Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Nghiên cứu sinh thái cảnh quan các hệ sính thái nhằm định hướng quy hoạch phát triển bền vững tại xã Hương Sơn, Huyện Mỹ Đức, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.3 MB, 84 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN



HOÀNG THANH THƯƠNG


NGHIÊN CỨU SINH THÁI CẢNH QUAN CÁC HỆ SINH THÁI NHẰM
ĐỊNH HƯỚNG QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TẠI XÃ
HƯƠNG SƠN – HUYỆN MỸ ĐỨC – HÀ NỘI



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC




Hà Nội - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN



HOÀNG THANH THƢƠNG


NGHIÊN CỨU SINH THÁI CẢNH QUAN CÁC HỆ SINH THÁI
NHẰM ĐỊNH HƢỚNG QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TẠI


XÃ HƢƠNG SƠN – HUYỆN MỸ ĐỨC – HÀ NỘI

Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60 42 60.


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Đoàn Hƣơng Mai




Hà Nội - 2011

73
MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ BẢN ĐỒ
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG NGHIÊN CỨU HỆ SINH THÁI 3
1.1.1. Khái niệm hệ sinh thái 3
1.1.2. Cấu trúc và chức năng của hệ sinh thái 3
1.2. KHÁI NIỆM CẢNH QUAN VÀ SINH THÁI CẢNH QUAN 4
1.2.1. Khái niệm cảnh quan 4

1.2.1. Khái niệm sinh thái cảnh quan 6
1.3. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU SINH THÁI CẢNH QUAN
Ở VIỆT NAM 6
1.4. ỨNG DỤNG GIS VÀ VIỄN THÁM TRONG NGHIÊN CỨU SINH THÁI HỌC 8
1.4.1. Hệ thống thông tin địa lý - GIS 8
1.4.2. Viễn thám (Remote sensing – RS) 9
1.4.3. Viễn thám và GIS trong nghiên cứu và quy hoạch PTBV 10
1.5. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ QUY HOẠCH 10
1.5.1. Phát triển bền vững 10
1.5.2. Những vấn đề về quy hoạch 14
1.5.2.1. Quy hoạch môi trường (QHMT) 15
1.5.2.2. Quy hoạch sinh thái 16
1.6. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở KHU VỰC XÃ HƢƠNG SƠN 17
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 19
2.1. ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU 19
2.2. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 19
2.3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 19


74
2.3.1. Phƣơng pháp khảo sát thực địa 19
2.3.2. Phƣơng pháp điều tra phỏng vấn 20
2.3.3. Phƣơng pháp tổng hợp và xử lý số liệu 20
2.3.4. Phƣơng pháp phân tích không gian 21
2.3.5. Phƣơng pháp bản đồ 22
2.4. CÁC BƢỚC NGHIÊN CỨU STCQ CÁC HST XÃ HƢƠNG SƠN - HUYỆN
MỸ ĐỨC - HÀ NỘI 22
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 24
3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - YẾU TỐ HÌNH THÀNH NÊN CẢNH QUAN 24

3.1.1. Vị trí địa lý 24
3.1.2. Điều kiện tự nhiên 25
3.1.2.1. Địa hình 25
3.1.2.2. Khí hậu 25
3.1.3. Tài nguyên thiên nhiên 26
3.1.3.1. Rừng:. 26
3.1.3.2. Đất đai: 26
3.1.3.3. Mặt nước: 27
3.1.3.4. Khu hệ thực vật 27
3.1.3.5. Khu hệ động vật 29
3.2. ĐIỀU KIỆN DÂN SINH – KINH TẾ - XÃ HỘI- YẾU TỐ TÁC ĐỘNG LÊN
CẢNH QUAN 31
3.2.1. Điều kiện dân sinh 31
3.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 31
3.2.2.1. Giao thông 32
3.2.2.2. Thủy lợi 32
3.2.2.3. Điện 32
3.2.2.4. Trường học 32
3.2.2.5. Y tế 32
3.2.2.6. Chợ 33


75
3.3. HỆ THỐNG CÁC HST TẠI XÃ HƢƠNG SƠN 33
3.3.1. HST khu dân cƣ 34
3.3.2. HST thủy vực 37
3.3.3. HST rừng trên núi đá vôi 42
3.3.4. HST rừng trên núi đất 48
3.3.5. HST trảng cây bụi, tre nứa 50
3.3.6. HST nông nghiệp 51

3.3.7. HST trảng cỏ 55
3.3.8. Hệ sinh thái rừng trồng và cây ăn quả lâu năm 57
3.4. BẢN ĐỒ HIỆN TRẠNG CÁC HST XÃ HƢƠNG SƠN – HUYỆN MỸ
ĐỨC – HÀ NỘI 59
3.5. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP SỬ DỤNG SINH THÁI CẢNH QUAN
CÁC HỆ SINH THÁI XÃ HƢƠNG SƠN THEO ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG 61
3.5.1. Đối với HST khu dân cƣ 61
3.5.2. Đối với HST nông nghiệp 62
3.5.3. Đối với hệ sinh thái thủy vực 63
3.5.4. Đối với HST rừng trên núi đá vôi và rừng trên núi đất 64
3.5.5. Đối với HST rừng trồng và cây ăn quả lâu năm, HST trảng cỏ và
HST trảng cây bụi; tre nứa 67
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 68
KẾT LUẬN 68
KIẾN NGHỊ 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 70
TÀI LIỆU TIẾNG ANH 72



76


DANH MỤC BẢNG


Bảng 1. Thống kê tài nguyên đất xã Hương Sơn tính đến tháng 02/2011 26
Bảng 2. Thống kê các loài động vật quý hiếm ở Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Nội 30

