang, hư danh để tìm chỗ đứng, vị trí thật

của mình Trong rất nhiều truyện ngắn, ta bắt gặp phổ biến motip người
lính trở về với cuộc sống đời thường bộn bề, phức tạp và rắc rối. Từ vị trí
người anh hùng trong chiến trận trở thành người công dân, đối diện với sự
chuyển đổi khắc nghiệt nhưng tất yếu này, họ sẽ suy nghĩ và ứng xử ra sao?
Cái gì còn, cái gì mất, cái gì đã cho, cái gì sẽ nhận, điều gì sẽ xảy đến trong
tâm hồn họ Sau chiến tranh là một cuộc sống hoàn toàn khác, những nhân
vật trong các truyện ngắn phải hiện diện với tư cách là những số phận cụ
thể, phải tự mình đương đầu cùng những thử thách khắc nghiệt của hoàn
cảnh sống thời hậu chiến với sự nghèo đói, rách rưới, thiếu thốn và cả
những tàn dư của vết thương chưa lành.
Nếu trong chiến tranh, nhu cầu cao nhất của tất cả mọi người là độc
lập, tự do thì trong thời bình, khát vọng bức thiết nhất, quyết liệt nhất của
họ lại là đòi dân chủ. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, xã hội có những đổi
thay mạnh mẽ, con người hoang mang trước sự phức tạp của đời sống, sự
đảo lộn của những giá trị, những quan hệ chuẩn mực cũ. Càng ngày, các
nhà văn càng phải va chạm với một đời sống hiện thực không lý tưởng hóa

15
mà hoàn toàn trần trụi và điều đó được hiện lên rất rõ nét trong mỗi tác
phẩm truyện ngắn. Đó là sự nhận thức về nỗi đau có thực với những mất
mát về con người, về tinh thần luôn âm ỉ cháy. Đó còn là những cảm nhận
về trạng thái xã hội đương đại với những khiếm khuyết, băng hoại về môi
trường và nhân cách, chứa đầy những thông tin nhức nhối, xót xa về số
phận của những con người cụ thể như người vợ, người mẹ, người cha,
người em và có khi là của một người dưng tình cờ gặp được. Truyện ngắn
thời kỳ này đã phát triển khá mạnh mẽ và càng ngày càng khẳng định được
vị thế của mình trong việc phơi bày một cách chi tiết về hiện thực xã hội
thông qua những nỗi bất hạnh của nhân vật. Đó là sự thua thiệt, khổ sở, đói
nghèo, mòn mỏi, bất công, trốn chạy quá khứ, xa lánh cội nguồn, suy thoái
đạo đức, mơ ước lụi tàn, tài năng rơi rụng Những vấn đề “nóng bỏng”

tính thời sự ấy được truyện ngắn truyền tải thông các nghịch lý và các cặp
mâu thuẫn như lý tưởng - hiện thực, chiến tranh - hòa bình, cũ - mới, lừa
dối - sự thật, hiện thực - mộng mơ, chân thực - giả dối, nhớ - quên, được -
mất, cho - nhận, khát khao - thất vọng, quá khứ - hiện tại, hy sinh - đền
đáp Những quan hệ này tồn tại cùng trong một môi trường, một nhân vật,
một sự kiện tạo nên những tác phẩm đậm chất bi kịch.
Một điều đặc biệt đó là văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 lại phát
triển theo hướng khác với xu thế chung. Nếu theo hướng phổ biến thì nó sẽ
phát triển từ bút ký - truyện ngắn - tiểu thuyết còn văn học Việt Nam lại
tiến theo chiều bút ký - tiểu thuyết - truyện ngắn. Giai đoạn bút ký gắn liền
với không khí mới mẻ của cuộc sống những ngày đầu hòa bình có đầy đủ
những mảng màu sáng, tối, đặc biệt là những vấn đề gai góc, những câu hỏi
bức thiết, trăn trở. Chúng ta có thể kể tới chùm các tác phẩm như Cái đêm
hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc, Lời khai của bị can của Trần Huy
Quang, Người đàn bà quỳ của Nguyễn Văn Ba, Thủ tục để làm người sống
của Minh Chuyên Từ bút ký chuyển sang tiểu thuyết tuy không theo
hướng đi chung nhưng lại khá liền mạch và phù hợp. Các nhà văn mới rời
chiến trường chưa lâu, một cuộc sống mới mở ra nhưng dư âm của quá khứ

