Tải bản đầy đủ (.docx) (149 trang)

Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.76 KB, 149 trang )

Lời nhà xuất bản
Dân tộc ta, đất nước ta trải qua mấy nghìn năm lịch sử, tổ tiên ta đã đổ biết bao mồ
hôi, nước mắt và xương máu để dựng nước và giữ nước.
Với ý chí quật cường, ông cha ta đã viết nên những trang sử chói lọi làm vẻ vang
cho dân tộc ta.
Là con dân của một dân tộc anh hùng, ai ai cũng cần phải hiểu nguồn gốc và lịch sử
của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết "Việt Nam lịch sử diễn ca" để tuyên
truyền và dạy lịch sử cho dân dễ nhớ.
Góp phần vào việc "Dân ta phải biết sử ta", chúng tôi mạnh dạn xuất bản cuốn
"Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam" của hai soạn giả Hà Văn Thư và Trần Hồng Đức
nhằm phục vụ mục đích trên.
Cuốn "Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam" ghi chép toàn bộ hệ thống lịch sử Việt
Nam từ thời Hồng Bàng đến Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay một cách
ngắn gọn, dễ hiểu, dễ tra cứu.
Ngoài ra, cuốn sách còn giới thiệu một số danh nhân, anh hùng dân tộc và nhân vật
lịch sử nổi tiếng để minh hoạ.
Chắc chắn cuốn sách còn đôi chỗ thiếu sót, rất mong được bạn đọc bổ khuyết để
những lần in sau được hoàn chỉnh hơn.
Tháng 01 - 1999 cuốn Tóm tắt Niên biểu Lịch sử Việt Nam được Nhà xuất bản thế
giới dịch ra 4 thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha.
Nhà xuất bản văn hoá - thông tin
VI. Thời kỳ đấu tranh chống phong kiến Trung Hoa thống trị lần thứ hai (43-
543) - 500 năm Bà Triệu khởi nghĩa (248)
Nhà Đông Hán mất, nước Trung Hoa phân làm ba nước (thời Tam Quốc): Bắc
Nguỵ, Tây Thục và Đông Ngô. Nước ta lúc đó thuộc Đông Ngô.
Bà Triệu Thị Trinh sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (226), anh là Triệu Quốc
Đạt, một hào trưởng lớn ở miền Quan Yên, quận Cửu Chân (Nông Cống, Thanh Hoá).
Bà Triệu là người chí khí, đã từng nói: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp cơn sóng
dữ, chém cá Kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô
lệ chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta".
Đông Ngô cai trị nước ta bằng một chính sách vô cùng tàn bạo, nhân dân ta vô


cùng thống khổ, năm 248, Bà Triệu Thị Trinh cùng anh là Triệu Quốc Đạt phất cờ
khởi nghĩa, tấn công quân Ngô, phá tan các thành ấp của giặc.
Mỗi lần ra trận, Bà Triệu thường mặc áo giáp đồng, đi guốc ngà, cài trâm vàng,
cưỡi voi dẫn đầu đoàn quân oai phong lẫm liệt. Quân Ngô kinh hồn bạt vía đã phải
thốt lên:
Hoành qua đương hổ dị,
Đối diện Bà Vương nan
Nghĩa là:
Vung giáo chống hổ dễ,
Giáp mặt Vua Bà khó.
Trong vòng 6 tháng, nghĩa quân đã chiếm hầu hết đất Giao Châu. Vua Ngô hốt
hoảng phái ngay Lục Dận (cháu Lục Tốn thời Tam Quốc) là một danh tướng có nhiều
kinh nghiệm trong chiến trận và rất quỷ quyệt, hắn đưa hàng vạn quân tinh nhuệ sang
đàn áp cuộc khởi nghĩa, chúng vừa đánh vừa đem của cải, chức tước ra dụ dỗ các thủ
lĩnh người Việt, một số kẻ đã làm tay sai cho giặc Ngô. Bà Triệu vẫn kiên cường
chiến đấu. Bà đã hy sinh trên núi Tùng (Hậu Lộc, Thanh Hóa), lúc đó bà mới 23 tuổi.
Nhân dân ta vô cùng thương tiếc người nữ anh hùng, nay ở Phú Điền (Thanh Hoá)
còn đền thờ Bà Triệu.
Thơ ca dân gian còn truyền tụng:
Tùng Sơn nắng quyện mây trời,
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.
Nước ta lại thuộc Đông Ngô đô hộ (từ 226-265).
Năm 263, Lã Hưng, một tướng của Đông Ngô, nổi dậy diệt Thái thú Giao Châu là
Tôn Tư giành quyền cai trị (từ 265-271). Lã Hưng đem Giao Châu theo về Tây Tấn.
Năm 271, Đông Ngô diệt được Lã Hưng giành lại quyền cai trị Giao Châu. Từ năm
280 Tây Tấn diệt hẳn Đông Ngô, đất Giao Châu lại thuộc về Tây Tấn.
Nhà Tấn diệt Nguỵ, Thục, Ngô rồi phong cho anh em thân thích ra trấn trị các
phương, nhưng các thân Vương cứ đánh giết lẫn nhau làm cho nhà Tấn ngày càng suy
yếu. Nhân cơ hội đó các nước Triệu, Tần, Yên, Lương, Hạ, Hán nổi dậy chiếm lấy cả
vùng phía Bắc sông Trường Giang. Nhà Tấn chỉ còn lại vùng Đông Nam, phải dời về