Bảng 3. Thống kê hiện trạng giao thông của xã tính đến tháng 2/2011 32
Bảng 4. Diện tích các hệ sinh thái tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội
(tính trên bản đồ hiện trạng các HST của xã được thành lập từ ảnh vệ tinh
Ikonos năm 2006, tỷ lệ 1:50.000) 59



77
DANH MỤC HÌNH VẼ VÀ BẢN ĐỒ

Hình 1. Cấu trúc của GIS 9
Hình 2: Mô hình PTBV của Ngân hàng Thế giới World Bank 11
Hình 3. Sơ đồ các bước thiết lập bản đồ hiện trạng các hệ sinh thái 23
Hình 4. Vị trí xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội 24
Hình 5. Khu dân cư ven bờ suối Yến 35
Hình 6. Dân địa phương chèo thuyền và đánh bắt thủy sản 35
Hình 7. Nhà nghỉ và hàng quán dịch vụ trong khu dân cư 36
Hình 8. Suối Tuyết và hệ thực vật ven bờ 37
Hình 9. Núi Mâm Xôi 39
Hình 10. Núi Voi 39
Hình 11. Hệ thực vật ven bờ suối Yến 39
Hình 12. Khai thác cát và dùng kích điện đánh bắt thủy sản ở suối Yến 41
Hình 13. Cây trồng trên núi đá vôi vẫn phát triển xanh tươi 43
Hình 14. Cảnh quan HST rừng trên núi đá vôi 44
Hình 15. Rau sắng chùa Hương 45
Hình 16. Xả thịt thú rừng tại lễ hội chùa Hương 47
Hình 17. Cảnh quan HST rừng trên núi đất 49
Hình 18. Cây trồng ở vùng núi đất 49
Hình 19. Trảng cây bụi, tre nứa tại đường lên Hinh Bồng 51
Hình 20. Cảnh quan HST nông nghiệp 52

Hình 21. Khu vực canh tác lúa 1 vụ, 1 vụ nuôi thủy sản 54
Hình 22. Khu vực canh tác lúa cả 2 vụ 54
Hình 23. Trảng cỏ ở quanh ruộng lúa và bờ đê 56
Hình 24. Vườn cây trồng trong khu dân cư 57
Hình 25. Vườn cây trồng dưới chân núi đá vôi 58
Hình 26: Bản đồ hiện trạng các hệ sinh thái xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức,
Hà Nội 60



1
MỞ ĐẦU

Xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội là tên gọi quen thuộc, lâu đời
của nhân dân Việt Nam để chỉ một cụm di tích gồm nhiều chùa chiền, đền
miếu khác nhau. Xã có chùa Hương Tích với diện tích 500 ha (Bộ
NN&PTNT, 1997). Chùa Hương hay Hương Sơn là cả một quần thể văn hóa -
tôn giáo Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, vài ngôi đền thờ thần,
các ngôi đình thờ tín ngưỡng nông nghiệp. Trung tâm chùa Hương nằm ở xã
Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, nằm ven bờ phải sông Đáy.
Lễ hội chùa Hương kéo dài từ mùng 6 tháng Giêng đến hết tháng 3 âm
lịch là lễ hội dài nhất trong cả nước. Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng
Giêng đến 18 tháng hai âm lịch. Ngày này vốn là ngày lễ khai sơn (lễ mở cửa
rừng) của địa phương. Đến nay nghi lễ "mở cửa rừng" hàm chứa ý nghĩa mới
- mở cửa chùa. Không những thế, nơi đây còn có bến nước, con thuyền, hang
động, núi non với rừng cây bốn mùa xanh tươi, trong đó có cả những loài cây
được đặt tên bằng chính địa danh của vùng đất Phật như mơ Hương Tích, rau
Sắng chùa Hương. Hương Sơn không chỉ là vùng núi đá vôi, mà còn có sông,
suối, đồng ruộng, làng mạc… Chính sự đa dạng về sinh cảnh đã tạo nên sự đa
dạng về các HST [19].

Người dân ở Hương Sơn chủ yếu tham gia kinh doanh và phục vụ du
lịch, khai thác, nuôi trồng thủy sản, trồng trọt. Hoạt động lễ hội và du lịch ở
địa phương vẫn diễn ra tự phát, chưa có sự quản lý đồng bộ của các cấp
ngành. Tài nguyên thiên nhiên đang bị khai thác bừa bãi, sản vật núi rừng bị
tận diệt và bày bán tràn lan vào mùa lễ hội, môi trường bị hủy hoại và ô
nhiễm nghiêm trọng.
Do vậy rất cần những nghiên cứu cụ thể để có bức tranh tổng quát nhất
về hiện trạng các HST, từ đó giúp cho địa phương và các nhà nghiên cứu có
các biện pháp góp phần duy trì và phát triển nguồn tài nguyên quý giá tại địa

2
phương theo hướng PTBV - điều này cũng góp phần giữ gìn giá trị văn hóa
tâm linh truyền thống.
Từ trước đến nay các nghiên cứu về ĐDSH cũng như STCQ được tiến
hành tại khu vực này chỉ tập trung vào một khía cạnh hay một vấn đề sinh thái
môi trường riêng biệt. Rất cần những nghiên cứu, đánh giá về STCQ trong
mối liên quan đến ĐDSH và điều kiện kinh tế - xã hội, nhằm đề xuất các giải
pháp hợp lý làm cơ sở cho công tác bảo tồn và PTBV. Hơn nữa, chưa có công
trình nào thành lập được bản đồ tổng quát về hiện trạng các HST tại KVNC
để đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện về hệ thống các HST và mối quan hệ
qua lại giữa chúng.
Trước những thực tế như trên đề tài: “Nghiên cứu sinh thái cảnh
quan các hệ sinh thái nhằm định hƣớng qui hoạch phát triển bền vững
tại xã Hƣơng Sơn - huyện Mỹ Đức - Hà Nội” được thực hiện.
Đề tài được thực hiện với các mục tiêu:
- Phân tích, đánh giá STCQ các HST ở KVNC.
- Mô tả chi tiết và lập bản đồ hiện trạng các HST ở KVNC.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm định hướng quy hoạch và PTBV.