16
bi tráng và hiện tại nghiệt ngã cứ đan xen, ám ảnh lẫn nhau. Chính hiện
thực phong phú được phơi bày kết hợp với vốn sống ngồn ngộn, đầy ắp đã
được truyền tải và dung chứa trong các tiểu thuyết như Trong cơn gió lốc
của Khuất Quang Thụy, Thời xa vắng của Lê Lựu, Bến không chồng của
Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường,
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh Điều dễ nhận thấy là ở ngay những
tiểu thuyết này chất bút ký báo chí vẫn còn khá “đậm đặc”. Các sự kiện,
nhân vật gần như là có thật trong đời sống hàng ngày mà chưa được “gọt
rũa” để nghệ thuật hóa một cách triệt để. Những hiện thực phản ánh trong
các cuốn tiểu thuyết đã được độc giả và người đời biết đến khá rõ ràng, khi

ấy nảy sinh nhu cầu muốn tìm đọc cái khác, cái chưa biết. Đó chính là lúc
truyện ngắn đến thời được quan tâm, chú ý, nhiều truyện ngắn hay, nhiều
tác giả mới xuất hiện. Có thể nói rằng, giai đoạn bút ký - tiểu thuyết là cả
một quá trình dài chuẩn bị cho truyện ngắn nở rộ với những tác phẩm ngay
khi mới xuất hiện đã tạo ra tiếng vang như Con thuyền ngoài xa, Bức tranh,
Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, Có một đêm như
thế của Nguyễn Thị Minh Thư, Anh Sức của Khuất Quang Thụy và sau
đó là một loạt các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
Từ thời kỳ đổi mới trở đi được coi là giai đoạn cực thịnh của thể loại
truyện ngắn trong nền văn học nước ta. “Những phẩm chất thẩm mĩ tươi
mới chỉ có thể được nảy nở, phô sắc và kết đọng trong một môi trường văn
hoá - xã hội mới. Không ai còn có thể nghi ngờ gì nữa về vai trò của bối
cảnh văn hoá - xã hội Việt Nam kể từ thời kì đổi mới đối với sự phát triển
dồi dào của văn xuôi trong đó có truyện ngắn ” [3]. Bối cảnh mới thúc đẩy
quá trình đổi thay bởi vì trong lòng nó một hệ giá trị khác trước đã hình
thành. Hệ giá trị chuyển từ cao cả, đơn trị sang đời thường, đa trị. Không
có căn cội này không thể có quan niệm, cái nhìn mới về thế giới và tất yếu
đã không có chuyển biến cơ bản như ta đã thấy. Những năm sau đổi mới
đến nay, cùng với sự thay đổi lớn lao của đời sống văn học thể loại truyện
ngắn gắn liền với các tên tuổi như Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu, Nguyễn

17
Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị
Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Đình Chính, Nguyễn Việt
Hà, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị
Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái, Y Ban, Cao Duy
Sơn, Đỗ Bích Thúy không chỉ tăng nhanh về số lượng mà còn đổi mới từ
nội dung phản ánh đến hình thức thể hiện. “Truyện ngắn là một cách đặt
vấn đề bằng nghệ thuật trước nhu cầu tinh thần của con người ” [53,
tr.177]. Giữa thời đại bùng nổ thông tin hiện nay truyện ngắn với những

đặc trưng và thế mạnh vốn có của mình đã phát triển một cách mạnh mẽ,
giữ vững vai trò như “người lính xung kích” trên mặt trận văn học nghệ
thuật. Và để có thể làm tròn vai trò đó, các tác giả viết truyện ngắn luôn có
ý thức là phải làm thế nào để đến được với bạn đọc một cách nhanh chóng
và ngắn gọn nhất.
Trương Hiền Lượng, nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc đã nhận xét:
“Thế giới bây giờ, nhịp điệu cuộc sống tăng nhanh, phương thức để người
ta có thể nhận tin, vui chơi và tiêu khiển không chỉ là đọc sách đơn thuần
Điều này khiến những người viết tiểu thuyết chúng tôi, vô tình hay hữu ý
phải suy nghĩ đến quy mô của tác phẩm mình viết, dài bao nhiêu mới dễ
tiếp thu ”. Quan sát sự chuyển động của truyện ngắn Việt Nam hiện đại,
chúng ta thấy có một xu hướng đã từng diễn ra đó là “tiểu thuyết hóa” thể
loại này. Nếu trước đây, truyện ngắn hướng tới cái chốc lát, khoảnh khắc
của đời sống thì nay nó làm nhiệm vụ đúc rút, tổng kết tức là truyện ngắn
mang dung lượng của tiểu thuyết. Khi xã hội càng phát triển, các vấn đề
nảy sinh càng phức tạp và đa dạng, trình độ cũng như nhu cầu thưởng thức
của độc giả không ngừng được nâng cao đòi hỏi truyện ngắn phải tạo cho
mình được sức chứa lớn hơn so với đặc điểm vốn có của thể loại nhưng lại
không được phá vỡ khuôn khổ, kéo dài văn bản, lấn sân tiểu thuyết. Tính
năng mới này của truyện ngắn được tác giả Phạm Hoa phát hiện ra là:
“Ngày nay thông tin được dồn nén nên truyện ngắn phải như một linh kiện
vi mạch. Dung lượng và hàm chứa, tôi nghĩ những điều đó rất quan trọng