Kiến Nghiệp (Nam Kinh), từ đó gọi là Đông Tấn.
Năm 420, Lưu Du cướp ngôi nhà Đông Tấn, lập ra nhà Tống ở phía Nam; Trung
Quốc lúc đó phân chia ra thành Nam, Bắc triều:
Nam Triều gồm: Nhà Tống, Tề, Lương, Trần kế nhau cai trị.
Bắc Triều gồm: Nhà Ngụy, Tề, Chu nối nhau cai trị.
Nhân dân ta bị sự đô hộ vô cùng tàn bạo của Nhà Lương do Thứ sử Tiêu Tư cai trị,
nhân dân ta cực khổ trăm bề, đến năm 542 Lý Bôn lãnh đạo nhân dân ta khởi nghĩa,
đánh đuổi Tiêu Tư, chiếm thành Long Biên lập nên Nhà nước độc lập đầu tiên của
nước ta.
VII. Nhà Tiền Lý và Nhà Triệu (544-602)
58 năm, Quốc hiệu Vạn Xuân, Kinh đô Long Biên (Thuận Thành - Bắc Ninh)
Niên hiệu: Thiên Đức
Lý Bôn tức Lý Bí, quê ở Long Hưng (Thái Bình)(1), sinh ngày 12 tháng 9 năm
Quý Mùi (17-10-503), ông là con hào trưởng Lý Toản, mẹ là Lê Thị Oánh người ái
Châu (Thanh Hoá), 5 tuổi bố mất, 7 tuổi mẹ mất, phải ở với chú ruột. Vị pháp tổ thiền
sư thấy Lý Bí khôi ngô, tuấn tú xin làm con nuôi đưa về chùa Linh Bảo nuôi dạy, hơn
mười năm đèn sách chuyên cần, lại được vị Thiền sư hết lòng dạy bảo, Lý Bí trở
thành người học rộng, hiểu sâu, ít người sánh kịp. Nhờ có tài kiêm văn võ, Lý Bí được
tôn làm thủ lĩnh địa phương.
Thấy nhân dân ta vô cùng thống khổ dưới sự đô hộ tàn ác của tên Thứ sử Tiêu Tư,
tháng 1 năm 542, Lý Bí lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa tấn công quân Lương. Thứ sử
Tiêu Tư khiếp sợ bỏ chạy về nước, chưa đầy 3 tháng Lý Bí đã chiếm được hầu hết các
quận, huyện và thành Long Biên. Nhà Lương sai tướng đem quân sang phản công
chiếm lại. Lý Bí đã cho quân mai phục đánh tan bọn xâm lược.
Đầu năm 543, vua Lương lại huy động binh mã sang xâm chiếm nước ta một lần
nữa. Lý Bí chủ động đem quân đón đánh giặc ở bán đảo Hợp Phố, quân Lương bị tiêu
diệt gần hết.
Cùng năm Quý Hợi (543) quân Lâm ấp kéo sang cướp phá quận Nhật Nam, Lý Bí
sai lão tướng Phạm Tu kéo quân vào đánh ở Cửu Đức (Hà Tĩnh), quân Lâm ấp bỏ
chạy về nước.

Tháng 2 Giáp Tý (544) Lý Bí xưng Lý Nam Đế, niên hiệu là Thiên Đức, đặt tên
nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên (Thuận Thành, Bắc Ninh).
Triều đình gồm có hai ban văn võ. Tướng Phạm Tu đứng đầu hàng quan võ. Tinh
Thiều đứng đầu hàng quan văn, Triệu Túc được phong là Thái Phó, Triệu Quang Phục
trẻ tuổi có tài cũng được trọng dụng.
Triều Tiền Lý khởi nghiệp từ đấy.
Lý Bí xưng là hoàng đế (Lý Nam Đế), đó là vị hoàng đế đầu tiên của nước ta. Ông
đặt tên nước là Vạn Xuân, định niên hiệu Thiên Đức, lập một triều đình riêng là sự
khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, bền vững muôn đời của dân tộc ta.
Lý Nam Đế còn cho đúc tiền đồng để tiêu dùng trong nước. Đây là tiền đồng đầu
tiên của nước ta.
Lý Nam Đế sai dựng một ngôi chùa lớn ở phường Yên Hoa (Yên Phụ) lấy tên là
chùa Khai Quốc. Chùa Khai Quốc nay là chùa Trấn Quốc trên đảo Cá Vàng (Kim
Ngư) ở Hồ Tây, Hà Nội.
Đầu năm 545, nhà Lương cử Dương Phiêu làm Thứ sử Giao Châu cùng với tên
tướng khát máu Trần Bá Tiên chia làm hai đường thuỷ bộ kéo sang xâm lược nước ta,
hòng bóp chết Nhà nước Vạn Xuân non trẻ. Lý Nam Đế đem quân chặn đánh bọn xâm
lược ở vùng sông Lục Đầu (Hải Dương), nhưng vì ít quân không cản được giặc, Vua
phải lui quân về giữ thành ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội), quân địch hung hãn tấn công
ác liệt, lão tướng Phạm Tu đã oanh liệt hy sinh. Lý Nam Đế phải rút quân vào miền
núi Vĩnh Phúc và đóng thuỷ quân tại hồ Điển Triệt (Lập Thạch, Vĩnh Phúc).
Trần Bá Tiên là tên tướng giặc rất xảo quyệt, hắn lợi dụng một đêm mưa to gió lớn
đã thúc quân vào đánh úp quân Lý Nam Đế. Nhà Vua phải rút quân vào ẩn tại động
Khuất Lão (Tam Nông, Vĩnh Phúc). Anh Vua là Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử (người
cùng họ) đem một cánh quân lui vào giữ Thanh Hoá.
Ở động Khuất Lão, Lý Nam Đế bị ốm nặng đã trao quyền cho Triệu Quang
Phục(1) tiếp tục cuộc kháng chiến chống quân Lương. Ngày 20 tháng 3 năm Mậu
Thìn (13-4-548) Lý Nam Đế mất.
Để tưởng nhớ Lý Nam Đế, người anh hùng dân tộc mở đầu nền độc lập tự chủ của
đất nước ta, nhân dân nhiều nơi lập đền thờ ghi nhớ công đức của Ông. Chỉ tính riêng

