Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tính cách con người qua năm sinh Tuổi Sửu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.83 KB, 32 trang )

Chương 1: Những quan niệm chung về 12 con giáp
Nước ta hiện nay đang tồn tại hai loại lịch: trong khi dương lịch đang có xu hướng
lan rộng thì âm lịch vẫn tiếp tục khẳng định vị trí và sức mạnh của nó trong đời sống
xã hội. Âm lịch gắn liền với tế tự, lễ hội, với sinh hoạt ma chay, cưới gả, dựng nhà,
dựng cửa Và cứ mỗi lần tết Nguyên đán về, người ta lại nghênh đón năm mới và lưu
luyến tiễn đưa con vật biểu tượng của năm cũ. Việc chọn các con vật làm biểu tượng
đứng đầu mỗi năm - tức là
12 con giáp - phải chăng là một sự lựa chọn ngẫu hứng, tuỳ tiện hay tuân theo một
quy luật nhất định nào đó?
Trước hết, ta phải thừa nhận, dân tộc nào cũng có quan niệm, cảm thức về thời
gian, nhưng không phải nước nào cũng làm được lịch, cũng có chuẩn mực về lịch.
Lịch pháp gắn liền với thiên văn, với chiêm tinh học, là sản phẩm quan trọng mà các
nền văn minh tối cổ như Trung Hoa, Ai Cập, Babilon, Hy Lạp đạt được. Có thể nói
rằng, chính vẻ đẹp hùng vĩ của bầu trời đêm góp phần quan trọng cho tư thế của con
người mãi mãi đứng thẳng, giúp con người hoàn thiện dần. Ngưỡng mộ vẻ đẹp của
bầu trời sao còn thúc đẩy con người vươn tới khát vọng chinh phục vũ trụ, một khát
vọng mang tính chất định mệnh của nhân loại. Về điều này, các huyền thoại xưa về
Ica, về chiếc thảm bay, về Hậu Nghệ xạ nhật, Nữ Oa vá trời, Phù Đổng Thiên vương
về trời sau khi dẹp xong giặc ngoại xâm, Chử Đồng Tử và Tiên Dung trở về Thượng
giới thật vô cùng đẹp đẽ và mang tinh thần nhân văn. Mười hai con giáp, về nhiều
mặt cũng mang vẻ đẹp đó.
Thứ hai, nước ta không có lịch (sau này các triều đại ta có làm lịch khác với lịch
Trung Quốc, nhưng vẫn từ cách nhìn chung. Tuy nhiên, vấn đề này còn để ngỏ chờ
nghiên cứu thêm các tài liệu thời cổ sử). Âm lịch mà chúng ta sử dụng có nguồn gốc
từ Trung Quốc và được hoàn thiện, bổ sung bởi thực tiễn kinh nghiệm sản xuất, kinh
nghiệm thiên văn của dân tộc ta. Nói chung, việc giao thoa văn hóa giữa các nền văn
minh bao giờ cũng xảy ra với những thành tựu về nhiều lĩnh vực. Dân tộc này vay
mượn của dân tộc khác những sản phẩm hoàn thiện hơn, mang tính thực tiễn cao hơn.
Nhấn mạnh điều này để thấy rằng, muốn hiểu được mười hai con giáp thì phải trở về
với cội nguồn Trung Hoa, trở về với triết học Trung Hoa cổ xưa, đặc biệt là thuyết
Âm Dương Ngũ Hành.


Thứ ba, các cách gọi, cách định dạng, ngoài ý muốn biểu tượng cụ thể còn mang
sức mạnh khái quát rất lớn. Chúng trở thành các "ký hiệu thông tin" để chứa các "nội
dung thông tin" theo một cách mã hóa thông tin nào đó, vì thế, giải thích mười hai con
giáp không tách rời việc giải mã này.
Âm Dương Ngũ Hành gắn liền với tư duy Dịch lý, là nền tảng để xây dựng các
quan điểm, trong đó có thiên văn. Người xưa xuất phát từ quan sát thực tiễn để định
danh sự vật:
Âm là Thái âm, tức Mặt trăng
Dương là Thái dương, tức Mặt trời
Ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là năm hành tinh mà người cổ đại sớm
nhận biết được của hệ Mặt trời. Bên cạnh đó, quan niệm Trời = cha, Đất = mẹ và quan
niệm về một vũ trụ hài hòa cũng đóng vai trò quan trọng đối với người xưa. Và như
vậy, Trời = thiên là dương, Đất = địa là âm, thượng giới và hạ giới được phân định,
trật tự của vũ trụ được xác lập và trật tự xã hội cũng theo đó được hình thành. Trong
xã hội có quan hệ vua - tôi, quân tử - tiện dân, có nội trị - ngoại giao, trong - ngoài,
trên - dưới, trước - sau, phải - trái, đúng - sai, thật - giả tất cả đều được quy tụ vào
phạm trù âm - dương, được quy vào các phẩm chất của ngũ hành. Tuy nhiên, sự phân
chia âm dương không phải là thuần túy máy móc mà xuất phát từ nguyên lý của Dịch
học: "Dịch có thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng
sinh bát quái", nghĩa là, trong sự xếp đặt đó đã bao hàm một sự vận động biện chứng,
đặc biệt là quan niệm “trong âm có dương, trong dương có âm" trở thành nguyên tắc
cấu trúc sự vật. Do đó, khát vọng về một cuộc sống hài hoà, một xã hội ổn định, một
trạng thái cân bằng là giấc mộng đẹp và là đích hướng tới của người xưa. Vậy, quan
niệm Âm Dương Ngũ Hành có liên quan gì đến mười hai con giáp?
Theo sự phân tích của người xưa, mười hai con vật được tuyển chọn, bao gồm cả
vật nuôi và thú vật hoang dã, vừa có thật vừa tưởng tượng, đều đáp ứng nguyên tắc
âm dương, chẵn lẻ. Ở đây cũng cần nói thêm về dương cơ, âm ngẫu, cơ là số lẻ, ngẫu
là số chẵn. Các con vật được chọn đều có phẩm chất chẵn - lẻ mang đặc trưng loài, thể
hiện qua số ngón chân của chúng. Cụ thể là:
Tý = con Chuột = 5 ngón = lẻ = dương

Sửu = con Trâu (trong thiên văn Trung Quốc nghĩa là ngưu = con bò) = 2 ngón =
chẵn = âm
Dần = con Hổ = 5 ngón = lẻ = dương
Mão = con Mèo (trong thiên văn Trung Quốc là con thỏ) = 4 ngón = chẵn = âm
Thìn = con Rồng (con vật truyền thuyết) = 5 ngón = lẻ = dương
Tỵ = con Rắn (theo truyền thuyết bị chặt chân và chẻ lưỡi ra) = lưỡi chẻ đôi = chẵn
= âm
Ngọ = con Ngựa = 1 ngón = lẻ = dương Mùi = con Dê = 2 ngón = chẵn = âm Thân
= con Khỉ = 5 ngón = lẻ = dương Dậu = con Gà = 4 ngón = chẵn = âm Tuất = con Chó
= 5 ngón = lẻ = dương Hợi = con Lợn = 4 ngón = chẵn = âm
Như vậy, số ngón tối đa là 5, tối thiểu là 1, còn lại là 2 và 4. Tuyệt nhiên không có
số 3.
Số 3 được đưa vào hệ tam tài: Thiên-Địa-Nhân, hệ toạ độ quan trọng mà người xưa
xác lập được nhằm khẳng định vai trò của nó trong vũ trụ. Con người luôn có ý thức
dùng kích thước vũ trụ để đo bản thân. Vì thế, người Hy Lạp cổ mới mãn nguyện về
việc "con người sánh tựa thần linh", và họ sáng tạo ra thế giới điêu khắc có một không
hai để ca ngợi vẻ đẹp này. Con người không hề ích kỷ khi cố gắng hoàn thiện bức
tranh vũ trụ. Họ đưa các con vật vừa thực vừa huyền thoại tạo ra sự đông đúc cho thế
giới nhân quần, nhưng đồng thời đó cũng là những con vật mà họ thuần hóa hoặc
những con vật thường gặp và thường gây nguy hiểm cho họ.
Như vậy, tiêu chuẩn số chẵn - lẻ của ngón chân đã giúp các loài vật được chọn làm
mười hai con giáp. Nhưng số ngón chẵn - lẻ cũng như cái tên chuột, mèo, rồng, rắn
của chúng chưa đủ để đưa chúng vào vũ trụ. Con người lại phải gán cho chúng các
phương vị:
Tý = Bắc Ngọ = Nam
Mão = Đông Dậu = Tây
Và hàng đêm, khi quan sát sao Bắc Đẩu, người ta thấy cái đuôi của nó cứ quay đều
đặn trên tinh cầu theo một vòng tròn, duy có điều nó giống kim đồng hồ quay ngược.
Vòng tròn đó được chia theo phương vị 12 cung và 12 con giáp được trấn giữ 12
phương vị này.