18
trong văn xuôi. Tôi đã viết vài truyện ngắn mươi trang mà dung lượng là
dung lượng của tiểu thuyết hai trăm trang ”. Sức chứa có liên quan trực
tiếp đến vấn đề cấu trúc của tác phẩm chính bởi vậy một số nhà văn hiện
đại đã sáng tạo cho truyện ngắn của mình một cấu trúc tự do, không bị cốt
truyện quy định, không cần lối kết thúc có hậu và đến các chi tiết cũng
được sử dụng mang tính tượng trưng hơn. Cấu trúc những truyện ngắn đó

thường mở, uyển chuyển, linh hoạt và nhờ vậy nó chuyên chở một cách
hiệu quả những tư tưởng nhân văn mới mẻ về cuộc sống, con người.
Nếu theo dõi sự vận động của thể loại truyện ngắn từ những năm
1990 của thế kỷ XX đến nay, chúng ta thấy rằng đội ngũ các tác giả trẻ
đang dần dần khẳng định vai trò, thương hiệu của mình. Họ cũng rất có ý
thức về yếu tố thời đại nhưng ý thức thời đại của họ khác hẳn các thế hệ
trước đây. Điều đó có nghĩa là họ nhập cuộc tỉnh táo hơn, họ dùng cái tôi
như một thứ lăng kính và quan niệm văn chương luôn phải có độ lùi. Tuy
nhiên với đội ngũ các tác giả trẻ này dường như họ ít hứng thú để viết về
các mảng đề tài như chiến tranh, nông thôn - miền núi, đời sống đô thị,
công nghiệp, công nghệ thông tin Đương nhiên, việc chọn đề tài là quyền
của người viết và không bị chi phối bởi các yếu tố khách quan, nhà văn có
thể tự lựa chọn cho phù hợp với khả năng của mình. Tuy vậy có một vài lý
giải được đưa ra, chẳng hạn về đề tài chiến tranh ngoài yếu tố tài năng ra,
một số người cảm thấy đề tài này có rất nhiều người đã từng viết và chẳng
ai vượt qua được những cây bút đi trước. Một số khác nhận thấy độc giả
thờ ơ với đề tài này, vì họ cho rằng đó là "đề tài chính trị" khô khan và rất
khó hay. Một số nhà văn thì cho rằng, đề tài chiến tranh cũng nên "nguội"
đi, vì xã hội còn có quá nhiều việc bề bộn cần quan tâm hơn. Hay mảng đề
tài về nông thôn, do không ít nhà văn trẻ ra thành phố sống, làm việc. Họ
tiếp cận thực tế mới, có nhân vật mới, cách nghĩ năng động hơn và môi
trường thôn quê không còn hấp dẫn ngòi bút nữa. Vậy các nhà văn trẻ hiện
nay đang hướng vào những mảng đề tài nào? Sự xuất hiện của hàng loạt tác
phẩm trong những năm qua như Song song của Vũ Đình Giang, Không lạc