ở miền Bắc đã có hơn 200 đền thờ Lý Nam Đế.
Lý Thiên Bảo là anh họ của Lý Bôn, sau khi Lý Nam Đế bị thất bại ở động Khuất
Lão, Lý Thiên Bảo cùng Lý Phật Tử đem một cánh quân rút vào Thanh Hoá chống
nhau với quân nhà Lương, khi Lý Nam Đế mất, Thiên Bảo xưng là Đào Lang Vương
(549-555) đến năm ất Hợi (555) Lý Thiên Bảo mất, không có con, binh quyền về tay
Lý Phật Tử (người cùng họ).
Triệu Quang Phục là con Triệu Túc, Tù trưởng ở Châu Diên (Sơn Tây), được Lý
Nam Đế trao quyền lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Lương. Ông đưa quân về
Dạ Trạch (Bãi Màn Trò, Hưng Yên) là một vùng đồng lầy rộng lớn, lau sậy um tùm, ở
giữa có một bãi đất khô ráo để đóng quân. Ông cho quân lính vừa sản xuất lương
thực, vừa tiếp tục cuộc kháng chiến lâu dài, đêm đêm nghĩa quân kéo ra đánh các đồn
địch, làm cho lực lượng địch bị tiêu hao và mất ăn, mất ngủ.
Ngày 13-4-548, Triệu Quang Phục lên ngôi vua, xưng là Triệu Việt Vương, dân
gian gọi ông là Dạ Trạch Vương.
Năm 550 từ căn cứ Dạ Trạch, Triệu Việt Vương tiến quân ra đánh giết được tướng
giặc là Dương San, thu lại được thành Long Biên.
Trong khi đó ở Cửu Chân (Thanh Hoá), Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử bị quân
Lương truy đuổi có lúc phải chạy sang Lào, Lý Thiên Bảo đóng quân ở động Dã Năng
và xưng là Đào Lang Vương, đến năm ất Hợi (555) Lý Thiên Bảo mất, binh quyền về
tay Lý Phật Tử.
Năm Đinh Sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về đánh Triệu Việt Vương để giành
ngôi vua cho nhà Lý, nhưng đánh không thắng, Lý Phật Tử phải chia đất giảng hoà,
để tỏ rõ tình hoà hiếu Triệu Việt Vương còn gả con gái là Cảo Nương cho con trai Lý
Phật Tử là Nhã Lang.
Năm Tân Mão (571) Lý Phật Tử bội ước, bất ngờ đem quân đánh úp, vì không
phòng bị, Triệu Việt Vương thua chạy đến cửa biển Đại Nha, cùng đường Vương phải
nhảy xuống biển tuẫn tiết. Nhân dân vô cùng thương tiếc lập đền thờ Triệu Việt
Vương tại đây.
Đời vua Trần Nhân Tông có sắc phong là "Minh Đạo Hoàng Đế". Trần Anh Tông
ban thêm bốn chữ: "Thánh liệt Thần vũ".

Diệt xong Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử xưng là Hậu Lý Nam Đế, đóng đô ở
Phong Châu (Bạch hạc, Phú Thọ).
Trong lúc Lý Phật Tử làm vua ở nước ta, thì bên Trung Hoa Tuỳ Văn Đế dẹp yên
được Nam Bắc triều, thống nhất được đất nước Trung Hoa.
Năm Nhâm Tuất (602) Nhà Tuỳ sai danh tướng Lưu Phương đem 10 vạn quân sang
xâm lược nước ta. Lý Phật Tử sợ thế giặc đã đầu hàng, rồi bị bắt đem về Trung Hoa.
Từ đó nước ta lại bị nhà Tuỳ đô hộ.
VIII. Thời kỳ chống phong kiến Trung Hoa thống trị lần thứ ba (603-939) -
336 năm
Do Lý Phật Tử hèn nhát đầu hàng, nhà Tuỳ chia đất Giao Châu thành 3 quận:
- Giao Chỉ (các tỉnh Bắc Bộ)
- Cửu Chân (Thanh Hoá)
- Nhật Nam (Nghệ An)
Trị sở quận Giao Chỉ đóng ở Tống Bình (Hà Nội).
Nhà Tuỳ ở ngôi được 37 năm (581-618) thì mất. Lý Uyên lên ngôi Đường Cao Tổ
trị vì Trung Hoa.
Năm 671, Nhà Đường chia đất Giao Châu thành 12 châu, 59 huyện và gọi nước ta
là An Nam đô hộ phủ.
Nhà Đường dùng chính sách tàn bạo, hà khắc để cai trị nhân dân ta, chúng muốn
đồng hoá nhân dân ta bằng chính sách "sát phu, hiếp phụ", nhưng với ý chí quật
cường của một dân tộc anh hùng, nhân dân ta đã có nhiều cuộc nổi dậy chống lại kẻ
thù xâm lược như các cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên, Đinh Kiến (687), Mai Thúc
Loan (722), Phùng Hưng (766-791), Dương Thanh (819-820) v. v tiêu biểu là các
cuộc khởi nghĩa.
Mai Thúc Loan quê ở Mai Phụ, (huyện Thiên Lộc, nay thuộc Can Lộc, Hà Tĩnh),
một làng làm muối ven biển Thạch Hà (Hà Tĩnh) mồ côi cha, theo mẹ lên ở vùng
Ngọc Trừng (Nam Đàn). Mai Thúc Loan nhà nghèo phải đi kiếm củi rồi đi ở đợ cho
nhà giàu, chăn trâu, cày ruộng. Ông rất khoẻ và sáng dạ, người đen trũi, nổi tiếng giỏi
vật cả một vùng. Cũng như mọi người dân Việt, Mai Thúc Loan phải đi phu quanh
năm phục dịch vất vả cho bọn đô hộ nhà Đường.

Năm 713, Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân phu và nhân dân trong vùng
nổi dậy khởi nghĩa, nhân tài khắp các châu Hoan, Diễn, ái theo về tụ hội dưới cờ
nghĩa và suy tôn Mai Thúc Loan là Mai Hắc Đế, đóng đô ở thành Vạn An (Nghệ An).
Mai Hắc Đế tiến quân ra giải phóng phủ thành Tống Bình (Hà Nội), bọn đô hộ phải
bỏ thành tháo chạy về nước.
Năm 722 nhà Đường cử tên tướng tâm phúc là Dương Tư Húc đưa 10 vạn quân
cùng Quang Sở Khách tiến sang đàn áp quân khởi nghĩa. Sau nhiều trận đánh ác liệt
từ lưu vực sông Hồng, đến lưu vực sông Lam, cuối cùng Mai Hắc Đế thất trận, phải
rút vào rừng sâu, Mai Hắc Đế bị ốm và mất ở trong rừng, con ông nối ngôi được một
thời gian, tức là Mai Thiếu Đế. Quân xâm lược tiến vào đàn áp nhân dân ta rất dã
man.
Nhân dân ta lập đền thờ Mai Hắc Đế ở trên núi Vệ Sơn trong thung lũng Hùng Sơn
có đền thờ để đời đời nhớ ơn Người anh hùng dân tộc.
Hùng cứ Hoan Châu đất một vùng
Vạn An thành luỹ khói hương xông
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức
Trăm trận Lý Đường phục võ công