Trong những phát hiện quan trọng của thời cổ đại có việc phát hiện ra đường
Hoàng Đạo - đường dịch chuyển của mặt trời. Vòng Hoàng đạo được chia, phù hợp
với 12 tháng của năm. Và 12 con giáp lại được trấn giữ 12 cung Hoàng Đạo này. Tuy
nhiên, con số 12 được người xưa chọn không phải là con số tùy tiện mà là một con số
hoàn toàn khoa học, để hiểu được điều đó rõ ràng không đơn giản chút nào.
Có liên quan đến 12 cung Hoàng Đạo cần phải kể đến Ngũ hành: năm hành tinh
Kim - Mộc - Thuỷ - Hoả - Thổ, trong đó chu kỳ vận hành của sao Mộc mà người
phương Tây đặt tên là Juypite được người xưa ghi nhận bởi tính đặc biệt của nó. Sao
Mộc vận hành xung quanh Mặt Trời trọn 12 năm. Mỗi năm nó xuất hiện ở một
phương vị nhất định. Nơi đó 1 trong 12 con giáp đang trấn giữ. Tên gọi của nó cũng
từ đó mà ra, vì thế sao Mộc còn được gọi là sao Tuế (sao năm), và vì nó là hành tinh
lớn nhất trong hệ Mặt Trời mà người xưa quan sát được nên nó còn được gọi là sao
Thái Tuế. Vùng sao Thái Tuế là một mã thông tin quan trọng của phép tính tử vi.
Liên quan đến việc chọn 12 con giáp là do những quan sát, những nhận xét về cuộc
sống của những loài vật này. Vào những khoảng giờ nhất định, các loài vật - chỉ giới
hạn trong mười hai con giáp - chịu sự tác động qua lại của các lực vũ trụ đã có các
biểu hiện trạng thái sống khác nhau. Trạng thái xấu nhất cho sự sống còn của chúng
được thể hiện thành các khoảng thời gian (giờ, ngày, tháng, năm) và được gọi theo tên
của chúng. Cụ thể:
Tên giờ Ảnh hưởng xấu tới:
Tý Chuột Sửu Trâu Dần Hổ Mão Thỏ (Mèo) Thìn Rồng
Tỵ Rắn Ngọ Ngựa Mùi Dê Thân Khỉ Dậu Gà Tuất Chó Hợi Lợn
Chúng ta thử kiểm nghiệm điều này vì các con vật này không xa lạ với chúng ta.
Tất nhiên trừ con Rồng huyền thoại.
Cũng có thể do quan sát đời sống của các loài vật mà người xưa đi đến chỗ thống
kê đặc điểm sinh học của chúng, từ đó khái quát thành 12 con giáp. Đặc biệt, người
xưa chú ý tới các thời điểm có vấn đề của con vật.
Tháng Tý = tháng mười một: Loài chuột hay bị bệnh và chết. Thực tế còn cho thấy,
đây là tháng bắt đầu lạnh nhiều, đồng ruộng vào vụ cày bừa, chuột không có ăn và
không chống nổi rét nên dễ chết.

Tháng Sửu = tháng mười hai, tháng chạp: tháng rét đậm với đại hàn, tiểu hàn, cây
cỏ tàn lụi. Ăn không đủ mà còn phải kéo cày nên loài trâu sinh bệnh mà chết.
Tháng Dần = tháng giêng: thức ăn của hổ là các loài thú khác. Tháng này các loài
ăn cỏ như hươu nai đi kiếm ăn vì cỏ tranh đã nhú mầm. Hổ cũng đi tìm mồi, giẫm
phải các mầm cỏ tranh nhọn cứng mà bị thương và kéo theo cái đói nên dễ mắc bệnh.
Tháng Mão = tháng hai: Mão là con mèo, nhưng trong thiên văn cổ Trung Quốc thì
biểu tượng của tháng này là con thỏ. Tiết này là tiết kinh trập (sâu nở), cùng với sâu là
chất độc do sâu thải ra, thỏ ăn vào tất phải chết.
Tháng Thìn = tháng ba: Rồng là con vật của huyền thoại, nhưng khi được xác định
(cho dù chỉ là tưởng tượng) thì tất yếu nó cũng có đời sống riêng, kể cả ốm đau, bệnh
tật và cái chết. Nhưng tháng này Rồng có bị bệnh không thì không ai biết. Nhưng nếu
trở lại cội nguồn huyền thoại thì có thể hiểu được phần nào. Rồng là con vật được
giao phó làm mưa, đi liền với sấm chớp. Cha ông ta có câu tục ngữ: tháng ba sấm
chạy phải chăng vì trách nhiệm nặng nề này mà con Rồng dễ bị gặp những điều
không may?
Tháng Tỵ = tháng tư: Sau thời kỳ ngủ tránh rét và liền sau đó là mưa xuân ấm áp,
thức ăn dồi dào, rắn phải lớn lên bằng cách lột xác. Trong thời kỳ lột xác, rắn yếu nhất
và là miếng mồi ngon cho các động vật khác.
Tháng Ngọ = tháng năm: Mùa hè nóng nực, lại là thời kỳ thu hoạch mùa màng nên
ngựa phải làm việc nhiều, dễ mắc bệnh mà chết.
Tháng Mùi = tháng sáu: Loài sơn dương dễ mắc bệnh vì thức ăn không còn ngon
lành nữa: lá cây già cứng, mưa nhiều và thất thường.
Tháng Thân = tháng bảy: Tháng mưa ngâu, nhiều bão, hoa quả gặp mưa bão bị thối
hỏng, khỉ thiếu thức ăn, bị ướt lại thêm đói, dễ mắc bệnh.
Tháng Dậu = tháng tám: Đầu tháng lụt lội, cuối tháng gió heo may, gà vừa đói vừa
rét, ôn dịch phát sinh và gà chết.
Tháng Tuất = tháng chín: Tháng này chó hay bị phát bệnh. Kinh nghiệm dân gian
Nghệ Tĩnh cho thấy, tháng này trùng hợp với mùa rươi, chó rất hay chết. Đặc biệt, nếu
chó đẻ vào tháng này thì chó con rất khó nuôi.
Tháng Hợi = tháng mười: gió Đông Bắc về mang theo các mầm bệnh. Lễ hội mở,

trâu, bò gà, lợn bị giết nhưng điều kiện vệ sinh không tốt nên lợn được hưởng các
khoản thức ăn thừa thì tất nhiên rất dễ nhiễm bệnh và chết.
Tất cả các nhận xét trên đây đều cho thấy sự quan sát tỉ mỉ của người xưa. Bạn hãy
tự kiểm nghiệm bản thân mình, biết đâu những ghi nhận hàng ngày của bạn liên quan
đến tuổi tác của bạn, phối hợp với nhịp sinh học của bản thân bạn lại trở nên hữu ích
vô cùng cho chính bạn.
*
* *
Câu chuyện mười hai con giáp sẽ thiếu sót nếu không đề cập đến hệ đếm can - chi.
Can - chi là hệ đếm cơ số 60, nó phối hợp các hệ đếm cơ số 2, 10, 12 và là một hệ
đếm liên quan tới nhiều nền văn minh cổ. Người Babilon cách đây 3000 năm với hệ
đếm 60 đã xác định một năm có 360 ngày. Với hệ đếm 60 - hệ can, chi - dẫn đến các
tiện lợi cho phép tính thời gian vì 60 là bội số của nhiều số như:
Số 3 = số tháng trong 1 quý.
Số 6 = số tháng trong nửa năm.
Số 10 = số ngày trong một tuần trăng (âm lịch). Số 12 = số tháng của một năm, số
năm của một giáp, số giờ trong một ngày (giờ âm lịch).
Số 15 = số ngày trong một tiết. Số 30 = số ngày của một tháng.
Hệ đếm này xuất hiện từ lâu, được ghi lại trong giáp cốt văn.
Can có nghĩa là thân cây có gốc ở Trời (nên gọi là Thiên can). Người ta dùng ngũ
vận để tính Thiên Can: tức là 2 x 5 = 10 Thiên can. Bản thân Thiên can cũng có âm
dương:
Dương can: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm
Âm can: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý
Chi có nghĩa là cành trúc bị lìa khỏi thân, là cành cây nơi mặt đất (nên gọi là Địa
chi). Địa chi được tính theo lục khí là 2 x 6 = 12. Địa chi cũng có âm dương.
Dương chi: Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất
Âm chi: Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi
Nguyên tắc phối hợp can, chi là dương hợp dương, âm hợp âm, thiên can là cha
(cũng có nghĩa là dương), đứng trước, địa chi (có nghĩa là âm) đứng sau.

Ta có:
Giáp Tý
Ất Sửu
Bính Dần
Đinh Mão cứ thế tiếp tục mãi. Song vì Thiên
can có 10, Địa can có 12, nên một vòng can - chi là 60: Số 60 được gọi là lục thập hoa
giáp. Nguyên tắc dương kết hợp với dương, âm kết hợp với âm là bất di bất dịch, vì
vậy không bao giờ có Giáp Sửu, Mậu Dậu cả, nguyên tắc kết hợp này cho phép từ
dương tạo ra dương, từ âm tạo ra âm, trong 60 ngày thì có 30 dương 30 âm tạo ra nhịp
vận động của thời gian, tạo ra sự thăng giáng.
Cách gọi can - chi trước tiên là để chỉ ngày, sau đó vì tính tiện ích tổng hợp của nó,
nên nó được dùng gọi giờ, tháng và năm. Như vậy, can chi trở thành đơn vị thời gian
âm lịch. Nếu có điều kiện để kiểm nghiệm thì các nhận xét về bệnh tật của các con
giáp đã nêu ở trên cho phép thừa nhận sự chặt chẽ và khoa học hệ đếm can chi này.
Để hiểu rõ hơn, trước hết ta tìm hiểu ý nghĩa can chi. Nguồn gốc của can chi đến từ
cây. Cụ thể:
Thiên can:
Địa chi:
Dùng can - chi để đặt tên các năm thì gọi là "can chi ký niên" và cứ 60 năm lại
quay lại vòng tròn. Vòng này gọi là vòng Giáp Tý. Theo truyền thuyết Trung Quốc thì
đến năm 1983, đã diễn ra 77 vòng Giáp Tý. Năm 1984, năm Giáp Tý là vòng quay thứ
78. Dùng can chi để ghi tháng thì gọi là "can chi ký nguyệt", can chi để ghi ngày thì
gọi là "can chi ký nhật". Tên can chi của tháng gọi là nguyệt kiến, tên can chi của
ngày gọi là nguyệt sóc.
Ngoài việc phân chia can chi thành âm dương, người ta còn chia can chi theo ngũ
hành, cụ thể:
Từ đó cũng có can chi xung hợp. Cụ thể:
Giáp hợp Kỷ
Ất hợp Canh
Bính hợp Tân