19
loài của Thành Trung, Bóng của Nguyễn Văn Dũng, Nháp của Nguyễn
Đình Tú, Đi tìm hình cuộc sống của Hà Thanh Phúc, Phải lấy người như
anh, Nhật ký tình yêu của Trần Thu Trang, Khi nào anh thuộc về em của
Cấn Vân Khánh đã chứng tỏ một điều: Các nhà văn trẻ của chúng ta hiện

nay đang quan tâm đến "cái tôi" của mình, cái ẩn ức của tuổi trẻ và chuyện
tình yêu tay ba, tay tư nhiều hơn là những đề tài lớn, mang giá trị nhân
văn
1.1.2. Khả năng mới trong việc thể hiện con người
“Truyện ngắn có nhiều khả năng trong việc thể hiện quan niệm về con
người. Do dung lượng nhỏ, nắm bắt những nét bản chất nhất của cuộc sống
nên truyện ngắn có khả năng chuyển tải những vấn đề của thời đại, con
người một cách chính xác, nhạy bén. Cũng chính điều này đã khiến truyện
ngắn trở thành thể loại cho phép nhà văn thử nghiệm và triển khai những
khía cạnh mới mẻ, linh hoạt trong quan niệm nghệ thuật về con người ”
[25].
Đọc các truyện ngắn hiện đại, chúng ta thấy có một đặc điểm khá rõ
ràng đó là càng ngày chúng càng ít trực tiếp miêu tả những sự kiện, vấn đề
lớn liên quan đến sự nghiệp chiến đấu và công cuộc sản xuất của dân tộc
mà lại thiên về miêu tả những chuyện “đời thường” xoay quanh số phận
của những con người cụ thể. Điều đó đã thể hiện một quan niệm nghệ thuật
mới của những người cầm bút trong việc khai thác nhân vật của mình, nhìn
nhận con người bằng quan niệm biện chứng trong sự tổng hòa các mối
quan hệ xã hội, ở đó mọi diễn biến tâm lý, tình cảm đều được bộc lộ trong
từng hoàn cảnh điển hình. “Nếu như văn xuôi luôn có lợi thế trong việc
phát hiện ra bản chất của con người đương thời thì truyện ngắn là người
lính xung kích ” [52, tr.110]. X. Mô-ôm, nhà văn người Anh cũng từng
viết: “Người ta không bao giờ biết hết mọi thứ cần biết về bản chất con
người. Người ta chỉ dám chắc là nó, cái bản chất ấy, sẽ không bao giờ thôi
dành cho người khác một sự bất ngờ ”. Đây chính là cái đích mà rất nhiều
các truyện ngắn hiện đại hướng tới. Những day dứt của số phận con người

20
nhiều khi lại thể hiện trong một anh họa sĩ với sự giằng xé lương tâm, tự
bạch và hối cải khi nhìn nhận ra sự vô tâm đến tàn nhẫn của mình (Bức

tranh - Nguyễn Minh Châu); cũng có khi là lời tự thú của một người lính
do hoàn cảnh đặc biệt trong chiến đấu phải rời bỏ đội ngũ, sống khuất lấp
giữa đại ngàn Tây Nguyên nhưng không đánh mất nhân cách và vẫn trở
nên con người có ích (Đêm nguyệt thực - Trung Trung Đỉnh). Nhân vật
trong những truyện ngắn đó là con người dũng cảm, dám nhìn thẳng vào
bản chất của mình cả ở điểm mạnh lẫn điểm yếu và phải chăng đó chính là
nhu cầu mới của độc giả muốn khám phá ở con người trong truyện ngắn
hiện đại.
Nhà văn Aimatốp đã từng quan niệm rằng mỗi truyện ngắn chỉ là
một giọt nước thôi nhưng thiếu nó thì không có biển cả. Đời sống xã hội
hiện đại càng ngày càng khẩn trương có thể nói là dữ dội và con người như
bị cuốn hút vào cái nhịp điệu sôi động của nó bởi những công việc, ham
muốn mới mẻ. Nhưng cũng chính trong xã hội này dễ nảy sinh những
khoảng thời gian để con người nhìn lại mình từ một thôi thúc bên trong -
phải tiến tới nhận thức được chính mình. Giống như một thứ kính phóng
đại, truyện ngắn hôm nay giúp chúng ta nhìn sâu hơn và thấy rõ ràng hơn
cuộc sống của con người trong những biểu hiện phong phú và phức tạp
nhất của tư tưởng, tình cảm và tâm lý. Một nỗi buồn rất đẹp của một thầy
giáo trường huyện khi chợt nhận ra có người con gái âm thầm yêu mình và
thật oái oăm khi ấy anh ta đã có vợ (Đi đón cơn mưa - Vũ Tú Nam). Cái ý
thức sâu xa của truyện qua câu truyện tình có chiều éo le này đem đến cho
người đọc một tâm niệm: Hãy chú ý quan tâm đến người khác, hãy cố gắng
thông hiểu những ai ở quanh ta. Sự thông cảm là sợi dây nối liền con
người, là cửa ngõ để đi vào những tâm hồn đồng điệu
1.1.3. Sự phong phú về hình thức nghệ thuật
Bách khoa toàn thư Compto của Mỹ năm 1969 viết về truyện ngắn như sau:
“Một truyện ngắn hay thì phải đem lại một giá trị nào đó lớn hơn là cái
việc chọc cười bạn đọc. Nó phải thường xuyên đưa ra sự cảm nhận mau lẹ,