Phùng Hưng xuất thân là một hào trưởng đất Đường Lâm (Ba Vì, Hà Tây), bố là
Phùng Hạp Khanh, một người hiền tài, đức độ đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa của
Mai Hắc Đế. Phùng Hưng có sức khoẻ phi thường, ông đã từng giết hổ ở đất Đường
Lâm để trừ tai họa cho dân, trước sự thống khổ của nhân dân ta dưới ách đô hộ của
nhà Đường, Phùng Hưng đã cùng hai em là Phùng Hải và Phùng Dĩnh phất cờ khởi
nghĩa chống lại nhà Đường.
Phùng Hưng chiếm đất Đường Lâm làm căn cứ, khi tiến công, khi thế thủ, cuộc
chiến đấu kéo dài hơn 20 năm (766-791).
Năm Tân Mùi (791) Phùng Hưng cùng các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh
Hàn, Bồ Phá Cần chia thành 5 đạo quân, bất ngờ cùng tiến đánh thành Tống Bình (Hà
Nội). Cao Chính Bình đem 4 vạn quân ra nghênh chiến, sau 7 ngày đêm chiến đấu ác

liệt, quân giặc phải rút vào thành cố thủ, nghĩa quân vây đánh khắp bốn mặt thành.
Cao Chính Bình lo sợ đến phát ốm mà chết, nghĩa quân chiếm được thành Tống Bình
làm Kinh đô xây dựng quyền tự chủ lâu dài. Phùng Hưng được nhân dân tôn hiệu là
Bố Cái Đại Vương.
Giành được chủ quyền cho đất nước được mấy tháng Phùng Hưng mất. Phùng An
nối nghiệp cha được mấy tháng thì bị Vua Đường cử Triệu Xương đem quân sang
đánh bại.
Nhân dân lập đền thờ Phùng Hưng ở Đường Lâm để đời đời ghi nhớ công ơn
Người anh hùng dân tộc.
IX. Thời kỳ xây dựng nền tự chủ (905-938)
Sau khi đánh bại Phùng An, bọn quan lại nhà Đường sang cai trị Giao Châu càng
tham tàn, độc ác nên nhân dân ta vô cùng uất hận. Chúng chỉ nghĩ đến việc vơ vét của
cải cho nhiều nên hai lần bị giặc Nam Chiếu sang đánh, đã giết hại hơn 15 vạn dân
Giao Châu, quan quân nhà Đường đều bỏ chạy.
Năm 905, nhà Đường suy yếu không cử được quan đô hộ nữa. Nhân cơ hội đó,
Khúc Thừa Dụ đã nổi lên lập chính quyền độc lập, tự chủ.
Khúc Thừa Dụ quê ở Hồng Châu nay là Cúc Bồ (Ninh Giang, Hải Dương), vốn là
một hào phú, tính khoan hoà, được nhân dân kính phục. Thấy nhân dân ta vô cùng
thống khổ dưới ách đô hộ của nhà Đường, ông khởi binh tiến công thành Tống Bình
(Hà Nội), đuổi giặc về nước tự xưng là Tiết độ sứ. Thế cùng, nhà Đường buộc phải
công nhận Khúc Thừa Dụ là quan đứng đầu đất Việt.
Mặc dù Khúc Thừa Dụ và các con cháu của ông không xưng đế, xưng vương,
nhưng rõ ràng Khúc Thừa Dụ và họ Khúc đã có công đặt dấu chấm hết cho thời kỳ
Bắc thuộc và xây dựng nền tảng đầu tiên cho kỷ nguyên độc lập, tự chủ của Tổ quốc
ta.
Ngày 23-7-907, Khúc Thừa Dụ mất, giao quyền lại cho con là Khúc Hạo.
Năm 907, nhà Đường mất, nhà Hậu Lương thấy thế cũng phải công nhận Khúc Hạo
là "An Nam đô hộ Tiết độ sứ".
Khúc Hạo chia nước ta thành 5 cấp hành chính: Lộ, phủ, châu, giáp, xã. Giáp, xã là
cấp hành chính cơ sở lần đầu tiên được đặt ra ở nước ta. Cả nước lúc đó có 314 giáp.

Khúc Hạo còn sửa đổi chế độ điền tô và phú dịch đó là "bình quân thuế ruộng, tha
bỏ lực dịch", lập sổ hộ khẩu, kê rõ họ tên, quê quán giao cho giáp trưởng trông coi.
Chính sự cốt khoan dung giản dị. Nhân dân đều được yên vui(1).
Bằng những cải cách về hành chính và kinh tế của Khúc Hạo đã biểu thị rõ rệt tinh
thần tự chủ, tự lập, tự cường và quyết tâm xây dựng một nước hoàn toàn độc lập của
dân tộc ta.
Năm Đinh Sửu (917), Khúc Hạo mất, truyền ngôi cho con là Khúc Thừa Mỹ.
Khúc Thừa Mỹ thay cha nhậm chức Tiết độ sứ của nhà Lương, chứ không phục
nhà Nam Hán. Năm 923, vua Nam Hán sai tướng là Lý Khắc Chính đem quân sang
đánh và bắt được Khúc Thừa Mỹ, rồi sai Lý Tiến sang cùng với Lý Khắc Chính là
Thứ sử Giao Châu.
Dương Đình Nghệ người làng Ràng (Dương Xá, Thiệu Hoá, Thanh Hoá), là tướng
của họ Khúc đã khởi binh đánh đuổi Lý Khắc Chính và Lý Tiến giải phóng thành Đại
La (Hà Nội) xưng là Tiết độ sứ vào năm 931.
Dương Đình Nghệ cử:
- Ngô Quyền quản lý Ái Châu.
- Đinh Công Trứ quản lý Hoan Châu.
Giành được quyền tự chủ 6 năm, Dương Đình Nghệ bị tên nha tướng là Kiều Công
Tiễn ám hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Nhân dân ta vô cùng căm phẫn nổi lên chống lại
tên phản bội. Kiều Công Tiễn vội cho người sang cầu cứu chúa Nam Hán.
X. Nhà Ngô (939-965)
26 năm, Kinh đô Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội)
Ngô Quyền sinh ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (897) ở Đường Lâm (Ba Vì, Hà
Nội), cha là Ngô Mân, một hào trưởng có tài đức.
Ngô Quyền thông minh, khôi ngô, mắt sáng như chớp, văn võ toàn tài, được
Dương Đình Nghệ tin yêu gả con gái là Dương Thị Ngọc và giao cho Ngô Quyền cai
quản đất Ái Châu (Thanh Hoá).
Khi nghe tin bố vợ bị Kiều Công Tiễn giết hại, nhà Nam Hán lại cho con là Vạn
Vương Hoằng Tháo đưa quân sang xâm lược nước ta, Ngô Quyền đã nhanh chóng tập
hợp lực lượng, đem quân giết chết tên phản bội Kiều Công Tiễn và đón đánh quân