Đinh hợp Nhâm
Mậu hợp Quý
Giáp xung Mậu
Ất xung Kỷ
Bính xung Canh
Đinh xung Tân
Mậu xung Nhâm Kỷ xung
Quý Canh xung Giáp Tân xung Ất
Nhâm xung Bính
Quý xung Đinh
Thiên can, Địa chi còn được đặt trong quan hệ với cấu trúc cơ thể, là cách mã hoá
các vùng, các bệnh tật, được xem xét trong tương quan với màu sắc, phương vị. Từ
đó, chức năng mà mười hai con giáp đảm nhiệm không nhẹ nhàng. Và cũng do đó
hiểu được mười hai con giáp giúp cho sự nhận diện cuộc sống đơn giản hơn, tức là
tìm ra cốt lõi của nó, tìm cách cân bằng và đảm bảo sự hài hoà trong cuộc sống.
Chương 2: Sự lựa chọn mười hai con giáp ở các nước
Lịch pháp là phát kiến của các nền văn minh tối cổ và điều này liên quan đến việc
phát hiện ra vòng Hoàng đạo. Người Ai Cập đã sớm phát hiện ra vòng này và đặt tên
là vòng Zodiac (nghĩa đen là vòng động vật). Vòng này được khắc trên một tảng đá
lớn. Đây là dấu tích cho thấy người xưa ở các nơi khác nhau trên thế giới đều đã quan
tâm quan sát bầu trời và đặt tên cho các cung Hoàng đạo (cũng có nghĩa là cho các
ngôi sao trong cung đó) bằng tên của các loài vật hoặc rút ra từ truyền thuyết, hoặc
gắn với cuộc đời họ, thậm chí gây nguy hiểm cho họ, trường hợp không có tên con vật
thì người ta đặt theo hình thế ngôi sao.
Cách đặt tên của vòng Zodiac và của âm lịch theo mười hai con giáp không liên quan
đến nhau. Sự so sánh này cung cấp cho các bạn cách nhìn tổng quan của quan niệm
thiên văn Đông - Tây và cách gọi của Việt Nam để dễ gọi tên khi chiêm nghiệm bầu
trời sao.
Các sao trong vòng Zodiac dùng để chỉ 12 cung Hoàng đạo chứ không phải để gọi tên
tháng. Tạp chí Horoscope (Chiêm tinh học) của Pháp xuất bản hàng tháng đều lấy sự

tương ứng của tháng hiện tại với 12 cung Hoàng đạo này để đưa ra lời dự đoán và lời
khuyên cần thiết. Cách gọi 12 cung này được gọi theo danh từ của Pháp nhưng nghĩa
của chúng thì không đổi. Đó là Bélier, Taureau, Gémeaux, Cancer, Lion, Vierges,
Balance, Scorpion, Sagitaire, Capricornes, Verseau và Poissons.
Cách gọi tên hàng tháng có nguồn gốc từ lịch sử Roma.
Ban đầu, lịch này quy định một năm có 10 tháng, thứ tự như sau:
1. Martius: Vũ thần
2. Aprilius: Nảy mầm
3. Maius: Phồn vinh
4. Junius: Mẫu thần
5. Quintilis:
6. Sextilis:
7. September:
8. Octorber:
9. November:
10. December:
Về sau người ta thêm vào hai tháng nữa là:
11. Januarius: Môn thần
12. Februarius: Tẩy uế
Hai tháng này được thêm vào đầu năm, thành 2+10, từ đó Martius thành tháng 3.
Cách mạng Pháp 1789, cũng đưa ra lịch Cộng hòa của mình vào ngày 22/9/1773.
Nguyên tắc xác định tên tháng của lịch này dựa trên đặc điểm thời tiết hay mùa màng
Như vậy, ở đây không có con vật nào được dùng để đặt tên cho tháng. Cách đặt tên
tháng theo nông lịch như trên cũng đã có trong thời cổ Trung Quốc. Đã có một thời kỳ
dài người Trung Quốc gọi tên tháng bằng tên các loài cây, loài hoa thường gặp trong
tháng, trong mùa đó:
Tháng giêng là nguyên nguyệt Tháng hai là hạnh nguyệt Tháng ba là đào nguyệt
Tháng tư là hòa nguyệt Tháng năm là lưu nguyệt Tháng sáu là hà (sen) nguyệt Tháng
bảy là đồng nguyệt Tháng tám là quế nguyệt Tháng chín là cúc nguyệt Tháng mười là
mai nguyệt Tháng mười một là giá (lau) nguyệt

Tháng mười hai là lạp (tế lễ) nguyệt Như vậy, sự lên ngôi của các con vật, trở thành
mười hai con giáp chẳng phải dễ dàng. Người phương Tây vẫn giữ nguyên vòng
Hoàng đạo Zodiac và bảo tồn tên gọi các tháng mà họ đã kế thừa từ người La Mã.
Chương 3: Sự ra đời của 12 con giáp
Sau khi người Trung Quốc cổ đại phát hiện “chất” của thời gian, liền đó lại nảy
sinh ra một nghi vấn mới. Vậy vấn đề “chất” của thời gian rốt cuộc có ảnh hưởng gì
tới đời sống, tư chất tính cách của mỗi người hay không? Họ liền ngược thời gian
hàng trăm, hàng ngàn năm, tìm tới thời điểm của các cuộc chiến tranh, những năm
được mùa, mất mùa, địa chấn, lụt lội để tìm hiểu, tính toán và cuối cùng đã phát hiện,
những sự kiện trên đều xảy ra theo một chu kỳ nhất định của nó.
Đồng thời, họ cũng phát hiện thấy tính cách chung của những người sinh ra trong
cùng một năm.
Mọi sinh vật trên địa cầu đều phải chịu ảnh hưởng bức xạ vũ trụ (bức xạ của các
thiên thể), cộng thêm tác động của thời gian. Chỉ với hai điểm này, người ta có thể
tính ra những người được sinh cùng một năm có những tính cách gì giống nhau. Cùng
với sự phát triển của ngành thống kê học, các nhà khoa học chứng minh: Có quy luật
về tính cách và vận mệnh con người do sự chi phối của quy luật tự nhiên.
Người Trung Quốc cổ đại đã sắp xếp Thiên can và Địa chi vào lịch, gọi những
người sinh vào năm Tý là cầm tinh con chuột, năm Sửu là cầm tinh con trâu v.v để
hoàn thành hình tượng của mười hai con giáp như ngày nay. Mười hai con giáp xuất
hiện sớm nhất trong Bát quái của Kinh dịch, đó là phương pháp phỏng sinh ghi năm,
còn gọi là cầm tinh con giáp. Dưới đây xin giới thiệu đôi nét cơ bản quan niệm của
người phương Đông xưa về tính cách của con người theo các tuổi và sự sinh khắc
giữa các tuổi theo Ngũ Hành Bát Quái.

Chương 4: Vì sao người xưa đều cầm tinh các con vật?
Từ xưa đến nay, người ta vẫn thích bàn luận về việc cầm tinh các con vật. Một
người sinh vào năm nào đó thì cầm tinh con vật nào? Tính tình anh ta ra sao? May
mắn rủi ro họa phúc sẽ như thế nào v.v Việc cầm tinh con vật liên quan gì đến số
mệnh của người đó?

Tương truyền, thời xa xưa, người ta lấy mặt trời làm chuẩn cho một ngày lao động:
"Mặt trời mọc thì làm, mặt trời lặn thì nghỉ". Nhưng gặp hôm trời đầy mây mưa, khuất
mặt trời thì con người không biết dựa vào đâu.
Có một người tên là Đại Nhiêu sáng tạo ra thập thiên can (10 can): Giáp, Ất, Bính,
Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý và các thập nhị địa chi (12 địa chi) là Tý, Sửu,
Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, dùng để tính thời gian, một
ngày chia ra làm 12 giờ, dùng một địa chi để biểu thị một giờ, lại dùng thiên can phối
hợp với nó để tính năm, như năm: Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần Nghe nói, thời đó đã
có văn tự, liền dùng biện pháp này soạn thành bộ lịch đơn giản. Nhưng văn tự vừa
mới xuất hiện trong bộ lạc nên rất nhiều người không hiểu. Hoàng đế anh minh biết
việc này liền dùng 12 con vật để chia tên năm.
Năm Giáp Tý dùng con chuột để biểu thị. Năm Ất Sửu dùng trâu để biểu thị
Ngày này qua tháng khác, mọi người ghét năm Giáp Tý, năm Ất Sửu khó nhớ, nên gọi
luôn là "năm chuột", "năm trâu" Thế là những người sinh năm chuột gọi là "thuộc
chuột" hay cầm tinh con chuột, những người sinh năm trâu là cầm tinh con trâu. Như
vậy, mỗi người đều cầm tinh một con vật.
Việc cầm tinh 12 con vật là sự hình thành kết hợp lẫn nhau của cách tính năm của
người xưa. Theo Triệu Dực, một học giả nổi tiếng đời Thanh thì cách lấy động vật để
nhớ năm lưu hành sớm nhất trong các dân tộc du mục ở miền Bắc Trung Quốc. Người
xưa khi quan sát sao đã biết được Tuế tinh (Mộc tinh - sao mộc) vận hành một vòng
hết khoảng 12 năm, nên lấy phương vị của nó để tính năm, nhớ năm và dùng tên gọi
những con vật quen thuộc nhất cho dễ tính năm. Như vậy xuất hiện lịch 12 con thú.
Về sau kết hợp với cách tính năm theo can chi của người xưa mới có cách nói "cầm
tinh 12 con vật". Người sinh năm nào thì sẽ có một con vật tương ứng. Vương Sung,
người Đông Hán trong "Luận hành" viết rằng, "Ngọ là ngựa, Tý là chuột, Dậu là gà",
chứng tỏ 12 địa chi phối hợp với 12 con vật đã lưu hành từ đời Hán. Cổ nhân căn cứ
vào quy luật thời gian các con vật xuất hiện, hoạt động để chọn ra 12 con vật là chuột,
trâu, hổ, thỏ (ở Việt Nam gọi là mèo), rồng, rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó, lợn để tính 12
giờ trong ngày. Cho rằng:
- Giờ Tý (tức là từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng), chuột hoạt động mạnh nhất, hoạt