21

trong đó nhân vật đã ứng xử khi hành động hoặc diễn tả lại một diện mạo
bất thường của đời sống cho bạn đọc. Một số truyện chú trọng đến việc
tường thuật sống động các hành động, số truyện khác thì lại để tâm đến
việc thiết định một hình thái hay ghi dấu một ấn tượng cảm xúc sâu sắc, và
số truyện khác thì nhắm vào những sự kiện bình nhật nhưng chở mang ý
nghĩa thâm sâu ”. Trong bối cảnh xã hội mà khoa học kỹ thuật và công
nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như vũ bão hiện nay thì nhu cầu thưởng
thức văn học nghệ thuật của con người cũng đứng trước rất nhiều sự lựa
chọn. Truyện ngắn với lợi thế đó là sự bao chứa những vấn đề lớn, những
thông điệp sâu sâu sắc trong một hình thức nhỏ, gọn gàng đã thực hiện rất
hiệu quả chức năng truyền tải thông tin của mình. Cũng tựa như nghệ thuật
“ý tại ngôn ngoại” của thi ca, truyện ngắn hiện đại có khả năng gợi lên rất
nhiều suy ngẫm xuất phát từ một hiện tượng đời sống điển hình. Truyện
ngắn hiện đại sẽ phá vỡ những chiều hướng êm ả và sự cân bằng ở một số
thể loại khác. Diễn biến cốt truyện không phải là một chuỗi liên tục những
sự kiện móc nối vào với nhau mà là một ám ảnh tâm hồn trong quá trình
biến chuyển lương tri trong những thời khắc có ý nghĩa nhất của đời người.
Đọc truyện ngắn của các tác giả hiện nay như Cao Duy Sơn, Hồ Anh Thái,
Nguyễn Thế Hoàng Linh, Nguyễn Danh Lam, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn
Ngọc Tư, Nguyễn Ngọc Thuần, Hồ Thị Ngọc Hoài ta thấy rằng, mạch kể
trong từng câu chuyện không đơn thuần chỉ là sự sắp xếp theo thời gian
tuyến tính mà còn theo một sơ đồ ma trận, gồm có nhiều chiều khác nhau
để từ đó người đọc có thể cùng một lúc nhận ra tất cả những chiều kích mà
mục đích truyện hướng vào.
Anh ta tập hợp những cuộc xung đột - cãi cọ và đôi khi cả những
điều dấm dớ trong đời sống thành một bức tranh ngôn từ có trình tự và khả
tri. Tác giả có thể đề cập đến những sự kiện có thực còn thô ráp của đời
sống, nhưng một tác giả sành sỏi sẽ tạo tác câu chuyện của mình thành một
nghệ phẩm. Những yếu tố chân thực của đời sống (true-to-life) có thể được
xử lý bằng nhiều cách khác nhau Dừ xử lý thế nào mặc lòng, người viết