3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG NGHIÊN CỨU HỆ SINH THÁI
1.1.1. Khái niệm hệ sinh thái
Hệ sinh thái (ecosystem) là tổ hợp của một quần xã sinh vật với môi
trường vật lý mà quần xã đó tồn tại, ở đó các sinh vật tương tác với nhau và với
môi trường để tạo nên chu trình vật chất và sự chuyển hóa năng lượng [13].
Khái niệm trên gồm 2 phần: nguyên nhân và hệ quả. Nguyên nhân cơ
bản là sự phối hợp của sinh vật với môi trường và sự tác động qua lại giữa
chúng. Hệ quả quan trọng là từ sự phối hợp và tác động qua lại lẫn nhau đó
nên các tác nhân ở các bậc dinh dưỡng có sự trao đổi năng lượng và vòng
tuần hoàn vật chất từ sinh vật đến thiên nhiên rồi trở lại sinh vật [16].
Như vậy, HST bao gồm các sinh vật sống và các điều kiện tự nhiên
(môi trường vật lý) như ánh sáng, nước, nhiệt độ, không khí… Điều quan
trọng là tất cả các điều kiện hữu sinh (Biotic component) và vô sinh (Abiotic
component) tác động tương hỗ với nhau và giữa chúng luôn xảy ra quá trình
trao đổi năng lượng, vật chất và thông tin.
1.1.2. Cấu trúc và chức năng của hệ sinh thái
Nếu xét theo cấu trúc thành phần thì một HST điển hình được cấu trúc
bởi các thành phần sau đây [3], [13], [16], [27]:
- Sinh vật sản xuất (producer).
- Sinh vật tiêu thụ (consumer).

- Sinh vật phân hủy (decomposer).
- Các chất hữu cơ (protein, lipit, gluxit, vitamin, enzyme…).
- Các chất vô cơ (CO
2
, O
2
, H
2
O, muối khoáng…).
- Các yếu tố khí hậu (nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, lượng mưa…).

4
Thực chất, ba thành phần đầu chính là quần xã sinh vật, còn ba thành phần
sau là môi trường vật lý và hóa học mà quần xã đó sử dụng để tồn tại và phát triển.
Ngoài cấu trúc theo thành phần, HST còn có kiểu cấu trúc theo chức
năng. Theo E.D.Odum (1983), cấu trúc của hệ gồm các phạm trù sau:
- Quá trình chuyển hóa năng lượng của hệ.
- Xích thức ăn, lưới thức ăn.
- Các chu trình sinh địa hóa diễn ra trong hệ.
- Sự phân hóa trong không gian và theo thời gian.
- Các quá trình phát triển và tiến hóa.
- Các quá trình tự điều chỉnh.
Các cấu trúc chức năng này hình thành nên 2 chức năng của HST: vòng
tuần hoàn vật chất (2 loại: vòng kín hoàn toàn và vòng kín không hoàn toàn)
và dòng năng lượng.
Một HST ổn định là một hệ mà trong đó 4 yếu tố đầu đạt được trạng thái
cân bằng động với nhau. Trạng thái cân bằng được xác lập là do cơ chế tự điều
chỉnh, tức là xác lập các mối liên hệ ngược trong khuôn khổ của chu trình vật
chất, dòng năng lượng chung, xích thức ăn và sự phân hóa về cấu trúc.
1.2. KHÁI NIỆM CẢNH QUAN VÀ SINH THÁI CẢNH QUAN

1.2.1. Khái niệm cảnh quan [5], [6], [11], [17], [23]:
Từ “cảnh quan” là tên gọi khá cổ của một nghành khoa học Địa lý hoàn
chỉnh, được sử dụng để biểu thị tư tưởng chung về một tập hợp quan hệ tương
hỗ của các hiện tượng khác nhau trên bề mặt Trái đất.
Nền móng của cảnh quan học đã được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX trong các công trình nghiên cứu, sự phân chia địa lý tự nhiên bề
mặt Trái đất của các nhà địa lý kinh điển Nga: V. V. Docutraiep; L.C. Berge;
G.N. Vưxotxkii; … Đức: Z. Passarge; A. Hettner; ở Anh: E.J. Gerbertson; và
các nhà Địa lý Mỹ, Pháp,…