bát nhất.
- Giờ Sửu là lúc trâu đã ăn no cỏ, vẫn còn nhai lại, chuẩn bị trời sáng để đi cày
ruộng.
- Giờ Dần là lúc hổ hung mãnh nhất.
- Còn từ 5 giờ sáng trở đi, trăng vẫn còn chiếu sáng trên mặt đất nên giờ Mão lấy
con thỏ để đặt cho giờ này, dựa vào thỏ trên mặt trăng (ở Việt Nam mão là mèo).
- Giờ Thìn chính là lúc đàn rồng quần tụ tạo mưa (quần long hành vũ).
- Giờ Tỵ là lúc rắn không còn đi lại trên lối người đi, không làm hại người nữa.
- Giờ Ngọ là lúc dương khí đạt mức cao nhất, mà ngựa thuộc loại tính dương.
- Giờ Mùi nghe nói dê ăn cỏ vào giờ này không ảnh hưởng đến việc cây cỏ mọc lại.
- Giờ Thân là lúc khỉ thích hú kêu.
- Giờ Dậu là lúc gà bắt đầu lên chuồng.
- Giờ Tuất chính là lúc chó phải trông nhà.
- Giờ Hợi là lúc mọi thứ đều trở nên yên lặng, tĩnh mịch, lợn ngủ say nhất.
Có thể thấy, những loại động vật khác nhau, phối hợp với địa chi chẳng qua là theo
sự phối hợp của các nhà âm dương đời Hán, cả hai đều không tồn tại mối liên hệ tất
yếu nào. Còn đến việc kỵ, tránh trong số mệnh (như trong cưới xin, hợp nhau, xung
nhau) hoặc cát hung hoạ phúc, tính cách hợp, xung đều là do các thầy bói đặt ra từ
xưa đến nay.
Tại sao có chuyện cầm tinh 12 con vật
Trong thuyết Dịch, Âm - Dương là hai khí vô hình không thể mô tả bằng lời nên
phải mượn cái hữu hình để làm sáng lý - cái hữu hình đó gọi là tượng. Dịch thuyết
cương lĩnh nói rằng: "Hiểu lời thì nông, hiểu tượng thì sâu" để lưu ý người đọc Dịch,
điều cốt yếu là hiểu được những ẩn ý hàm chứa trong tượng mới thấy cái hay của
Dịch, còn chỉ mới hiểu ở lời thì xem như chưa thông Dịch, dễ hướng theo cách suy lý
lầm lẫn. Phương pháp dùng tượng trong kinh Dịch rất đa dạng và không dễ hiểu ngay
cả đối với người Trung Hoa, nên ở đây chỉ nói đến một dạng Tượng tiêu biểu mà mọi
người đều biết là các con vật được dùng như thế nào và ý nghĩa của chúng ra sao
trong quy luật biến đổi của Âm - Dương khí.
Chu trình vận hành của Âm - Dương khí trong vũ trụ được dịch lý mô tả bằng một

đường tròn khép kín biểu diễn sự biến đổi không ngừng của hai khí
Âm - Dương qua trọn một năm gồm 12 tháng (tức 12 cung trên đường tròn) và
được hiển thị bằng 64 quẻ dịch. Định luật biến đổi Âm - Dương khí tuân theo nguyên
lý Âm Dương Tiêu Trưởng và luôn được bảo toàn nên có thể viết dưới dạng thức:
Âm + Dương = Hằng số (const)
Âm dương tiêu trưởng qua 12 tháng
Nghĩa là khi Dương khí lên (trưởng) thêm một đơn vị thì Âm khí phải xuống (tiêu)
đi một đơn vị tương ứng và ngược lại. Âm - Dương khí biến đổi theo phép biện chứng
của tự nhiên, "lượng đổi thì chất đổi" được kinh Dịch diễn giải bằng 64 quẻ Dịch dưới
hình thức ẩn dụ thông qua tượng, 12 quẻ dịch ở 12 cung trên đường tròn Dịch lý nằm
trong quy luật đó. Trên hình vẽ, nửa bên trái (cung NES) biểu diễn quy luật Dương
trưởng Âm tiêu qua 32 quẻ Dịch (gồm 112 hào Dương và 80 hào Âm) bắt đầu từ quẻ
Phục với một hào Dương (nhất Dương sinh) và 5 hào Âm biểu thị cho tháng Một nên
gọi là quẻ Nguyệt lệnh của tháng Một. Sự biến đổi tiếp theo tăng thêm trọn một hào
Dương thành quẻ Lâm, biểu thị cho tháng chạp và khí Dương cứ tiếp tục tăng lên như
thế cho tới tháng Tư Nguyệt lệnh là quẻ kiền với cả 6 hào Dương là khí Dương đã lên
đến tột cùng (maximun): Nửa bên phải (cung SWN) biểu diễn quy luật Âm trưởng
Dương tiêu qua 32 quẻ Dịch (gồm 112 Hào Âm và 80 Hào Dương), bắt đầu từ quẻ
Cấn biểu thị cho tháng Năm (nhất Âm sinh) và cũng biến đổi theo quy luật nói trên
cho tới tháng Mười Nguyệt lệnh là quẻ Khôn với cả 6 hào Âm là khí Âm đã lên tới tột
cùng, kết thúc một chu trình vận hành của Âm Dương khí trong vũ trụ qua trọn 1 năm
âm lịch. Nửa bên trái xem như phần ban ngày bởi khí Dương mạnh, ngược lại, nửa
bên phải là phần Âm mạnh; suy ra, độ Dương của các cung thuộc phần ngày sẽ lớn
hơn ở các cung đối ứng thuộc phần đêm, còn bộ Âm thì ngược lại - nhỏ hơn.
Mười hai quẻ dịch biểu thị cho 12 tháng của một năm theo quy luật tiêu trưởng của
Âm - Dương, thuộc phần ngày phần đêm, cung Dương cung Âm đã rõ ràng, sẽ là cơ
sở để xem xét việc dùng loại tượng nào có thể biểu đạt được sáng rõ nhất cái lý của
Dịch ở
12 cung trên đường tròn Dịch lý. Cuối cùng, các con vật có "vinh dự" được chọn
giao vào các cương vị "trọng trách" đó. Mười hai con vật được chọn làm tượng phải

đạt được các "tiêu chuẩn" sau:
- Đối nghịch nhau về tính cách theo nguyên lý đối nghịch nhau của Âm - Dương là:
Động - Tĩnh, Cương
- Nhu, Nhanh - Chậm, Mạnh - Yếu, Dữ - Hiền để lấy 6 con có tính dương trội
vào ngôi các cung Dương và 6 con có tinh Âm trội đặt vào vị trí các cung Âm.
- Phải là những con vật được mọi người biết rõ tính cách và phải gần gũi với con
người (vì thế các con vật nuôi được "ưu tiên" tuyển chọn). Thoả mãn cả hai "tiêu
chuẩn" này không dễ, nên cuối cùng chỉ có 11 "ứng cử viên" là các con vật có thực
đắc cử: ngôi vị thứ 12 được đặc cách dành cho con Rồng là con vật hư cấu nhưng
xét ra lại rất đạt "tiêu chuẩn" vì ai cũng biết các "thuộc tính" của Rồng, hơn nữa Rồng
ở trên trời nên toạ lạc ở cung Dương thuộc phần ban ngày là hợp vị. Chú Ngựa - "siêu
sao" về tính năng động - ở ngôi cao cung
Dương mạnh nhất là xứng đáng (trong kinh Dịch thì chữ "Dịch" cũng tượng hình
bằng bộ "Mã") còn như chú Heo "đại lãn" tĩnh toạ nơi Âm cực tiêu biểu cho sự trì
chậm nhu yếu thì quả là chí lý. Sự tinh vi và chính xác trong việc dùng tượng tới mức
khó có thể đổi chỗ cho các con vật cũng như thay thế bằng một con vật nào khác hợp
lý hơn thế.
Mười hai con vật được gọi là 12 địa chi chỉ có ý nghĩa đối với chu kỳ một năm, khi
đem chúng kết hợp với 10 thiên can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân,
Nhâm, Quý) sẽ tạo thành một chu kỳ lớn 60 năm gọi là một Hội (tức vòng Lục Giáp
hoa niên) thì chúng không có ý nghĩa nữa. Điều này cũng dễ hiểu như hai chất A + B
= C thì chất C mới tạo thành phải có tên gọi khác, ở đây, điều đó có ý nghĩa tìm chọn
các con vật làm tượng cho 60 năm quả là không dễ nên phải có sự "châm chước" về
tiêu chuẩn mới có được đủ số cần thiết (vậy là phải lấy "vớt" cả những con vật mà
nhiều người còn ít biết, thậm chí không biết, khiến cho một số tượng dùng không
"đắt" và trở nên khó hiểu).
Một chu kỳ 60 năm mỗi con vật biến tướng 5 lần và mang diện mạo của những con
vật khác, ví dụ:
Giáp -Thìn : Rắn Ất - Mão: Dơi
Bính - Thìn: Chuột Đinh - Mão: Gà