22
truyện ngắn phải bám sát “cứ điểm” của mình. Trái lại, nhà tiểu thuyết
không cần bám sát lề một con đường quá hẹp và thẳng băng như vậy. Anh
ta có thể lang bang chỗ này chỗ kia. Cây bút truyện ngắn không có đủ thời
gian và không gian để trôi dạt khỏi cứ điểm của mình. Như Edgar Allan
Poe nói: “Trong tất cả cấu trúc, không có một từ nào bị cuốn vào mạch dù
là trực tiếp hay gián tiếp cái mạch văn đã dùng đến một lần”
Từ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù
thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài,
phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp.
Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách
xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt
hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể
không kể đến ngôn ngữ trần thuật. Thu hẹp khoảng cách giữa truyện kể và
những “chuyện” của hiện thực, ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn
đương đại trở nên gần với ngôn ngữ đời sống hơn bao giờ hết. Ngôn ngữ
trần thuật trong truyện ngắn không còn là lời nói quyền uy, cao đạo. Bên
cạnh khẩu ngữ trong truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh có thứ ngôn ngữ vỉa
hè ở tác phẩm Phạm Thị Hoài. Có lời người trần thuật dân dã trong truyện
ngắn Sương Nguyệt Minh (đi năm lần bảy lượt, mời mẻ bát gẫy đũa…),
Nguyễn Khải (cười thắt ruột, ăn nói quá quân trộm cướp ), Bão Vũ (nằm
co tiểu sành khi hết phim ). Có kiểu phát ngôn trần trụi, không gọt dũa của
thứ ngôn ngữ “chợ búa” ở Người hùng trường làng (Tạ Nguyên Thọ),
Không có vua (Nguyễn Huy Thiệp), Dạo đó thời chiến tranh (Lê Minh
Khuê) Trong một số tác phẩm, những tiếng lóng, những từ ngữ tục,
những câu chửi thề được người trần thuật sử dụng khá thường xuyên. Tuy
thế, việc vận dụng thích hợp mảng ngôn từ ít có giá trị thẩm mĩ tự thân này,
trong một chừng mực nhất định, vẫn có thể nâng cao hiệu quả trần thuật.
Nếu trước đây thật khó hình dung cách nói không có trật tự trên dưới của

những người tham gia giao tiếp, thì trong truyện ngắn đương đại, kiểu nói
“xấc xược” của lớp trẻ không còn quá lạ tai. Để phê phán một mảng xã hội

23
bộn bề, mọi chuẩn mực đạo đức bị đảo lộn, nhiều cây bút đã không ngại sử
dụng thứ ngôn ngữ trần thuật “thiếu văn hóa”. Ở Làng xi măng (Lê Minh
Khuê), giả sử không có lời chú thích của người trần thuật, hẳn không nhiều
độc giả “dịch” được bức điện tín: Bà mõm. Thối rồi. Về ngay! (bà ốm, mất
rồi, về ngay). Kiểu thông báo có tính chất mệnh lệnh với ngôn từ ít trang
trọng vẫn có thể là lời của con cái dành cho bậc sinh thành: “Bao giờ ổn
định con sẽ “cẩu” mẹ ra khỏi cái “làng Vũ Đại” (Gió đồng se sắt - Đỗ
Tiến Thụy). Đoạn văn sau đây trong Đại hùng kê (Hòa Vang) là bằng
chứng của một thứ ngôn ngữ giao tiếp đáng kinh hãi xuất hiện đậm đặc
trong truyện ngắn hôm nay: “Phéng mẹ nó một nhát với cái lão “hâm đơ”
viêm màng túi mãn tính cùng đời ấy cho xong phắt đi Chị mới sắp bốn
mươi cái lơ thơ tơ liễu buông mành, sợ gì? phây phây lắm, ngọt bột canh
Ajinô Môtô lắm…”. Có một sự đối nghịch rõ rệt nếu soi xét bằng con mắt
thực dụng giữa lão chồng hâm đơ và người vợ còn ngọt bột canh Ajinô
Môtô lắm. Lời khuyên như thuyết phục hơn nhờ ngôn ngữ phố phường thời
hiện đại. Trong hai thập niên trở lại đây, sự bùng nổ thông tin đã tác động
đến ngôn ngữ đời sống và để lại dấu ấn khá rõ ở ngôn ngữ trần thuật. Từ
ngữ chuyên môn trở nên phổ biến (các thuật ngữ y học, tên các loại bệnh
mới: HIV-AIDS, viêm não Nhật Bản, sarc, dịch cúm gia cầm…; các khái
niệm kinh tế tiền tệ: công ty cổ phần, thị trường chứng khoán, cổ phiếu…,
các ngôn từ đặc trưng thời đại kĩ thuật số, công nghệ thông tin: thư điện tử,
chat, truyền hình cáp, nối mạng, trực tuyến…). Những từ ngữ vốn chỉ mới
xuất hiện gần đây cũng ùa vào tác phẩm: cave (gái làm tiền), ô-sin (người
giúp việc), gay (người đồng tính), sếp (cấp trên), víp (nhân vật quan
trọng)… Ngôn ngữ thời đại a còng (@) được sử dụng như những phương
tiện biểu đạt mới. Xuất hiện cả dạng ngôn ngữ không dấu của người trần

thuật lồng vào những đối đáp kiểu trò chuyện (chat) trên mạng internet (Tại
sao? Tình Yêu - Y Ban)
Chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ đời sống, ngôn ngữ trần thuật trong
truyện ngắn hiện đại bộc lộ khá rõ đặc trưng văn hóa vùng miền. Phương