Nam Hán.
Để đánh thắng quân xâm lược Nam Hán, ông cho bố trí một trận địa cọc nhọn bịt
sắt cắm xuống lòng sông Bạch Đằng.
Tháng 10 năm Mậu Tuất (11-938) các chiến thuyền của giặc hùng hổ vượt biển tiến
vào sông Bạch Đằng, quân ta nhử cho thuyền giặc vượt qua được trận địa cọc, đợi cho
nước thuỷ triều xuống, quân ta bắt đầu tấn công dữ dội, đánh vỗ mặt và hai bên sườn,
làm cho thuyền giặc tháo chạy va vào cọc nhọn bịt sắt bị đắm gần hết. Hoằng Tháo bị
đâm chết tại trận, quân ta giết và bắt sống hầu hết quân Nam Hán (đây là chiến thắng
Bạch Đằng lần thứ nhất). Sau chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền
lên ngôi vua, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội) đặt ra các quan văn võ, đặt ra
nghi lễ triều đình, thể hiện nền độc lập tự chủ của đất nước ta, thật sự chấm dứt hơn
một nghìn năm Bắc thuộc, lập ra một quốc gia trường tồn vạn mùa xuân (nhà yêu
nước Phan Bội Châu đã từng tôn vinh Ngô Quyền là "Vị tổ trung hưng thứ nhất" của
dân tộc Việt Nam).
Ngô Quyền làm vua được 5 năm (939-944) thì mất, thọ 48 tuổi. Trước khi mất Ngô
Quyền đã uỷ thác con trưởng là thái tử Ngô Xương Ngập cho em vợ là Dương Tam
Kha.
Dương Tam Kha là con của Dương Đình Nghệ (em vợ của Ngô Quyền) nhận di
chiếu giúp thái tử Ngô Xương Ngập, nhưng đã cướp ngôi, tự lên ngôi vua xưng là
Dương Bình Vương, Ngô Xương Ngập hoảng sợ chạy trốn về Nam Sách (Hải
Dương). Dương Tam Kha nhận con thứ của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn làm con
nuôi. Hai con khác của Ngô Quyền là Ngô Nam Hưng và Ngô Càn Hưng còn bé thì
giao cho bà Dương Thị Ngọc nuôi dưỡng.
Năm Canh Tuất (950), nhân có giặc Chu Thái ở Sơn Tây, Ngô Xương Văn xin đi
dẹp loạn, Dương Tam Kha đồng ý cử thêm các tướng Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh
Thạc cùng đem quân đi đánh. Khi đến Từ Liêm, Ngô Xương Văn đã bàn mưu với hai
tướng đem quân trở lại Cổ Loa bắt Dương Tam Kha, Ngô Xương Văn nghĩ tình cậu
cháu không nỡ giết chỉ giáng Dương Tam Kha xuống làm Trương Dương Công.
Ngô Xương Văn là con thứ hai của Ngô Quyền và Dương Thị Ngọc, năm 950 đã
dùng mưu lật đổ Dương Tam Kha giành lại ngôi vua cho nhà Ngô. Theo thỉnh cầu của

các tướng lĩnh và triều thần, được sự chuẩn tấu của Dương Thái hậu, Ngô Xương Văn
lên ngôi vua lấy niên hiệu là Nam Tấn Vương (950-965) đóng đô ở Cổ Loa.
Nam Tấn Vương cho người đi tìm anh là Thái tử Ngô Xương Ngập, giả làm thầy
đồ trốn ở Nam Sách (Hải Dương) lấy vợ và có con trai là Ngô Xương Xí đang sống ở
đó, đón về Kinh đô.
Theo thỉnh cầu của Ngô Xương Văn, được Dương Thái hậu chuẩn tấu cả hai anh
em làm vua (như vậy nước ta lúc đó có hai vua).
Ngô Xương Ngập lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thiên Sách Vương (951-959) sau
Ngô Xương Ngập bị bệnh thượng mã phong mà chết. Làm vua được 8 năm.
Từ khi Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, các nơi không chịu thần phục, giặc
giã nổi lên như ong, mỗi thủ lĩnh cát cứ một vùng thường đem quân đánh chiếm lẫn
nhau gây ra cảnh "nồi da nấu thịt" kéo dài gần 20 năm.
Năm 965, Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn bị bắn chết trong một trận giao chiến
với giặc Chu Thái ở hương Thái Bình (Đường Lâm - Sơn Tây), con Thiên Sách
Vương là Ngô Xương Xí nối nghiệp làm vua, thế lực ngày càng yếu kém phải lui về
giữ đất Bình Kiều. Từ năm 966 hình thành cục diện 12 sứ quân như sau:
Các sứ quân ấy cứ đem quân đánh lẫn nhau, nhằm bành trướng thế lực khiến cho
nhân dân vô cùng khổ sở.
Đinh Bộ Lĩnh là con nuôi của thủ lĩnh Trần Lãm, sứ quân Bố Hải Khẩu. Trần Lãm
chết, Đinh Bộ Lĩnh được trao quyền, đã dẹp xong "Loạn 12 sứ quân" quy giang sơn
về một mối, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh.
XI. Nhà Đinh (968-980)
12 năm, Quốc hiệu Đại Cồ Việt, Kinh đô Hoa Lư (huyện Gia Viễn, Ninh Bình)
Niên hiệu: Thái Bình (970-979)
Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, Châu Đại Hoàng, (Hoa Lư, Ninh Bình), con trai
ông Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức Thứ sử Châu
Hoan, cha mất sớm, theo mẹ về quê ở, thường đi chăn trâu, bắt lũ trẻ khoanh tay làm
kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận giả đánh nhau. Lớn lên,
nhờ thông minh, có khí phách và có tài thao lược, thấy nhân dân khổ sở vì loạn 12 sứ
quân, ông dựng cờ khởi nghĩa, mong lập nghiệp lớn. Đinh Bộ Lĩnh theo về dưới cờ