Mậu - Thìn : Quạ Kỷ - Mão: Rồng, Chồn Canh - Thìn: Lạc đà Tân - Mão: Rái cá
Nhâm - Thìn: Sói Quý - Mão: Hươu
Thật là ngộ khi Mèo "Kỷ" thoắt cái đã biến thành Rồng, Mèo "Tân" là anh Rái cá,
Rồng "Canh" lạc xuống làm lạc đà, Rồng "Mậu" hoá ra quạ! Vậy sự biến hoá vô
thường này mang ý nghĩa gì và liên quan như thế nào đến con người sinh vào năm
mang tên chúng? Tượng vốn dĩ khó hiểu bởi nó hàm chứa nhiều ẩn dụ, có thể suy lý
cho nhiều việc, ví du, có thể suy lý ẩn dụ về tính cách: sinh năm Thìn xem như được
cốt con Rồng là mới "cầm tinh" cái hình hài mà chưa có tính cách, khi giao kết với
"Mậu", mới tạo ra cái tính và "xuất tướng tính" thành Quạ với ẩn dụ là người hay nói,
thích "ăn to nói lớn". Hoặc Rồng kết hợp với "Canh", thì tính năng động của rồng sẽ
biến mất và trở thành người từ nói năng đến đi đứng đều chậm chạp đủng đỉnh như
Lạc đà qua sa mạc, "trưa không vội tối chẳng cần", còn người Tân Mão thì khôn
ngoan lanh lợi và tinh ranh như Rái cá v.v thường thì biết tính cách chỉ để cho vui
nhưng khi cần xác định vào một việc nào đó thì đôi khi lại rất ý nghĩa, ví như "chân"
Lạc đà làm sao sánh bằng "chân" Ngựa về tính năng động (Na-pô-lê-ông hiểu đến tính
cách của từng người lính nên biết sử dụng "đúng người đúng việc”.
Các con vật chỉ đắc dụng khi cần làm sáng cái lý của những kết hợp đơn giản như
giữa Can - Chi của năm, còn đối với những giao kết phức hợp (như giữa Can - Chi
của cả năm, tháng, ngày, giờ) chúng sẽ không còn đất dụng võ nữa mà phải dùng đến
chính con người làm tượng cho con người, mới có thể làm sáng được cái lý âm địa
của Dịch (các Đại tượng và Tiểu tượng ở mỗi quẻ dịch trong kinh Dịch chứng tỏ điều
đó).
Nếu đem các con vật với ý nghĩa và tác dụng hạn chế nói trên ra "đối tác" với nhau
để suy lý xét đoán cho con người thì e rằng quá ư đơn giản. Ví như năm mới là năm
con Chuột sẽ "xung" với con Mèo (trong bộ "tứ hành xung" là Tý - Ngọ - Mão - Dậu)
nhưng chuột "Bính" đã biến thành Rắn còn Mèo thì cũng đã biến chất thành Dê, Gà,
Rồng, Rái cá, Hươu cả rồi. Vậy thì sẽ lấy con nào "xung" với con nào đây? Thật khó
mà biết được "Mèo nào cắn Mỉu nào" (và nếu có sự "cắn nhau" ấy thì làm sao biết
được là "cắn đau" hay chỉ là "cắn yêu" thôi).
Bảng này ngoài việc tìm hiểu ý nghĩa của năm, còn là cơ sở giúp hiểu thêm về ý

nghĩa Can chi của ngày, giờ, tháng sinh của bạn hoặc của thời điểm bạn cần giải quyết
vấn đề nào đó. Ở đây chỉ ra ngũ hành của các năm và có liên quan với nhau chặt chẽ.
Vì "trên trời có Ngũ tinh, dưới đất có Ngũ hành", để tính vận hạn tốt xấu, cần biết vận
dụng quy luật Ngũ hành tương sinh tương khắc mà luận. Cứ 60 năm thì gọi là một
Hoa giáp, mỗi Hoa giáp nạp âm thành 30 tượng, cứ 6 tượng tạo ra 1 hành. Tất nhiên,
việc tính sinh khắc không phải khó, song không phải bao giờ cũng máy móc. Ví dụ:
nguyên tắc chung là Kim khắc Mộc thì chỉ có mỗi "kiếm phong kim" là thực sự khắc,
còn "sa trung kim", "hải trung kim", "bạch lạp kim" và "thoa xuyến kim", "kim báu
kim" thì không dễ gì khắc mộc được. Có thể hiểu tương sinh nhiều là tốt, tương khắc
nhiều bất lợi, nhưng biết là để khắc phục và tận dụng thời cơ, tranh thủ con người mà
vươn lên, chứ không phải để lẩn tránh. Đó là ý nghĩa tích cực của việc tìm hiểu 12 con
giáp trong tương quan rộng. Bảng Lục thập hoa giáp cho biết thông tin của bản thân,
tìm hiểu khả năng tồn vong của muôn loài, muôn vật, từ đó nhận thức sâu hơn về các
mặt, hiểu rõ hơn bản chất sự vật. Rồi cũng từ đó đề xuất phương hướng giải quyết, bởi
lẽ "vấn đề không phải ở chỗ giải thích thế giới mà là cải tạo thế giới" (K.Mác).
Chương 5: Tính cách con người sinh ra trong mùa các tiết trời
Một năm chia làm bốn mùa, mỗi mùa gồm 3 tháng: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Qua
hàng vạn triệu năm, từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ Đông sang Tây, khắp trên hành
tinh chúng ta, qua thực tế của mỗi bản thân trong cộng đồng, con người đã đúc kết
được những hiểu biết cơ bản (có thể chỉ là kinh nghiệm) về mối quan hệ khăng khít
giữa mùa sinh của một đời người với từng mùa của tiết trời. Điều này có ảnh hưởng
nhất định đến thời vận và tính cách của từng người.
Những người sinh vào mùa Xuân
(Từ tháng 1 đến tháng 3) thuộc loại sơ niên vận (từ khi lọt lòng mẹ đến năm 20
tuổi), thời vận cực thịnh. Bởi mùa Xuân là mùa mà vạn vật hân hoan tiến vào thời kỳ
phồn vinh, hoa lá đua nhau khoe sắc, ong bướm rập rờn, cây cối đâm chồi nảy lộc,
mọi thứ trên đời đều như trẻ lại. Đồng thời, vào xuân, băng tuyết đã bắt đầu tan chảy,
khắp nơi hoa nở, chim hót rộn ràng, các loài động vật ngủ đông cũng đã bắt đầu thức
giấc. Vạn vận đều tràn trề sức sống. Chính vì vậy, ông cha ta đã gọi cuộc sống của
mỗi người thời trai trẻ là "tuổi thanh xuân". Vận số loài người cũng bị ảnh hưởng bởi

niềm hân hoan bước vào thời kỳ phồn vinh ấy. Những người sinh vào mùa Xuân ngay
từ lúc còn nhỏ đã được ông trời ưu đãi, quá trình trưởng thành của họ chẳng khác gì
hình vẽ của một ngọn núi lửa.
Bạn trẻ có thể trưởng thành nhanh chóng hay không đều dựa vào trạng thái tinh
thần của bậc làm cha, làm mẹ. Tức là tinh thần của họ cũng được thoải mái, thư thái
trong không khí mùa Xuân và sinh ra đứa con với tinh thần thư thái ấy. Những đứa
con này lớn mạnh nhanh chóng, đó là lẽ đương nhiên.
Trong không khí hân hoan tiến tới sự phồn vinh ấy, lại được cha mẹ nuôi dạy,
chăm sóc, yêu thương khi trong lòng họ tràn đầy sắc xuân, vận số của đứa trẻ ấy từ
khi sinh ra cho tới hai mươi tuổi vốn được ông trời đặc biệt ưu đãi. Mà cái gọi là
"được ông trời đặc biệt ưu ái" ấy không chỉ thoả mãn về phương diện vật chất mà còn
bao hàm tình yêu thương của cha mẹ và tổng hợp mọi ưu đãi trong cuộc sống, môi
trường.
Vì vậy, đứa bé có được nhân tố tuyệt vời để trưởng thành có thể nói là những đứa
bé sinh vào mùa Xuân. Vì vậy, đối với những đứa trẻ được sinh vào mùa Xuân, trong
quãng thời gian "Sơ niên vận" của mình vốn là thời kỳ vận số tốt. Nếu chúng biết nắm
bắt lấy thời điểm "vận số tốt" ấy thì ngay từ lúc còn trẻ đã có thể xuất đầu lộ diện, tiến
lên cao, cả đời thuận buồm xuôi gió.
Những người sinh vào mùa Xuân cần phải lưu ý đến vận xấu của mình ở độ tuổi
trung niên.
Những người sinh vào mùa Xuân cần phải đặc biệt chú ý đến những năm hạn.
Vì vậy, nếu bạn được sinh vào mùa Xuân, bạn nên cố gắng vươn lên ngay trong
thời kỳ rực rỡ nhất, "Sơ niên vận" của mình, cố gắng nắm lấy thời vận lúc đang lên,
đồng thời cũng phải lưu ý đến độ tuổi trung niên là lúc thời vận của mình đang xuống,
phải thật cẩn thận trong lời ăn tiếng nói và công việc.
Bạn nên thận trọng khi làm một việc lớn vào năm vận hạn. Những người sinh vào
mùa Xuân nếu có sự cạnh tranh, tranh chấp xảy ra vào độ tuổi trung niên, tức là lúc
vận hạn của mình thì dù bạn không sai nhưng người gánh chịu phần thua thiệt vẫn
chính là bạn.
Người sinh vào mùa Hạ

(Từ tháng 4 đến tháng 6) thuộc loại thanh niên vận (từ khoảng 20 tuổi đến 35 tuổi,
thời vận cực thịnh).
Mùa Hạ vào khoảng từ đầu tháng Tư đến cuối tháng Sáu. Nếu bạn là người sinh
vào mùa Hạ thì vận số cả đời của bạn thuộc loại "Thanh niên vận".
Đối với những người sinh vào mùa Hạ thì vận số của họ thịnh nhất vào khoảng tuổi
thanh niên. Bất kể họ làm việc gì đều tự do tự tại. Đồng thời, nếu bạn biết vận dụng
tốt quãng thời gian có vận số thịnh nhất của mình thì cuộc đời bạn sẽ phát triển tốt.
Vào mùa Hạ, mặt trời rực rỡ, chiếu rọi khắp nơi, mọi vật tràn đầy sức sống. Trong
thời gian này, lúa đang trổ bông, phấn hoa lan toả khắp không gian để chuẩn bị kết
trái. Mùa Hạ là mùa vạn vật vận động mạnh mẽ nhất. Mùa Hạ chính là ngưỡng cửa
của mùa Thu, là mùa thu hoạch. Nếu dùng bốn mùa để ví với cuộc sống của một đời
người thì đó là mùa có nhiều biến động lớn nhất. Nếu nói theo màu sắc thì biểu tượng
của mùa Xuân là màu xanh lục, còn màu đỏ là biểu tượng của mùa Hạ.
Những người sinh vào mùa Hạ cần biết nắm lấy vận đỏ vào tuổi thanh niên của
mình.
Nếu bạn là người được sinh vào mùa Hạ thì đến khi về già, quay đầu nhìn lại vận
mệnh cả đời của mình, nhất định bạn sẽ thấy vận mệnh của mình phát triển rực rỡ nhất
vào độ tuổi từ 25 đến 30.
Nếu bạn là người sinh vào mùa Hạ, dù tuổi thơ của bạn trôi qua không được êm
đềm nhưng tuyệt đối bạn chớ nên nhụt chí. Những người thành công đều là những
người đã vượt qua được thử thách của hoàn cảnh, ngay từ nhỏ đã theo đuổi mục tiêu
của cuộc đời, biết dũng cảm tiến lên phía trước, luôn nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi.
Những người sinh vào mùa Thu
(Từ tháng 7 đến tháng 9) thuộc loại trung niên vận (từ 35 tuổi đến 50 tuổi, thời vận
tốt đẹp).
Ai cũng biết rằng mùa Thu có ba tháng, kéo dài từ đầu tháng Bảy đến cuối tháng
Chín. Các bạn thử hình dung lại mùa Thu ở vùng ngoại ô xem. Đầu tiên, mùa Thu
chính là mùa thu hoạch. Lúa hay các loại hoa mầu khác đều được thiên nhiên ban
thưởng hậu hĩnh, cuối cùng cũng đã tới lúc chín muồi, tạo cho người nông dân cảm
giác vui vẻ khi thu hoạch mùa màng về nhà. Vùng ngoại ô miền núi cũng khoác lên