24
ngữ được sử dụng có chủ ý chứ không chỉ thuần túy do chất giọng “bản
địa” của nhà văn. Người trần thuật không những “tải” nội dung truyện kể
mà còn “chuyển” những giá trị văn hóa nằm sâu dưới lớp ngôn ngữ. Có vẻ
đẹp bình dị của vùng sông nước Cửu Long qua bờ kênh, con rạch, những
cù lao xanh (Nguyễn Ngọc Tư). Có chất Huế đặc trưng mà độc giả chỉ có
thể cảm nhận qua những phát ngôn cụ thể của người trần thuật (Trần Thùy
Mai). Chất thâm thúy miền Bắc hay kiểu hồn hậu miền đều được bộc lộ rõ
nét. Dấu hiệu nhận biết có thể chỉ là những ngôn từ nhân xưng được đưa
vào tác phẩm. Đó là cách nói của người miền Trung khi nhân vật lớn tiếng
chửi: Tổ cha mồ tổ con mô thằng mô độc mồm độc miệng nói con tau chết.
(Bà Thỏn - Trần Thanh Hà); là lời chào rặt tiếng địa phương được người
trần thuật kể lại rõ ràng: Họ gặp nhau: Chào eng! Chào ả! Ôi cụ! Ôi mự!
Nghe rộn rã trên đường (Quê hương - Cao Hạnh). Là ngôn ngữ thuần Nam
Bộ khi người trần thuật sử dụng lời ăn tiếng nói dân dã, khắc họa cuộc sống
xứ sở miệt vườn: Sống trong hồn người khác (Ngọc Linh), Sông Hậu xuôi
về (Nguyễn Lập Em), Mùa gió (Trần Minh Thuận)… Qua ngôn ngữ trần
thuật, phong tục tập quán từng miền cũng được thể hiện rõ nét. Có đời sống
du mục hay lênh đênh theo gánh hát của người miền trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư (Biển người mênh mông, Cánh đồng bất tận). Có nếp
sinh hoạt của người Hà Nội trong các khu phố cổ (Phố cũ – Nguyễn Văn
Thọ)… Tuy vậy, thể hiện đậm đặc chất giọng địa phương và tạo thành một
dòng văn học vùng miền chỉ có thể là mảng truyện ngắn Nam Bộ. Trong
dòng truyện ngắn phương Nam ấy, Nguyễn Ngọc Tư được xem là một tác
giả tiêu biểu với nhiều tác phẩm hay: Dòng nhớ, Biển người mênh mông,

Qua cầu nhớ người, Hiu hiu gió bấc… Đến với văn Ngọc Tư, độc giả có
thể hình dung rất rõ về vùng đất Nam Bộ. Từ những mé đìa lục bình, đám
trâm bầu, chòm quao, trái giác nấu canh chua bông súng đến cách gọi tên
nhân vật (anh Hai Nhớ, dì út Thu Lý, dì Tư, út Thà, Sáu Tâm…) hay lời ăn
tiếng nói thường ngày (trời đất, đúng chóc hà, nói gì lãng xẹt vậy ta, nói
chơi hoài, như vầy, chút đỉnh…) đều gợi lên dáng hình thiên nhiên, con