5
Quá trình phát triển đó thể hiện trong sự xác định khái niệm cảnh quan
trong các định nghĩa của các tác giả ở các thời gian khác nhau - đánh dấu mỗi
thời điểm phát triển của khái niệm cũng như của học thuyết cảnh quan có
những định nghĩa cảnh quan của nhiều tác giả như: L.C. Berge, 1931; N.A.
Xolsev, 1948; A.G.Ixatxenko, 1965…
Khi nghiên cứu cảnh quan địa lý miền Bắc Việt Nam, Vũ Tự Lập có
định nghĩa: “Cảnh quan địa lý là một địa tổng thể được phân hóa trong phạm
vi một đới ngang ở đồng bằng và một đai cao ở miền núi, có một cấu trúc
thẳng đứng đồng nhất về nền địa chất, về kiểu địa hình, kiểu khí hậu, kiểu
thủy văn, về đại tổ hợp thổ nhưỡng và đại tổ hợp thực vật, và bao gồm một
tập hợp có quy luật của những dạng địa lý và những đơn vị cấu tạo nhỏ khác
theo một cấu trúc ngang đồng nhất” (Vũ Tự Lập 1976) và cũng như N.A.
Xolsev, các cá thể cảnh quan của ông không lặp lại ở bất kỳ lãnh thổ khác.
Gần đây A.G. Ixatrenko lại đưa ra một định nghĩa ngắn gọn hơn “Cảnh quan
là một địa hệ thống nhất về mặt phát sinh, đồng nhất về các dấu hiệu địa đới và phi
địa đới, bao gồm một tập hợp đặc trưng của các địa hệ liên kết bậc thấp” (1991).
Phân tích các định nghĩa trên cho thấy 3 quan niệm về cảnh quan mà
sau đó được áp dụng để chỉ các hình thức cảnh quan khác nhau phụ thuộc vào
các quan niệm của người nghiên cứu (Từ điển Bách khoa Địa lý 1988).

1. Cảnh quan biểu thị tổng hợp thể tự nhiên lãnh thổ của một cấp bất
kỳ, đồng nghĩa với tổng thể tự nhiên – lãnh thổ, địa tổng thể tự nhiên hay địa
hệ tự nhiên (quan niệm chung).
2. Cảnh quan là một đơn vị phân loại trong hệ phân vị tổng thể tự
nhiên, trong đó cảnh quan là đơn vị chủ yếu được xem xét đến những biến đổi
do tác động của con người (quan niệm kiểu loại).
3. Cảnh quan để chỉ một phần lãnh thổ nào đó riêng biệt của lớp vỏ địa
lý, trong đó có những đặc tính chung nhất (quan niệm cá thể).

6
Dù xem cảnh quan theo khía cạnh nào thì cảnh quan vẫn được xem là
một tổng thể tự nhiên, còn sự khác biệt của các quan niệm trên ở chỗ coi cảnh
quan là đơn vị thuộc cấp phân vị nào, cảnh quan được xác định và thể hiện
trên bản đồ theo cách thức nào, theo cách quy nạp hay diễn giải (Nguyễn
Thành Long và nnk, 1993).
1.2.1. Khái niệm sinh thái cảnh quan [5], [11], [18]:
STCQ là một bộ phận của sinh thái học. Nó nghiên cứu cấu trúc cảnh quan
ảnh hưởng như thế nào đến sự đa dạng và sự phân bố của các quần thể sinh vật.
Theo Turner (1989), “STCQ là sự nghiên cứu cấu trúc cảnh quan có ảnh
hưởng như thế nào đến sự đa dạng và sự phân bố của các quần thể sinh vật”.
Nguyễn Thế Thôn (1994) đã đưa ra định nghĩa về STCQ: “STCQ là
tổng thể hiện tại, có cấu trúc cảnh quan địa lý và có chức năng sinh thái của
các HST đang tồn tại và phát triển trên tổng thể lãnh thổ đó. STCQ được phân
biệt theo cấu trúc cảnh quan và theo chức năng HST khác nhau trên các phần
lãnh thổ khác nhau”.
Như vậy, STCQ có hai khía cạnh nội dung cơ bản trong một nội dung
thống nhất đó là: lãnh thổ cảnh quan và HST của cảnh quan. Hai khía cạnh
này độc lập với nhau nhưng liên kết chặt chẽ với nhau trong cùng lãnh thổ
thống nhất. Những vấn đề lý thuyết STCQ cũng chính là sự thống nhất các lý
thuyết cảnh quan và lý thuyết HST [5], [11], [23], [25].

1.3. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU SINH THÁI CẢNH
QUAN Ở VIỆT NAM
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cảnh quan tập trung giải quyết mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên dưới nhiều hình thức dựa trên nguyên lý
sinh thái. Cảnh quan được áp dụng và triển khai nghiên cứu bước đầu như các
công trình “Tài nguyên môi trường và phát triển bền vững”, “Sinh thái môi
trường ứng dụng”, “Thiên nhiên Việt Nam” và "Việt Nam lãnh thổ và các
vùng địa lý” [18].

7
Các công trình của các nhóm tác giả khác nhau đều là sự hội tụ và bổ
sung cho nhau của hai nghành Địa lý và Sinh học. Sở dĩ có sự hội tụ này là vì
các nhà Địa lý đi từ giới vô cơ dẫn đến giới hữu cơ và cuối cùng thấy sinh vật
có vai trò chủ đạo trong HST tự nhiên và HST tự nhiên hoạt động tốt nhất là
HST có năng suất sinh học cao nhất. Do vậy, cải tạo hệ tự nhiên phải bắt đầu
từ cải tạo hệ thực vật. Còn các nhà sinh thái học trong khi tìm hiểu giới sinh
vật không thể không đề cập đến môi trường vô cơ như là đất, nước, không
khí. Cả hai đều phát sinh, phát triển trong mối quan hệ tương tác và thống
nhất với nhau thành một hệ tự nhiên. Các nhà địa lý giúp cho các nhà sinh học
có được sự nhìn nhận tổng hợp của sự phân hóa lãnh thổ trong việc nghiên
cứu tuần hoàn nước, tuần hoàn địa hóa, xác định chuỗi thức ăn và tuần hoàn
sinh vật [11].
Bên cạnh đó, một số nhóm tác giả của Khoa Địa lý và Khoa Sinh học,
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật,
Viện Địa lý đi sâu nghiên cứu cảnh quan ở mức sâu hơn, với một số công
trình đã được ứng dụng vào thực tế sản xuất, đem lại hiệu quả về kinh tế và
môi trường. Nổi bật có các công trình “Cảnh quan địa lý Miền Bắc Việt
Nam”, "Nghiên cứu xây dựng bản đồ cảnh quan các tỷ lệ trên lãnh thổ Việt
Nam”, “Quy hoạch không gian để bảo tồn thiên nhiên ở khu bảo tồn thiên
nhiên Vũ Quang - Một phương thức tiếp cận sinh thái cảnh quan",…. [18].