mình nét đẹp rực rỡ. Đó chính là một trong những đặc trưng của mùa Thu. Thế nhưng,
sau khi mùa màng đã được thu hoạch xong, khung cảnh ngoài đồng lại khiến người ta
có cảm giác cô tịch, vắng lặng, không thể che giấu nổi nỗi buồn man mác của mùa
Thu trước phong cảnh tiêu điều, cô tịch của vạn vật.
Những người sinh ra vào mùa Thu bị ảnh hưởng của mùa thu hoạch. Như biểu đồ
đã chỉ, vào độ tuổi trung niên - độ tuổi chín chắn của cuộc đời, vận số thịnh nhất sẽ
đến với họ.
Nếu vận số của bạn có chiều hướng đi xuống vào độ tuổi trước trung niên, các bạn
chớ ngại khi liên tưởng đến cây lúa, trước khi trổ bông kết trái đã phải trải qua sự
khảo nghiệm của mưa gió. Tức là vào mùa Hạ, nhưng đợt gió mạnh thổi qua làm thân
cây nghiêng ngả, rập rờn. Như vậy, cây lúa mới có được điều kiện thụ phấn giữa hoa
đực và hoa cái, mới có được vụ thu hoạch vào mùa Thu. Cũng giống như đạo lý trên,
những người sinh vào mùa Thu, trước khi bước vào cuộc tranh thắng phụ đều phải trải
qua các cuộc khảo nghiệm kỹ lưỡng.
Có vượt qua được các cuộc khảo nghiệm ấy hay không, điều này phụ thuộc bởi vận
mệnh của những người sinh vào mùa Thu.
Những người sinh vào mùa Thu phải biết cần cù, cố gắng ở độ tuổi thanh niên.
Ngoài ra, còn một vấn đề cần phải nói là, giống như tranh minh hoạ ở trang trước
đã hiển thị, cuộc sống nửa trước của họ đa số đều trải qua một cách bình lặng. Do đó,
thông thường mà nói, họ không đủ lòng kiên nhẫn để đợi cho qua kỳ ngủ đông,
thường có những hành vi khinh suất, manh động, hay oán trời chẳng chiều lòng người,
cảm thấy vô cùng thất vọng trong cuộc sống, có rất nhiều người vứt bỏ mọi sự cố
gắng của mình. Kết quả là dù vận số cực thịnh thời trung niên của họ có tới, họ không
biết nắm lấy mà để nó trôi đi một cách tự nhiên còn mình thì chết dần trong sự buồn
bực.
Ngược lại, những người biết nuôi hy vọng cho tương lai của mình trong thời kỳ
ngủ đông này, liên tục cố gắng một cách không biết mệt mỏi thì đến độ tuổi trung
niên, họ sẽ thu được thành quả mĩ mãn của mình.
Đối với những người sinh vào mùa Thu, nếu họ làm việc vất vả thời thanh niên thì
nhất định sẽ được đền bù xứng đáng sau này. Những người sinh vào mùa Thu chớ nên

theo đi cái lợi trước mắt hoặc ỷ vào tài năng hơn người của mình. Nếu bạn làm được
như vậy, bất luận bạn theo đuổi sự nghiệp gì, qua độ tuổi 35, nhất định bạn sẽ gặt hái
được thành công, còn đối với công việc chuyên ngành hay đổi sang công việc mang
tính tự do thì bạn vẫn cần phải cẩn trọng trong thời thanh niên, tuyệt đối không manh
động.
Ví dụ: những người cầm tinh con Hổ vốn rất hay thay đổi công việc. Nhưng nếu họ
sinh vào mùa Thu và có khuynh hướng liên tục thay đổi công việc vào thời thanh niên
thì kết quả là, không ít người đã để thời điểm vận số cực thịnh của mình qua đi một
cách phí phạm.
Nhưng nếu họ thay đổi công việc vào thời kỳ vận số thịnh nhất ở độ tuổi trung
niên, rất có thể họ sẽ đạt được những thành tích khiến người khác phải ngưỡng mộ, từ
đó tạo ra một cuộc sống phát triển mạnh mẽ, hoàn toàn mới.
Cũng giống như việc thay đổi ngành nghề, trên phương diện hôn nhân, đa số những
người sinh vào mùa Thu nếu kết hôn muộn sẽ có cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Bội thu ở độ tuổi từ bốn mươi đến năm mươi.
Tóm lại, những người sinh vào mùa Thu sẽ có vận số cực thịnh ở độ tuổi trung
niên. Phần lớn những nhân vật thành danh sinh vào mùa này bắt đầu phát ở độ tuổi từ
ba mươi đến bốn mươi, đến độ tuổi trung niên họ bắt đầu gặt hái thành công lớn.
Người sinh vào mùa Đông
(Từ tháng 10 đến tháng 12), thuộc loại vãn niên vận (từ 50 tuổi trở lên thời vận tốt
đẹp).
Mùa Đông dài ba tháng, vào khoảng từ đầu tháng Mười đến hết tháng Mười hai.
Nếu bạn sinh vào mùa Đông, như vậy vận số của bạn sẽ thuộc loại "Vãn niên vận".
Bởi bạn được sinh vào mùa Đông, hoa cỏ tàn tạ, phải gánh chịu gió lạnh tuyết rơi
và cũng là mùa ngủ đông của các loài động vật. Đó chính là cách tự bảo tồn của các
loài động, thực vật để vượt qua mùa Đông lạnh lẽo, chờ đợi mùa Xuân ấm áp.
Tức là, những người sinh vào mùa Đông, vốn trời ban cho số vừa phải ẩn mình đợi
đến mùa Xuân, vừa phải dưỡng thần, tích luỹ nhuệ khí, có sức nhẫn nại lớn vô cùng.
Dù gặp phải bất cứ nghịch cảnh gì, bạn đều có thể điềm nhiên chấp nhận. Bạn cũng có
khả năng tự khắc phục cực kỳ siêu việt. Vì vậy, so với những người sinh vào mùa

khác, vào độ tuổi trung niên trở về trước thì bạn không bằng được họ nhưng vì nhẫn
nại và có khả năng khắc phục chính mình nên lúc về già có thể bạn sẽ thành danh,
cuộc sống dễ chịu.
Phải chăng vận số của những người sinh vào mùa Đông không tốt bằng "Sơ niên
vận", "Thanh niên vận", "Trung niên vận"? Chưa hẳn đã thế. Như trên đã nói, dù
quãng thời gian vận số cực thịnh của cuộc đời đến muộn nhưng họ vẫn có những năm
vận số tốt đến theo một chu kỳ nhất định.
Và nếu can chi của họ có vận số tốt (ví dụ như người cầm tinh con Rồng, Hổ, Rắn,
Khỉ, Lợn vốn là những con vật có vận số mạnh hơn những loài khác trong mười hai
địa chi) lại kết hợp với thời gian sinh, thậm chí với cha mẹ, bạn học có duyên số tốt
thì bạn cũng có thể có vận tốt may mắn đến.
Những người sinh vào mùa Đông đã giành được đại thắng nhờ tính nhẫn nại và
công phu chờ đợi của mình.
Dù bạn nắm bắt được vận tốt vào độ tuổi thanh niên nhưng vận số lúc ấy của bạn
vẫn chưa phải là vận số thực sự. Xét theo một khía cạnh khác, vận số đó không có tính
chắc chắn. Tức là, dù bạn có thể xuất đầu lộ diện từ lúc còn trẻ nhưng e rằng, bạn khó
có thể giữ nó lại cho đến lúc về già.
Những người sinh vào mùa Đông dường như phải đợi đến lúc về già mới nắm bắt
được hạnh phúc thực sự của mình. Vì vậy, vào độ tuổi thanh xuân, dù gặp phải nghịch
cảnh có tài mà không được trọng dụng, không nắm được vận đỏ thì bạn cũng chớ lấy
đó làm bi quan. Hãy vui vẻ thoải mái, bình tâm tĩnh trí đợi đến khi thời cơ đã chín
muồi.
Chương 6: Quan niệm của phương Đông về tính cách con người theo các tuổi
Con người không chỉ sống bằng hiện tại mà luôn khao khát vươn tới làm chủ tương
lai của chính mình. Họ muốn biết ngày mai, tháng tới, năm tới và những năm sau, khi
nào thì mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, khi nào thì lũ bão, hạn hán mất mùa; để
dự phòng và có kế hoạch giành mùa màng bội thu hơn, có kế hoạch tích trữ lương
thực, hạn chế thiệt hại do thiên tai gây ra v.v Với chính mình, họ cũng muốn biết
con người (Tiểu vũ trụ) được sinh ra giữa Trời và Đất (Đại vũ trụ), chịu ảnh hưởng
của vũ trụ ra sao? Con người được sinh ra vào các mùa, các năm, các thời điểm khác