của Trần Minh Công (Trần Lãm) ở Bố Hải Khẩu, được Trần Lãm nhận làm con nuôi,
khi Trần Lãm mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào
kiệt để dẹp loạn 12 sứ quân.
Năm Mậu Thìn (968) sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi
Hoàng Đế, xưng là Đại Thắng Minh Hoàng Đế, đặt niên hiệu là Thái Bình, đặt Quốc
hiệu là Đại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư.
Đinh Tiên Hoàng phong cho Nguyễn Bặc là Định Quốc công, Lê Hoàn làm Thập
Đạo tướng quân và phong cho con là Đinh Liễn làm Nam Việt Vương.
Nhưng Đinh Tiên Hoàng mắc sai lầm, bỏ con trưởng là Đinh Liễn đã theo Đinh
Tiên Hoàng đi trận mạc từ thuở hàn vi, để lập con nhỏ là Hạng Lang làm Thái tử.
Đinh Liễn tức giận sai người giết Hạng Lang gây mầm hoạ loạn về sau.
Năm Kỷ Mão (979) Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị tên thái giám Đỗ Thích giết
chết trong khi uống rượu ngủ say. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 11 năm thọ 56 tuổi.
Niên hiệu: Thái Bình (980)
Đinh Toàn mới lên 6 tuổi, được triều thần đưa lên ngôi vua, tôn mẹ là Dương Vân
Nga làm Hoàng Thái hậu. Thập đạo tướng quân Lê Hoàn là Phó vương nắm giữ
quyền bính. Các tướng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp sợ Lê Hoàn cướp ngôi nhà
Đinh liền họp nhau khởi binh đánh Lê Hoàn nhưng bị thua.
Đinh Điền chết tại trận, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp đều bị bắt rồi bị giết.
Mùa thu năm Canh Thìn (980), nhân lúc nội bộ nhà Đinh lục đục, nhà Tống đem
quân sang xâm lược nước ta.
Vì lợi ích của dân tộc, Thái hậu Dương Vân Nga (vợ của Đinh Tiên Hoàng, mẹ đẻ
của Đinh Toàn) thể theo nguyện vọng của các tướng sĩ, đã trao áo "Long Cổn" (ngôi
vua) cho Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn, tức là Lê Đại Hành.
Như vậy nhà Đinh làm vua được hai đời, cả thảy 12 năm.
Đinh Toàn tồn tại ở tước Vệ Vương dưới triều Lê Đại Hành. Năm Tân Sửu (1001),
Đinh Toàn cùng vua Lê Đại Hành đi dẹp loạn Cửu Long thuộc vùng Cẩm Thuỷ,
Thanh Hoá. Đinh Toàn bị trúng tên thuốc độc, hy sinh lúc 27 tuổi.
XII. Nhà Tiền Lê (980-1009)
Kinh đô Hoa Lư (29 năm)

Niên hiệu: - Thiên Phúc (980-988)
- Hưng Thống (989-993)
- Ứng Thiên (994-1005)
Lê Hoàn sinh năm 941 ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá, trong một gia đình
nghèo khổ, bố là Lê Mịch, mẹ là Đặng Thị Sen, cha mẹ mất sớm, Lê Hoàn phải đi làm
con nuôi cho một vị quan nhỏ. Lớn lên, Lê Hoàn đi theo Nam Việt Vương Đinh Liễn
đã lập được nhiều chiến công, khi Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất
đất nước lập lên cơ nghiệp nhà Đinh, được Đinh Tiên Hoàng phong làm Thập Đạo
tướng quân lúc vừa tròn 30 tuổi.
Khi cha con Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết hại, Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi
vua, nhân cơ hội đó nhà Tống cho quân sang xâm lược nước ta. Vì lợi ích của dân tộc,
Thái hậu Dương Vân Nga đã trao ngôi vua cho Lê Hoàn.
Lê Hoàn xưng là Đại Hành Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc, vẫn tên nước là
Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư, phong Dương Vân Nga là Hoàng hậu.
Chỉ trong vòng một tháng, dưới sự chỉ huy tài giỏi tuyệt vời của Lê Đại Hành, quân
và dân Đại Cồ Việt đã phá được quân Tống trên hai mặt trận thuỷ bộ.
- Cánh quân thuỷ do Lưu Trừng, Giả Thực và một số tướng khác chỉ huy tiến về
phía sông Bạch Đằng. Theo kế của Ngô Quyền, trước đó Lê Hoàn đã cho một đạo
quân nhỏ ra khiêu chiến, vờ thua để nhử giặc, quân Tống chủ quan, kiêu ngạo đã trúng
kế của Lê Hoàn nên bị quân ta đánh tan tành, phải bỏ chạy, không dám vượt Bạch
Đằng Giang để tiến sâu vào nội địa.
- Cánh quân bộ do Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ kéo vào Lạng
Sơn theo đường sông Thương, khi vừa đến Chi Lăng chưa kịp đề phòng, đã bị Lê
Hoàn cho quân trá hàng, rồi bất ngờ đánh úp, Hầu Nhân Bảo bị giết tại trận. Trần
Khâm Tộ được tin hoảng hốt rút chạy. Lê Hoàn chỉ huy tướng sĩ truy kích quân giặc,
quá nửa quân của Trần Khâm Tộ bị giết, các tướng giặc Quách Quân Biện, Triệu
Phụng Hưng bị bắt đem về Hoa Lư. Tôn Toàn Hưng, Lưu Trừng, Giả Thực, Vương
Soạn chạy thoát về nước, nhưng đều bị vua Tống chém đầu hoặc tống ngục giam cầm
đến chết(1).
Cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược của quân dân Đại Cồ Việt do Lê