Mặt khác, cảnh quan còn được nghiên cứu lồng ghép trong các nghiên
cứu về sinh thái học của sinh học. Chiều hướng này được áp dụng rộng rãi, là
cơ sở khoa học cho nhiều luận chứng phát triển kinh tế tại các vùng đệm của
các khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam.
Nhìn chung các nghiên cứu trên chủ yếu chỉ đang ở mức nghiên cứu về
cảnh quan, địa lý, sinh học hoặc sinh thái học thuần tuý chứ không phải
nghiên cứu STCQ thực sự. Các nghiên cứu này, nếu được đặt trong phạm trù

8
nghiên cứu STCQ, chắc chắn sẽ giúp cho nhiều nhà quản lý, khoa học có
được sự giải thích hợp lý hơn sự biến động các quá trình diễn ra trong hệ sinh
thái theo không gian và thời gian, nhằm đưa ra những giải pháp quản lý các
HST hiệu quả và bền vững [18].
1.4. ỨNG DỤNG GIS VÀ VIỄN THÁM TRONG NGHIÊN CỨU SINH THÁI HỌC
1.4.1. Hệ thống thông tin địa lý - GIS
Hệ thống thông tin địa lý (GIS - Geographical Information System) và
Viễn thám (Remote sensing) thuộc nhóm những công nghệ phát triển nhanh
nhất hiện nay. Bất cứ sự vật hiện tượng nào trên trái đất có thể bản đồ hoá thì
có thể ứng dụng GIS. GIS sử dụng máy tính với những phần mềm chuyên
dụng để lưu trữ, phân tích và trình diễn dữ liệu đã thu thập được về một chủ
đề nào đó.
Hệ thông tin địa lý – GIS là một tổ chức tổng thể của bốn hợp phần:
phần cứng máy tính, phần mềm, tư liệu địa lý và người điều hành được thiết
kế hoạt động một cách có hiệu quả nhằm tiếp nhận, lưu trữ, điều khiển, phân
tích và hiển thị toàn bộ các dạng dữ liệu địa lý.
Tuy nhiên, một định nghĩa khác có tính chất giải thích, hỗ trợ là: “Hệ
thông tin địa lý – GIS là một hệ thống máy tính có chức năng lưu trữ và liên
kết các dữ liệu địa lý với các đặc tính của bản đồ dạng đồ họa, từ đó cho một
khả năng rộng lớn về việc xử lý thông tin, hiển thị thông tin và cho ra các sản
phẩm bản đồ, các kết quả xử lý cùng các mô hình”

Cấu trúc của GIS bao gồm 4 hợp phần cơ bản như sau : dữ liệu không
gian, ngƣời điều hành, phần cứng, phần mềm (hình 1)


9

Hình 1. Cấu trúc của GIS
Hệ thống thông tin địa lý khác với bản đồ theo nhiều cách [10]:
- Bản đồ là sự miêu tả (vẽ) tương tự của bề mặt trái đất trong khi đó
GIS ghi lại các đặc điểm phân bố không gian theo dạng số.
- Bản đồ miêu tả (vẽ) cùng một lúc sự đa dạng của các đặc điểm cảnh
quan (ví dụ địa hình, thảm thực vật, mạng lưới đường) trong khi GIS lại chứa
đựng các đặc điểm này một cách riêng lẻ.
- Bản đồ là tĩnh và khó cập nhật trong khi GIS là các lớp dữ liệu có thể
sửa chữa rất dễ dàng.
- Bản đồ bản thân nó là sản phẩm cuối cùng trong khi sản phẩm cuối
của GIS có thể lại là bản đồ hoặc dữ liệu.
- Mặc dù các bản đồ có thể ở dạng của đầu vào hay đầu ra của GIS, thì
GIS lại có tính linh hoạt của các dữ liệu bản đồ do sự phong phú của các công
nghệ của nó đối với các thao tác dữ liệu và phân tích định lượng.
1.4.2. Viễn thám (Remote sensing – RS)
Có rất nhiều định nghĩa về viễn thám, như của Shunji Murai (1993);
Nguyễn Ngọc Thạch (1997); Thomas & Ralph (2000)… Mặc dù viễn thám
được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau nhưng đều có chung một quan
điểm: viễn thám là khoa học thu nhận thông tin phản ánh về vật thể mà không

10
tiếp xúc trực tiếp với vật thể đó. Nói cách khác, viễn thám là khoa học và
công nghệ mà nhờ nó các tính chất của vật thể quan sát được xác định, đo đạc
hoặc phân tích mà không cần tiếp xúc trực tiếp với chúng [9], [14], [28].