25
người xứ sở miền Nam. Có thể nói, với ngôn ngữ trần thuật mang đậm dấu
ấn văn hóa vùng miền, truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới không những
nhiều dáng vẻ mà còn rất gần gũi với đời sống con người.
Tính chất đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật hôm nay xuất phát từ
việc tổ chức đồng thời những tiếng nói khác nhau. Sự xen lẫn của lời thoại
nhân vật vào lời kể và đặc biệt là hình thức lời nửa trực tiếp đã góp phần
làm mới nghệ thuật kể chuyện, cho thấy ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý
của các cây bút truyện ngắn đương đại. Trong những nỗ lực cách tân, việc
đổi mới ngôn ngữ trần thuật là một thành công không thể phủ nhận của
truyện ngắn Việt Nam từ sau 1986. Với cách vận dụng linh hoạt ngôn ngữ
đời sống, ngôn ngữ vùng miền; và nhất là với cách tổ chức đồng thời nhiều
tiếng nói khác nhau, người trần thuật có vai trò quan trọng trong việc cấu
trúc tác phẩm, dẫn dắt mạch truyện. Khảo sát các phát ngôn trong văn bản
truyện kể, độc giả có thể phần nào hình dung dược diện mạo của người trần
thuật. Hơn thế, thông qua ngôn ngữ trần thuật người đọc còn có thể nhận
diện những đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ truyện ngắn hôm nay.
1.2. Truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc - những bức
tranh sinh động về không gian văn hóa và cuộc sống
Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số trong thời kỳ đổi mới đã có
những bước phát triển mạnh, đáp ứng được phần nào nhu cầu thưởng thức
của độc giả. Có thể nói văn học nghệ thuật đã thực sự góp phần làm phong
phú thêm đời sống tinh thần của người dân trên các làng bản vùng cao, trở

thành nhân tố quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
1.2.1. Khái quát về khu vực miền núi phía Bắc
Khu vực miền núi phía Bắc bao gồm 2 vùng Đông Bắc và Tây Bắc
với những đặc điểm về vị trí địa lý, tự nhiên, thành phần dân tộc có tính
chất đặc trưng riêng biệt tạo nên nét độc đáo của khu vực này. Đây chính là
một mảng đề tài tuy khó nhưng hấp dẫn những người cầm bút. Khu vực
miền núi phía Bắc là khu vực sơn địa và bán sơn địa có diện tích rộng lớn
(102,9 nghìn km
2
), với vị trí địa lí đặc biệt, giáp với Thượng Lào và có thể

26
giao lưu thuận lợi bằng đường sắt và đường ô tô với các tỉnh phía Nam
Trung Quốc qua các cửa khẩu Lạng Sơn, Lào Cai và Móng Cái. Khu vực
này kề liền với khu vực đồng bằng sông Hồng, giao lưu dễ dàng (nhất là
vùng Đông Bắc) với khu vực kinh tế phát triển sôi động này của đất nước.
Phía Đông là vịnh Bắc Bộ, một vùng biển giàu tiềm năng. Xét về mặt hành
chính, khu vực này bao gồm 15 tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc
Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc
Giang, Quảng Ninh, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình. Đây cũng
chính là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc ít người (Tày, Nùng, Thái,
Mường, Dao, Mông…). Nơi đây có Việt Bắc, cái nôi của cách mạng, có
Điện Biên Phủ lịch sử. Do vậy, việc phát huy các thế mạnh của vùng không
chỉ có ý nghĩa kinh tế lớn, mà còn có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Khu vực
miền núi phía Bắc bao gồm vùng Tây Bắc núi non hiểm trở và vùng Đông
Bắc với các núi thấp và đồi, các dãy núi hình cánh cung. Vùng Đông Bắc
được giới hạn về phía bắc và đông bởi đường biên giới Việt - Trung. Phía
đông nam trông ra vịnh Bắc Bộ. Phía nam tiếp giáp với vùng đồng bằng
sông Hồng. Đây là vùng núi và trung du với nhiều khối núi và dãy núi đá
vôi hoặc núi đất. Phía đông thấp hơn có nhiều dãy núi hình vòng cung quay

lưng về hướng Đông lần lượt từ Đông sang Tây là vòng cung Sông Gâm,
Ngân Sơn, Bắc Sơn, Đông Triều. Núi mọc cả trên biển, tạo thành cảnh
quan Hạ Long nổi tiếng. Vùng Đông Bắc có nhiều sông chảy qua, trong đó
các sông lớn là sông Hồng, sông Chảy, sông Lô, sông Gâm (thuộc hệ thống
sông Hồng), sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam (thuộc hệ thống sông
Thái Bình), sông Bằng, sông Bắc Giang, sông Kỳ Cùng Về phạm vi hành
chính, vùng Đông Bắc bao trùm các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà
Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc
Giang và Quảng Ninh. o địa hình cao, ở phía Bắc, lại có nhiều dãy núi hình
cánh cung mở ra ở phía bắc, chụm đầu về Tam Đảo, nên vào mùa Đông,
vùng này có gió Bắc thổi mạnh, nên rất lạnh. Vùng núi ở Lào Cai, Hà
Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn có thẻ có lúc nhiệt độ xuống 0°C và có mưa

×