nhau có gì giống và khác nhau về tướng mạo, tư chất, tính cách, trí tuệ, sức mạnh, số
phận cuộc đời? Chính vì muốn tìm hiểu con người và thiên nhiên, môi trường sống,
con người đã quan sát, khảo nghiệm, đúc kết thống kê, tính toán để tìm ra quy luật
tương tác giữa vũ trụ và con người. Từ đó, Chiêm tinh học ra đời.
Chiêm tinh học ra đời đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử văn minh
nhân loại. Thông qua đấu tranh sinh tồn, tìm hiểu nghiên cứu thế giới tự nhiên, tích
luỹ kinh nghiệm và bằng lao động sáng tạo, loài người đã dần dần hiểu được các quy
luật của tự nhiên để thích ứng và phục vụ cho cuộc sống của mình theo triết lý của
người phương Đông xưa, đó là: Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa. Ngày nay, khi môi
trường trái đất bị ô nhiễm nghiêm trọng, con người càng thấy rõ tầm quan trọng của
môi trường sinh thái với sức khỏe và sự phát triển về mọi mặt của mình. Con người
hãy sống hài hoà cùng thiên nhiên, bảo vệ lấy thiên nhiên môi trường trong lành của
hành tinh chúng ta. Đó chính là mối quan tâm trong hiện tại và tương lai.
Khoa học dự báo rằng: Do nhu cầu của cuộc sống hiện đại, cùng với các ngành
khoa học khác, Thiên văn và Chiêm tinh sẽ là hai ngành khoa học được quan tâm và
phát triển mạnh mẽ trong tương lai. Quá khứ luôn là cầu nối để chúng ta đi tới tương
lai, dù quá khứ còn nhiều điều chưa hoàn thiện, song đó là những tri thức, những tiền
đề để khoa học tương lai tìm hiểu, lý giải. Với suy nghĩ đó, chúng tôi mạnh dạn giới
thiệu một số quan điểm triết học cổ của Chiêm tinh phương Đông về dự báo đời người
và mười hai con giáp để bạn đọc tham khảo. Hy vọng bước sang thế kỷ XXI - kỷ
nguyên của khoa học sinh học, con người sẽ hiểu rõ hơn những bí ẩn của chính mình,
Tiểu vũ trụ trong Đại vũ trụ, phải chăng bí ẩn của Tiểu vũ trụ trong bí ẩn của Đại vũ
trụ là quan hệ biện chứng hài hòa?
Theo sách Chiêm tinh cổ của Nhật Bản và Trung Quốc, năm sinh có ảnh hưởng tới
tính cách của con người theo những dự báo sau:
CÁCH NHÌN NHẬN CỦA NGƯỜI NHẬT XƯA
Việc sử dụng mười hai con giáp làm biểu tượng cho thời gian chủ yếu gắn liền với
các dân tộc nằm trong vòng ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa, trong số này có Nhật
Bản. Người Nhật Bản sử dụng mười hai con giáp, sử dụng hệ can chi trong lịch pháp
của họ. Việc nghiên cứu hệ can chi đã giúp người Nhật xây dựng được phép đoán số

tử bình với thành tựu đáng tin cậy. Phép tính tử bình cũng dựa trên tử vi và sử dụng
nhiều đặc điểm của tử vi. Phép tính tử bình dựa vào các yếu tố năm tháng ngày giờ,
theo can chi của các yếu tố đó, từ đấy sẽ tạo ra bát tự và người Nhật xét đoán công
việc, cuộc đời dựa trên sự tính toán bát tự này theo các quy luật Âm Dương - Ngũ
Hành. Họ còn xây dựng một quan niệm cho các tuổi theo các con vật. Sau đây là quan
niệm của người Nhật về người tuổi Sửu:
Là người nhẫn nại, ít lời, không hay khoe mẽ về mình do đó dễ tranh thủ được sự
giúp đỡ của người khác. Tính nóng và cục tính. Chăm làm, khéo tay và quyết đoán,
không chấp nhận, không nhún nhường kẻ cản trở họ. Làm ăn đối với họ là chính, tình
cảm là chuyện thứ yếu nên họ khó kết hôn. Tuổi Trâu hợp với tuổi Chuột hoặc Gà.
Không nên lấy tuổi Chó và kỵ nhất là tuổi Lợn.
Chương 7: Quan niệm của ngừơi phương Tây về tính cách con người theo tuổi Sửu
Tuổi Sửu: Sửu tương ứng với sao Capricornus
Người mang tuổi Sửu sống tự tin trong mọi hoàn cảnh. Tính cách kiên định, thực
tiễn, làm chủ bản thân, tự khép mình vào kỷ luật thép, không cơ hội và khuất mình.
Trung thực, trọng danh dự, thích giao du rộng rãi nhưng chỉ trong mối quan hệ đứng
đắn và bền chặt, nhược điểm là khó tự diễn đạt những tình cảm sâu kín, thích sống cô
đơn hơn là yêu một người chưa tương xứng với mình. Người tuổi Sửu lao động cần
cù, làm ra tiền nhưng sống cần kiệm, tìm mọi cách để có được cuộc sống an toàn,
thanh thản. Ẩn mình sau bề ngoài khiêm nhường nhưng không để ai nịnh bợ đánh lừa.
Không thua thiệt ai bao giờ!
Tương hợp: Sửu và Tý: sống trọn vẹn với bản chất lương thiện sâu kín nhất, Sửu
với Mão: có quan hệ bền chặt nhờ hợp tác được với nhau, Sửu và Tỵ: một câu chuyện
tình thơ mộng, Sửu và Dậu: cùng lao động, Sửu và Hợi: chung sống hòa bình.

Chương 8: Cách nhìn nhận của người Trung Quốc xưa người tuổi Sửu - Tính cách -
Tài năng
Năm Sửu tượng trưng cho thành công sau khi trải qua bao gian khổ, nỗ lực. Người
sinh năm này đáng tin, điềm tĩnh, có nguyên tắc, quy củ. Là một người làm việc cẩn
thận, tích cực, không biết mệt mỏi. Rất nguyên tắc nhưng vẫn công bằng, biết lắng

nghe ý kiến của người khác nhưng nếu muốn thay đổi quan điểm của anh ta thì khó, vì
anh ta cố chấp, đôi lúc còn thiên vị. Do chắc chắn, đáng tin cậy nên người tuổi Sửu
được lãnh đạo và người có uy quyền tín nhiệm. Chỗ nào cần trách nhiệm, ở đó có anh
ta. Nhưng nên chú ý thận trọng, bằng không, thắng lợi khiến sẽ khiến họ u mê.
Tính cách bất khuất bướng bỉnh và suy nghĩ lôgíc của anh ta được che giấu bằng vẻ
ngoài đơn giản, chất phác và tề chỉnh ngay ngắn, sự thông minh, nhạy bén ẩn giấu
dưới vẻ trầm lặng kiệm lời, e dè. Về cơ bản, anh ta thuộc mẫu người hướng nội, song
với bản tính mạnh mẽ, khi có cơ hội, anh ta liền trở thành một nhà diễn thuyết uy
nghiêm, hùng hồn. Trong giờ khắc hỗn chiến, anh ta lâm trận hiên ngang, phẩm chất
dũng cảm, oai hùng và lòng tự tin của anh ta sẽ đưa mọi thứ trở về đúng trật tự vốn có.
Người tuổi Sửu là người quy củ, ổn định, theo mô thức kiên trì, cố định, tôn trọng
quan niệm truyền thống, luôn tỉnh táo tiếp nhận kỳ vọng của người khác để hành sự,
đến mức mọi người đều có thể dự đoán trước hành động của anh ta. Có người không
công bằng phê phán anh ta không có óc tưởng tượng, nhưng người tuổi Sửu hiểu rằng,
chỉ khi làm việc kín kẽ thì mới không bị rơi vào thế thất bại. Suy nghĩ của anh ta rất
đơn giản, rạch ròi, không ưa phức tạp hóa, bạn sẽ chẳng bao giờ thấy họ sống cẩu thả
bừa bãi hay lật đật hấp tấp. Người này thành công chủ yếu dựa vào trí tuệ và những
chỉ thị từ người khác, người tuổi Sửu luôn có suy nghĩ kiên định và tinh thần cống
hiến hết mình, tôn trọng chữ tín. Cách đánh giá phiến diện tầm thường chẳng đáng kể
gì, anh ta dồn hết tâm tư sức lực hoàn thành công việc chứ không bỏ gánh giữa đường.
Anh ta lý giải bí mật sâu thẳm trong lòng người khác bằng những suy nghĩ trong
sáng chân thành. Anh ta không hoàn toàn lý giải được tình cảm của họ, rất ít khi tranh
giành tình yêu bằng cách dụ dỗ, mê hoặc. Trong cuộc sống sinh hoạt, hiếm khi thấy
một bài thơ ướt át hay đoạn dạ khúc ngọt ngào, thậm chí quà tặng cũng là những món
đồ bền chắc, thực dụng.
Do là mẫu người truyền thống nên quá trình dạm hỏi cầu hôn của nam và nữ tuổi
Sửu hiển nhiên diễn ra rất lâu. Họ phải trải qua một quãng thời gian dài mới có thể
tiến đến giai đoạn công khai quan hệ, đôi bên bấy giờ mới biểu lộ rõ tình cảm đích
thực. Nam tuổi Sửu chắc hẳn là một vị vô cùng có trật tự, có tài đức, nhưng khi cần tỏ
tình với cô bạn xinh đẹp thì lập tức sẽ biến thành anh chàng vụng về, nói năng lắp