Viễn thám được thực hiện từ nhiều khoảng cách, độ cao khác nhau như:
tầng mặt đất; tầng máy bay; tầng vũ trụ.
Hiện nay, những tiến bộ và sự phát triển của khoa học địa lý cho phép
mở ra những phương hướng áp dụng mới của viễn thám, đặc biệt trong hướng
địa lý ứng dụng và càng ngày càng thể hiện tính hiệu quả khi vận dụng trong
thực tiễn của nhiều lĩnh vực khác nhau như: nghiên cứu, đánh giá các loại tài
nguyên, nghiên cứu môi trường và biến động môi trường, nghiên cứu các
HST, tổ chức lãnh thổ và quản lý môi trường, quan trắc chất lượng nước,
thành lập bản đồ sử dụng đất và bản đồ rừng ngập mặn kết hợp với phân tích
mối quan hệ giữa chỉ số thực vật có tham số thống kê [9].
1.4.3. Viễn thám và GIS trong nghiên cứu và quy hoạch PTBV
Viễn thám và GIS làm cơ sở cho quy hoạch PTBV và quy hoạch phát
triển DLST - nhận biết các địa điểm DLST tiềm năng. Sau khi nhận biết các
địa điểm có tiềm năng, kế hoạch phát triển sẽ được thiết lập cho phát triển
DLST dựa vào địa phương với nguồn tài nguyên địa phương sẵn có. Bản đồ
địa hình, đất, thực vật, thủy lợi, khí hậu đóng vai trò quan trọng trong sự phát
triển của khu vực. Để hoàn thành mục đích này, tiếp cận viễn thám và GIS đã
được sử dụng [9].
1.5. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ QUY HOẠCH
1.5.1. Phát triển bền vững
Phát triển là một quá trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu tố cấu thành
khác nhau như kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật, văn hóa… Mục tiêu của
phát triển là nâng cao điều kiện và chất lượng cuộc sống của loài người; làm
cho con người ít phụ thuộc vào thiên nhiên; tạo lập nên cuộc sống công bằng

11
và bình đẳng giữa các thành viên. Tuy nhiên, trong một thời gian khá dài
người ta đặt mục tiêu kinh tế quá cao, xem sự tăng trưởng về kinh tế là độ đo
duy nhất của sự phát triển.
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980

trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn
Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn
giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh
tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến
môi trường sinh thái học".
UNEP, 1991 định nghĩa “PTBV là sự phát triển thỏa mãn nhu cầu của
thế hệ hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng thỏa mãn nhu cầu của thế
hệ tương lai” [13].

Hình 2: Mô hình PTBV của Ngân hàng Thế giới World Bank [12]
Với mô hình PTBV của Ngân hàng Thế giới như trình bày ở hình 2,
PTBV được hiểu cần phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội
công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả
các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội phải bắt
Phát triển bền
vững
Mục tiêu
sinh thái
Mục tiêu
xã hội
Mục tiêu kinh tế

12
tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội
- môi trường.
Có một số mô hình/ sơ đồ PTBV với những sai khác nhất định về sự
hài hòa giữa các lĩnh vực khác nhau của họat động kinh tế xã hội, chính trị và
môi trường: Mô hình PTBV của WCED (1987), Jacobs và Sadler (1990),
Villen (1990), Vaillancourt (1995)… [12]. Các mô hình trên có thể khác nhau
về phương pháp tiếp cận nhưng đều thống nhất các quan niệm chung về

PTBV, trong đó PTBV là một quá trình bao gồm :
- Sự phối hợp chặt chẽ chính sách kinh tế - xã hội và môi trường, trong
đó sự hiểu biết các hệ thống xã hội, kinh tế, sinh thái và mối liên quan phức
tạp giữa các hệ thống đó được nâng cao.
- Đảm bảo mọi phúc lợi xã hội không bị suy giảm.
Cơ sở của sự PTBV bao gồm: [13]
+ Giảm đến mức thấp nhất sự khánh kiệt tài nguyên (dạng tái tạo và
không tái tạo), để đảm bảo cho sự khai thác lâu dài, tương tự như mối quan hệ
vật dữ - con mồi.
+ Bảo tồn đa dạng sinh học trong mọi khía cạnh, mọi mức độ trên cơ sở
quản lý và sử dụng hợp lý, duy trì các HST thiết yếu và các hệ hỗ trợ đảm bảo
cho cuộc sống lâu dài của cộng đồng.
+ Bảo vệ sự trong sạch và sự ổn định của môi trường.
Các đặc điểm của PTBV: [12]
- Sử dụng đúng cách nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Tạo ra các nguồn vật liệu và năng lượng sạch.
- Ứng dụng công nghệ sạch và phù hợp.
- Tăng sản lượng lương thực, thực phẩm.
- Cấu trúc và tổ chức lại các vùng sinh thái nhân văn theo hướng
tích cực.

13
Các nguyên tắc xây dựng xã hội phát triển bền vững
Trong cuốn “Cứu lấy Trái đất” xuất bản năm 1991, 200 nhà khoa học
hàng đầu tập hợp trong 3 tổ chức là Chương trình môi trường Liên hợp quốc
(UNEP), Quỹ hoang dã Thế giới (WWF) và Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên thế
giới (IUCN) đã nêu lên hệ thống 9 nguyên tắc cơ bản để xây dựng một xã hội
phát triển bền vững. Đó là:
1. Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng.
2. Nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.