Hoàn lãnh đạo đã giành được thắng lợi vẻ vang. Chiến thắng đó đã củng cố thêm nền
độc lập thống nhất của Tổ quốc ta, góp phần tô thắm thêm truyền thống yêu nước, tự
cường, bất khuất của dân tộc ta.
Sau khi chỉ huy quân dân cả nước đánh tan quân Tống sang xâm lược nước ta, nhà
vua lo xây dựng lực lượng bảo vệ Tổ quốc, mặt khác đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp
và thủ công nghiệp để chấn hưng đất nước.
Về đối ngoại thì dùng chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo nhưng kiên quyết
bảo vệ nền độc lập của đất nước.
Năm ất Tỵ (1005), Lê Đại Hành mất, làm vua được 25 năm, hưởng thọ 65 tuổi.
Vua Lê Đại Hành có 4 hoàng tử: Long Du, Ngân Trích, Long Việt và Long Đĩnh.
Lê Đại Hành đã cho con thứ ba là Long Việt làm Thái tử, khi vua Lê Đại Hành
mất, các hoàng tử tranh ngôi, đánh nhau 7 tháng, đến khi Long Việt lên ngôi vua là Lê
Trung Tông được 3 ngày thì bị em cùng mẹ là Long Đĩnh giết chết lúc 23 tuổi (983-
1005).
Niên hiệu: - ứng Thiên (1006-1007)
- Cảnh Thuỵ (1008-1009)
Lê Long Đĩnh cướp ngôi của anh là Lê Trung Tông, lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là
Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng đế vẫn đóng đô ở Hoa Lư.
Lê Long Đĩnh đã làm việc càn rỡ giết vua cướp ngôi, thích dâm đãng, tàn bạo, róc
mía trên đầu nhà sư, do chơi bời trác táng quá, nên khi ra thiết triều phải nằm, tục gọi
là Lê Ngoạ Triều. Lê Ngoạ Triều làm vua được 4 năm (1005-1009) thì mất, thọ 24
tuổi. Lê Long Đĩnh mất, con tên là Sạ còn bé. Dưới sự đạo diễn của quan Chi hậu Nội
nhân Đào Cam Mộc, triều thần đã tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng Đế.
Như vậy nhà Tiền Lê trải qua 3 đời vua, tồn tại 29 năm.
XIII. Nhà Lý (1010-1225)
215 năm, Quốc hiệu Đại Cồ Việt, Kinh đô Hoa Lư.
Năm 1010 dời đô về Thăng Long,
Từ năm 1054 đổi Quốc hiệu là Đại Việt
Niên hiệu: Thuận Thiên (1010-1028)
Lý Công Uẩn người hương Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh) mẹ họ Phạm(1), sinh ngày

12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974), mẹ chết khi ông còn nhỏ tuổi, thiền sư Lý Khánh
Văn nhận làm con nuôi, Lý Công Uẩn thông minh và có chí khí khác người ngay từ
nhỏ.
Nhờ sự nuôi dạy của nhà sư Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn đã trở
thành người xuất chúng, văn võ kiêm toàn, làm đến chức Điện tiền chỉ huy sứ, khi Lê
Ngoạ Triều mất, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế vào đầu năm Canh
Tuất (1010), đặt niên hiệu Thuận Thiên, vẫn lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại
Hoa Lư.
Tháng 7 năm 1010, vua Lý Thái Tổ cho dời đô về thành Đại La, một buổi sáng đẹp
trời thuyền vừa cập bến. Nhà Vua thấy Rồng vàng bay lên, do đó đặt tên là Kinh đô
Thăng Long (tức là Hà Nội ngày nay).
Vua Lý Thái Tổ chỉnh đốn lại việc cai trị, chia đất nước làm 24 lộ.
Ngày Mậu Tuất, tháng 3 năm Mậu Thìn (1028) Lý Thái Tổ mất, trị vì 18 năm, thọ
55 tuổi.
Niên hiệu: - Thiên Thành (1028-1033)
- Thống Thuỵ (1034-1038)
- Càn Phù Hữu Đạo (1039-1041)
- Minh Đạo (1042-1043)
- Sùng Hưng Đại Bảo (1049-1054)
Vua Lý Thái Tổ sinh các hoàng tử: Thái tử Phật Mã, Dực Thánh Vương, Khai
Quốc Vương Bồ, Đông Chính Vương Lực, Võ Đức Vương Hoàng.
Khi vua Thái Tổ vừa mất, chưa kịp làm lễ tang, các hoàng tử Võ Đức Vương, Dực
Thánh Vương, Đông Chính Vương đem quân vây Hoàng thành để tranh ngôi vua với
Thái tử nhờ có Lê Phụng Hiểu trung dũng xông ra chém chết Võ Đức Vương, hai
hoàng tử kia bỏ chạy.
Triều thần cùng Lê Phụng Hiểu phò Thái tử Phật Mã lên ngôi Hoàng đế, đặt niên
hiệu là Thiên Thành.
Lý Thái Tông sinh ngày 26 tháng 6 năm Canh Tý (1000). Vua là người trầm mặc,
có trí, biết lo trước mọi việc, đánh đâu được đấy, năm 1020 quân Chiêm Thành quấy
rối nơi biên ải phía Nam, Lý Thái Tổ sai Thái tử Phật Mã làm Nguyên soái, đã đánh

tan quân Chiêm Thành, bắt được tướng giặc đem về.
Khi làm vua, Người quan tâm mở mang bờ cõi, xây dựng lực lượng để bảo vệ đất
nước, đoàn kết các dân tộc ít người, thể hiện rõ bằng cách ngày mồng 7 tháng 3 năm
Kỷ Tỵ (1029), vua gả công chúa Bình Dương cho Châu mục châu Lạng là Thân Thiện
Thái.
Dực Thánh Vương và Đông Chính Vương về kinh xin chịu tội nổi loạn. Lý Thái
Tông nghĩ tình cốt nhục, bèn tha tội cho và phục lại chức cũ cho hai người. Cũng vì
sự phản nghịch ấy cho nên vua Lý Thái Tông mới lập lệ: Cứ hàng năm, các quan phải
đến đền Đồng Cổ (ở làng Yên Thái - Hà Nội bây giờ) làm lễ đọc lời thề: "Làm con
phải hiếu, làm tôi phải trung, ai bất hiếu bất trung, xin quỷ thần làm tội"(1), các quan
ai trốn không đến, phải phạt 50 trượng.
Lý Thái Tông còn chú ý đến việc lập pháp. Năm Nhâm Ngọ (1042), nhà vua ban
hành "Hình thư", đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta.
Năm Giáp Ngọ (1054), vua Lý Thái Tông mất, trị vì 26 năm, thọ 55 tuổi.
Niên hiệu: - Long Thuỵ Thái Bình (1054-1058)
- Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065)
- Long Chương Thiên Tự (1066-1067)
- Thiên Huống Bảo Tượng (1068-1069)
- Thần Võ (1069-1072)
Lý Thánh Tông tên huý là Nhật Tôn, sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023), là
con bà Kim Thiên Thái Hậu họ Mai.
Lý Thánh Tông lên ngôi vua ngày 1 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054), đặt niên hiệu
là Long Thuỵ Thái Bình. Quốc hiệu là Đại Việt.
Mùa thu tháng Tám năm Canh Tuất (1070), Lý Thánh Tông cho mở trường lập
Văn Miếu tại Kinh đô Thăng Long để thờ Khổng Tử và để các hoàng tử đến đấy học.
Nhà sử học Ngô Sĩ Liên ghi trong "Đại Việt sử ký toàn thư" Vua khéo kế thừa,
thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người
xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong
nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc Vua tốt. Song nhọc sức xây tháp Báo Thiên, phí của
dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém".