bắp.
Nhưng nếu bạn kết hôn và hoàn toàn tin tưởng, anh ta sẽ không bao giờ khiến bạn
thất vọng, sẽ chân thành ở bên bạn suốt đời, bạn không cần phải lo lắng về những chi
tiêu sinh hoạt. Anh ta sẽ gắng sức xếp đặt ổn thỏa cuộc sống, chẳng bao giờ cần bạn
giúp đỡ.
Nếu bạn may mắn cưới một phụ nữ tuổi Sửu, bạn chắc chắn đã tìm thấy một cô gái
đoan trang, đảm đang. Cô sẽ giặt sạch sẽ quần áo của bạn như một bà mẹ, hằng ngày
không quên dọn dẹp ngăn nắp đống báo chí trên bàn ăn sáng của bạn, nấu nướng hợp
khẩu vị, và cả nụ hôn "tốt lành chào buổi sáng". Nếu bạn khó chịu trước những thói
quen của cô ấy thì hãy suy nghĩ tới những nhân tố tạo nên chúng. Cô ấy gọn gàng,
ngăn nắp, thủ thường. Cuộc sống hôn nhân của bạn sẽ chẳng bao giờ vướng những bộ
quần áo bẩn, bạn sẽ không phải mang những đôi tất bốc mùi, cũng không phải ăn
những thứ dở nấu dở xào. Cô ấy sẽ là một người vợ lý tưởng. Sổ chi tiêu của các bạn
sẽ luôn cân bằng, khoản dành dụm cũng chẳng khi nào chi vượt quá thu. Bạn nên giúp
cuộc sống của cô trở nên vui tươi, sống động. Những việc cô ấy làm luôn cao hơn
trách nhiệm cần có.
Ngoài những phẩm chất kể trên, những khiếm khuyết của người tuổi Sửu chỉ dần
bộc lộ sau một thời gian dài. Trí nhớ của người tuổi Sửu cực kỳ tốt, rành mạch; nếu
xúc phạm anh ta, anh ta sẽ nhớ đến từng chi tiết nhỏ. Trước nghịch cảnh, người tuổi
Dần, Dậu hay Tý đều oán thán kịch liệt, còn tuổi Mùi và Mão thì ủ rũ rồi sinh ra âu
sầu cô quạnh. Người tuổi Sửu thì ngược lại, anh ta sẽ nỗ lực làm việc để giảm nhẹ
gian khổ và gay gắt. Nếu thất bại trong tình yêu, anh ta sẽ vùi đầu vào công việc và sẽ
cự tuyệt chịu thêm một lần "rủi ro" để sống cuộc sống độc thân.
Người tuổi Sửu không thích nợ nần, khi gửi trả khoản đã vay, anh ta sẽ tính toán
bằng hết. Nếu thiếu sót bạn mà không được bày tỏ nỗi cảm kích, anh ta sẽ chẳng bao
giờ tha thứ cho bản thân. Từ phía anh ta, bạn sẽ chẳng khi nào bắt gặp quá nhiều
những lời cám ơn sáo rỗng, anh ta cảm thấy bứt rứt, không thoải mái trước những
ngôn từ hoa mỹ và sự bợ đỡ quá trớn, vì cho rằng điều đó tổn hại đến lòng tự trọng
của mình. Anh ta nói được làm được, đó chính là tính cách của người tuổi Sửu.
Người tuổi Sửu có một đức tính nhẫn nại phi thường, nếu nổi nóng thì ắt đã xảy ra

chuyện gì đáng sợ, thực sự cần đối phó một cách cẩn trọng. Lúc này, anh ta sẽ mất
sáng suốt, tấn công người cản đường hệt như một chú Trâu hăng máu. Cách giải quyết
duy nhất là tránh xa anh ta, để anh ta từ từ bình tĩnh trở lại. Tóm lại, trừ khi cảm thấy
không sao chịu đựng nổi, chẳng bao giờ anh ta nổi giận.
Ở nhà, anh ta biết ra lệnh và bắt mọi người tuân phục. Anh ta mong người khác
nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị của mình và giữ quan điểm duy vật về cuộc sống. Dù
hết sức yêu mến gia đình và tự hào về điều đó nhưng anh ta yêu cầu rất cao đối với
từng thành viên trong gia đình, luôn đo mức độ tình yêu gia đình bằng thước đo của
sự thành công và những thành tích gặt hái được. Tuy không dễ dàng bị tình cảm lay
chuyển, anh ta vẫn là một người chịu hy sinh để gia đình yên vui.
Trâu sinh ban ngày sẽ tích cực, giỏi tranh đấu hơn một chú trâu an lành sinh vào
ban đêm. Cũng như vậy, trâu sinh mùa đông sẽ gian nan, nghèo khó hơn trâu mùa hè.
Bản tính của người tuổi Sửu là phải luôn căn cứ vào sự thật, tuyệt đối không giải
quyết sự việc bằng tình cảm. Nếu bạn muốn thắng kiện nơi cửa quan thì phải vận
dụng lý trí và trí tuệ. Trong một số việc, nếu bạn hỏi ý kiến, anh ta luôn đưa ra
phương án chắc chắn. Nếu chỉ dựa vào tình cảm thì khó lòng thay đổi được suy nghĩ
của anh ta. Thể chất anh ta rất tốt, ít đổ bệnh, tự tin, không thoả hiệp, anh ta coi
thường sự yếu đuối ở người khác. Nếu chú tâm trau dồi tính hài hước và lòng nhiệt
tình, anh ta sẽ hạnh phúc hơn.
Người tuổi Sửu có tài lãnh đạo bẩm sinh, biết cách kiểm tra người khác bằng kỷ
luật, thậm chí nghiêm khắc quá mức. Là một người phấn đấu nỗ lực để giành được
thành công, anh ta cho rằng, mỗi người đều nên làm tròn chức phận, trách nhiệm của
mình. Khuyết điểm của anh ta là ở chỗ cứng nhắc, tính toán cặn kẽ khó gần, không
khôn khéo, không biết cách quan tâm tới người khác, thường biểu hiện phong độ hơn
người, điều này không phù hợp với những công việc tiếp thị, ngoại giao hay những
việc đòi hỏi sự tinh tế. Tuy nhiên, sự chân thành, tính nguyên tắc, kiên định được mọi
người tôn kính, yêu mến. Những cải cách mang tính hệ thống sẽ biến cấp dưới thành
người vô cùng trung thành, vì thế chẳng có việc gì anh ta không làm được.
Người tuổi Sửu không thích đi đường tắt, là người điềm tĩnh, có đạo đức và lòng tự
trọng cao, tuyệt đối không muốn mượn bất cứ thủ đoạn không công bằng nào để đạt

được mục đích. Họ luôn tự lực cánh sinh, không cần người khác giúp đỡ, đến nỗi bạn
không thể không khẩn thiết mong anh ta chấp nhận sự phục vụ của bạn. Người tuổi
Sửu thích sự hệ thống, cẩn thận mà thành tâm thành ý hoàn thành công việc đến cùng.
Tính cách kiên nghị của anh ta sẽ truyền cho cả con cháu đời sau, dù họ không cùng
một con giáp.
Làm người cha trong gia đình, anh ta luôn ngạo mạn và võ đoán, không cho phép ai
phá vỡ những quy định. Anh ta xâu cả cuộc sống gia đình, công việc và lợi ích quốc
gia thành một chuỗi, và ưa thích kiểu đầu tư lâu dài, ổn định.
Chương 9: Người tuổi Sửu
Người tuổi Ất Sửu: Trâu giữa biển (thuộc mệnh Kim trong Ngũ hành).
Là người khảng khái, thích sự vui vẻ, ấm áp, ham học hỏi nhưng ít thành, thuở nhỏ
cha mẹ yêu quý, vợ chồng con cái bình yên, được cậy nhờ họ hàng, nữ thì hiền lương
và mạng thuận hoà.
Tuổi Đinh Sửu: Trâu trong hồ (thuộc mệnh Thủy trong Ngũ hành).
Là người ôn hoà, nhiều tài lộc. Thời trẻ hay có tài lộc, về già có của ăn của để, vợ
chồng hoà thuận, nữ thì hiền lương, đảm đang lo lắng gia đình.
Tuổi Kỷ Sửu: Trâu trong rào (thuộc mệnh Hỏa trong Ngũ hành).
Là người thẳng thắn, bộc trực, có tài, nhiều lộc, nam nữ có người phải tái giá. Về
sau vợ chồng hòa mục, bách niên giai lão, là mạng phát phúc về già.
Tuổi Tân Sửu: Trâu giữa đường (thuộc mệnh Thổ trong Ngũ hành).
Là người tâm tình ôn hoà, thuở nhỏ hay sợ sệt, tuy có tài lộc nhưng ít của ăn của
để, về già phúc thọ bền lâu. Nữ thường có tin vui đi cùng với tài lộc vương tướng.
Tuổi Quý Sửu: Trâu trong chuồng (thuộc mạng Mộc trong Ngũ hành).
Là người nhiều tài lộc, thời trẻ không màng tiền bạc lụa là, cả đời được kính trọng
không vướng chuyện thị phi. Cha mẹ khó nhờ, anh em, vợ chồng hòa thuận, muộn
đường con cái.

Chương 10: Đường tình duyên của người tuổi Sửu
Tuy vẻ ngoài lặng lẽ nhưng lại có một trái tim nồng nhiệt, thế giới nội tâm vô cùng
phong phú. Đừng tưởng rằng ngày thường bạn luôn đủng đỉnh thủng thẳng, mọi

chuyện đều nhẫn nại, kiên trì, kỳ thực, bạn giấu kín bản tính sôi nổi trong thẳm sâu
tâm hồn, nhưng đa phần bạn bè, người thân đều không hiểu bạn.
Tuy bạn có thế giới nội tâm phong phú, một trái tim nhiệt thành, nhưng đáng tiếc,
thường không suôn sẻ trong đường tình duyên.
Bạn thường khá đơn độc, thỉnh thoảng gặp được người bạn tương đối thích, bạn
vẫn không chủ động tiếp cận, có cơ hội tốt cũng không chịu giữ lấy, mọi thứ đều vì
sai lầm của bản thân mà trôi đi như dòng nước.
Có lẽ bạn vẫn chưa biết rằng, sức cạnh tranh xung quanh bạn vô cùng kịch liệt, chỉ
lơi là sẽ có khả năng mất người yêu. Vì bạn không hiểu kỹ về tình yêu, với bạn, tình

×