3. Bảo tồn sự sống và sự đa dạng sinh học của Trái đất.
4. Hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm các nguồn tài nguyên
không tái tạo.
5. Giữ vững trong khả năng chịu đựng được của Trái đất,
6. Thay đổi thái độ và hành vi của con người,
7. Để cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình.
8. Xây dựng một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho bảo vệ
và phát triển.
9. Xây dựng một khối liên minh toàn cầu trong bảo vệ môi trường.
Các tiêu chuẩn cho sự PTBV sinh thái học bao gồm : [9]
- Các tiêu chuẩn chung :
+ Tính lành mạnh của các tiêu chuẩn sinh thái (sản lượng sơ cấp, tính
đa dạng loài, các sinh vật hại,…).
+ Các tiêu chuẩn về tính đàn hồi (ĐDSH, độ giàu có trong không gian).
- Các tiêu chuẩn về sự đe dọa đối với bản chất HST:
+ Sự tăng dân số (đặc biệt sự đô thị hóa).
+ Tăng sử dụng nước, năng lượng, đặc biệt trên 1 đơn vị đầu người.
+ Tốc độ sử dụng tài nguyên (rừng, khoáng chất…).
+ Tăng việc tạo ra chất thải.

14
- Các tiêu chuẩn về nguy cơ bị xuống cấp đối với bản chất HST:
+ Sản lượng khai thác tăng lên theo mỗi đơn vị sử dụng tài nguyên
thiên nhiên.
+ Sự quay vòng tăng lên.
+ Số các tài nguyên quý hiếm phải bảo tồn tăng (loài bị đe dọa, các di
tích lịch sử…).
+ Sử dụng chất độc hại (thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ…) tăng.
+ Các khoản trợ cấp kinh tế cho việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên tăng.
Nói chung, các tiêu chuẩn bền vững có thể được xác định trong sự hiểu

biết và chấp nhận được ở mức địa phương với các chỉ tiêu thích hợp cho thực
trạng địa phương. Việc lựa chọn các chỉ tiêu nên bao gồm các chỉ tiêu về xã
hội, kinh tế và môi trường nhưng chú ý các chỉ tiêu được lựa chọn có liên
quan ở mức địa phương.
1.5.2. Những vấn đề về quy hoạch
Nói đến quy hoạch, người ta thường hiểu đó là sự lựa chọn, hoạch định,
quy định, sắp xếp, bố trí theo không gian, theo cơ cấu của những đối tượng
được quy hoạch để thực hiện những định hướng, những mục tiêu của chiến
lược và của kế hoạch theo những thời gian nhất định. Quy hoạch và kế hoạch
là hai phạm trù độc lập nhưng thống nhất với nhau, cùng tồn tại và phụ thuộc
lẫn nhau. Quy hoạch mang tính không gian hoặc cơ cấu của sự triển khai,
thực hiện kế hoạch. Kế hoạch mang tính thời gian cũng với các định hướng,
mục tiêu cho quy hoạch. Kế hoạch cụ thể thời gian cho quy hoạch. Quy hoạch
cụ thể không gian cho kế hoạch. Bởi vậy, quy hoạch có tính không gian
nhưng gắn với mục tiêu và thời gian của kế hoạch, kế hoạch có tính thời gian
gắn với không gian của quy hoạch [9].

15
1.5.2.1. Quy hoạch môi trường (QHMT)
QHMT là một trong các công cụ then chốt trong công tác kế hoạch hóa
hoạt động bảo vệ và QHMT. Tuy nhiên, khái niệm QHMT thường được hiểu
và diễn đạt theo nhiều cách khác nhau:
- QHMT “là quá trình sử dụng một cách hệ thống các kiến thức để
thông báo cho quá trình ra quyết định về tương lai của môi trường” [Grey
Lindsey, 1997].
- QHMT là “sự cố gắng làm cân bằng và hài hòa các hoạt động phát
triển mà con người vì quyền lợi của mình áp đặt một cách quá mức lên môi
trường tự nhiên” [John, 1979].
- QHMT là “tổng của các biện pháp môi trường công cộng mà cấp có
thẩm quyền về môi trường có thể sử dụng” [Faludi, 1987].

- QHMT cũng như các kiểu quy hoạch khác như quy hoạch tổng thể
(dài hạn) và quy hoạch phát triển dự án đều liên quan trực tiếp đến vấn đề sử
dụng đất bởi vì chúng liên quan đến phát triển các thành phần vật lý trên một
khu vực cụ thể nào đó [EMB, 1996].
- Vũ Quyết Thắng (2005) cho rằng “Quy hoạch môi trường được hiểu
là việc xác lập các mục tiêu môi trường mong muốn, đề xuất và lựa chọn các
phương án, giải pháp để bảo vệ, cải thiện và phát triển một hoặc những môi
trường thành phần hay tài nguyên của môi trường nhằm tăng cường một cách
tốt nhất năng lực, chất lượng của chúng theo mục tiêu đã đề ra”.
Quy hoạch không gian môi trường trên cơ sở tiếp cận HST là việc đề
xuất các phương án tổ chức và sắp xếp các kiểu HST. Để có một môi trường
khu vực bền vững, tính đa dạng HST càng phải lớn và theo một tỷ lệ thích
hợp nào đó để đáp ứng các yêu cầu sinh thái nhất định [9], [11].

16
1.5.2.2. Quy hoạch sinh thái
“Về thực chất, quy hoạch sinh thái hay quy hoạch tổng thể trên cơ sở
sinh thái, tài nguyên và môi trường là kiểu quy hoạch môi trường gắn liền với
quy hoạch phát triển”.
Trong bài báo “Quy hoạch sinh thái học và các dự án phát triển kinh tế”
tác giả Mai Đình Yên [Mai Đình Yên, 1976] đã có bài viết về quy hoạch sinh
thái, trong đó tác giả quan niệm rằng “Dự án phát triển kinh tế được xây dựng
trên các thông số về sinh thái học ngoài các thông số về kinh tế cho chính dự án
được gọi là quy hoạch sinh thái học”. Quy hoạch sinh thái có yêu cầu cao hơn,
có giá trị bổ sung, hoàn thiện các quy hoạch kinh tế. Như vậy, quy hoạch sinh
thái có nhiệm vụ đề ra những kế hoạch hành động nhằm giúp vùng được quy
hoạch phát triển về kinh tế, xã hội trên cơ sở giải quyết những bất cập về mặt
môi trường, giữ gìn các hệ sinh thái, đặc biệt là các hệ sinh thái mẫn cảm và
các hệ sinh thái gắn liền với đời sống cộng đồng, bảo tồn sinh vật hoang dại
Các nguyên tắc cơ bản của quy hoạch sinh thái là:

- Đảm bảo tính hệ thống.
- Tôn trọng tính mảnh dẻ và dễ bị phá hủy của các hệ sinh thái vùng
nhiệt đới.
- Làm tốt quy hoạch sinh thái ngay từ đầu.
Quy hoạch sinh thái đòi hỏi việc tuân thủ các nguyên tắc với mức độ
phù hợp cao nhất và việc sắp xếp các lô đất cận kề là tương thích. Các mục
tiêu môi trường như bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn các hệ sinh thái quan
trọng, quản lý tốt các vùng nhạy cảm môi trường, phòng chống tai biến và ô
nhiễm môi trường sẽ là những mục tiêu hàng đầu phải được chú trọng trong
quá trình hoạch định cụ thể [9].

17
1.6. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở KHU VỰC XÃ HƢƠNG SƠN
Do có cảnh quan thiên nhiên và tài nguyên phong phú nên đã có khá
nhiều công trình nghiên cứu được thực hiện tại Hương Sơn. Những năm đầu
thập kỷ 90 của thế kỷ XX, việc nghiên cứu hệ thực vật Hương Sơn đã được quan
tâm, trong đó, trước hết phải kể đến công trình “Hương Sơn - cảnh quan thiên
nhiên và tài nguyên sinh vật” do cố GS - TSKH Nguyễn Tiến Bân và các đồng
nghiệp thực hiện. Đây là công trình đầu tiên công bố, hệ thực vật Hương Sơn có
550 loài, 190 họ thuộc 6 ngành thực vật bậc cao có mạch là Khuyết lá thông
(Psilotophyta), Cỏ tháp bút (Equisetophyta), Thông đất (Lycotodiothyta), Dương
xỉ (Pteridiophyta), Hạt trần (Gymnospermae) và Hạt kín (Angiospermae).
Những năm gần đây, hệ thực vật Hương Sơn tiếp tục được nghiên cứu
thông qua một số công trình như: “Quy hoạch phát triển khu di tích du lịch
thắng cảnh Hương Sơn” của Viện Nghiên cứu phát triển du lịch, báo cáo
“Đánh giá tác động môi trường đồ án quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và
phát huy giá trị quần thể di tích danh thắng Hương Sơn”, báo cáo “Thuyết
minh tổng hợp quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị quần
thể di tích thắng cảnh Hương Sơn đến năm 2020” của Viện Quy hoạch Đô thị
- Nông thôn (2005).

Một công trình tuy thực hiện từ năm 2003 của trường Đại học Lâm
nghiệp: “Báo cáo kết quả nghiên cứu chuyên đề rừng đặc dụng Hương Sơn –
Mỹ Đức - Hà Tây” nhưng có thể xem là đã thu thập được đầy đủ hơn về hệ
thực vật Hương Sơn, trong đó công bố đã thống kê được 655 loài thuộc 430
chi, 149 họ của 6 ngành thực vật bậc cao có mạch.
Theo kết quả điều tra do Trung tâm dữ liệu Thực vật Việt Nam mới
thu được trong đợt khảo sát vào tháng 10 - 2007, hệ thực vật Hương Sơn
hiện đã biết có 823 loài thuộc 6 ngành thực vật bậc cao có mạch. Sự đa dạng
của hệ thực vật Hương Sơn được thể hiện qua 8 HST: HST khu dân cư; HST

18
thủy vực; HST rừng trên núi đá vôi; HST rừng trên núi đất; HST trảng cây
bụi, tre nứa; HST nông nghiệp; HST trảng cỏ; và HST rừng trồng và cây ăn
quả lâu năm.
Lưu Lan Hương, Đoàn Hương Mai, Phạm Mạnh Thế (2011), công bố
trên Tạp chí Khoa học công nghệ số 3 (tháng 5/2011), Sở Khoa học & Công
nghệ Hà Nội là những nghiên cứu điều tra cập nhật về thành phần các loài
động vật có xương sống trên cạn tại KVNC. Tại đây có 17 loài thú thuộc 12
họ của 4 bộ, 25 loài chim thuộc 15 họ của 8 bộ, 16 loài bò sát thuộc 8 họ của
2 bộ và 10 loài lưỡng cư thuộc 4 họ của 1 bộ.
Nhìn chung, các nghiên cứu trên đã đưa ra tính đa dạng về thành phần
loài động – thực vật cũng như đa dạng các HST tại xã Hương Sơn. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào nghiên cứu chi tiết về hiện trạng cũng như thành lập
được bản đồ hiện trạng các HST tại Hương Sơn. Do vậy, mục tiêu chính của
đề tài này là nghiên cứu cụ thể hơn để thành lập bản đồ hiện trạng các HST tại
xã Hương Sơn.













×