Lý Thánh Tông mất năm Nhâm Tý (1072) trị vì được 18 năm, thọ 50 tuổi.
- Anh Võ Chiêu Thắng (1076-1084)
- Quảng Hựu (1085-1091)
- Hội Phong (1092-1100)
- Long Phù (1101-1109)
- Hội Tường Đại Khánh (1110-1119)
- Thiên Phù Duệ Võ (1120-1126)
- Thiên Phù Khánh Thọ (1127)
Thái tử Càn Đức là con trưởng của Lý Thánh Tông, mẹ là bà Nguyên Phi ỷ Lan sau
là Thái hậu Linh Nhân. Thái tử sinh ngày 25 tháng giêng năm Bính Ngọ (1066), khi
Lý Thánh Tông mất, Thái tử lên ngôi Hoàng đế lúc mới 7 tuổi (1072). Hoàng Thái
hậu ỷ Lan phải buông rèm nhiếp chính.
- Tháng 2 năm Ất Mão (1075), mở khoa thi Nho học đầu tiên, Lê Văn Thịnh đỗ
đầu trở thành bậc khai khoa của các nhà khoa bảng nước ta.
- Năm Bính Thìn (1076), Vua cho mở Trường Quốc Tử Giám ở Kinh đô Thăng
Long, là trường quốc học cao cấp đầu tiên ở nước ta.
Năm 1075, thời Tống Thần Tông, Vương An Thạch làm tể tướng âm mưu xâm
lược nước ta, Thái uý Lý Thường Kiệt biết rõ âm mưu xâm lược của nhà Tống, nên đã
đánh phá các căn cứ tập kết lương thực, vũ khí của chúng ở Châu Khâm, Châu Liêm,
Châu Ung (Quảng Đông, Quảng Tây) rồi chủ động rút quân về nước lập phòng tuyến
bên bờ nam sông Cầu để chặn giặc.
Đầu năm 1077, Quách Quỳ và Triệu Tiết dẫn 10 vạn quân và 1 vạn ngựa chiến
sang xâm lược nước ta, bị chặn lại bên bờ bắc sông Cầu hơn 2 tháng, quân dân ta đánh
du kích tiêu hao sinh lực địch rất nhiều, làm cho giặc hoang mang, dao động "tiến
thoái lưỡng nan".
Chính trên phòng tuyến sông Cầu này, đêm khuya thanh vắng, Lý Thường Kiệt cho
người nấp trong đền thờ Trương tướng quân, thổi sáo và ngâm bài thơ nổi tiếng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch:
Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Rõ ràng phân định tại sách trời,
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!
Đây chính là "Bản tuyên ngôn độc lập" lần thứ nhất của Tổ quốc ta.
Quân ta nghe đọc mấy câu thơ ấy, ai nấy đều nức lòng đánh giặc, quân Tống bị tổn
thất nặng nề và ở vào thế bị động.
Biết rõ ý chí xâm lược của quân Tống đã bị đè bẹp, Lý Thường Kiệt liền chủ động
đề nghị "giảng hoà" thực chất là mở lối thoát cho quân Tống, đó là chủ trương kết
thúc chiến tranh mềm dẻo của Lý Thường Kiệt. Ngay lập tức, tháng 3 năm 1077, quân
Tống rút lui trong cảnh hỗn loạn. Quách Quỳ sợ quân ta tập kích, nên đã bí mật cho
binh lính rút vào ban đêm. Quân Tống rút đến đâu, Lý Thường Kiệt cho quân theo sát
lấy lại đất đai đến đó.
Sau chiến thắng quân Tống xâm lược, nền độc lập của Tổ quốc ta lại vững bền.
Nhân dân ta vô cùng phấn khởi, được an cư lạc nghiệp, sống trong cảnh thái bình.
Ngày 12 tháng 12 năm Đinh Mùi (1127), Lý Nhân Tông mất, trị vì được 56 năm,
thọ 62 tuổi.
Niên hiệu: - Thiên Thuận (1128-1132)
- Thiên Chương Bảo Tự (1133-1138)
Vua Lý Nhân Tông không có con trai, lập con của em trai là Sung Hiền Hầu Dương
Hoán lên làm Thái tử kế vị hoàng đế là vua Lý Thần Tông.
Lý Thần Tông sinh tháng 6 năm Bính Thân (1116), đến năm Đinh Dậu (1117) được
Lý Nhân Tông nhận làm con nuôi. Lên ngôi vua cuối tháng 12 năm Đinh Mùi (1127).
Vua Lý Thần Tông khuyến khích phát triển nông nghiệp, thực hiện chính sách "ngụ
binh ư nông", cho binh lính đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một được về làm ruộng, do
vậy nhân dân no đủ, an cư lạc nghiệp.
Lý Thần Tông mất ngày 26 tháng 9 năm Mậu Ngọ (1138), trị vì được 10 năm, thọ
23 tuổi.

Lý Thần Tông có hai con trai: Thiên Tộ và Thiên Lộc.
Niên hiệu: - Thiệu Minh (1138-1139)
- Đại Định (1140-1162)
- Chính Long Bảo ứng (1163-1173)
- Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175)
Lý Thiên Tộ là con đích trưởng của Lý Thần Tông, con bà Lê Hoàng hậu, sinh
tháng 4 năm Bính Thìn (1136), lên ngôi Hoàng đế năm 1138, lúc đó mới 3 tuổi, Lê
Thái hậu cầm quyền nhiếp chính, lại tư thông với Đỗ Anh Vũ làm cho triều đình đổ
nát, sau nhờ có các trung thần như Tô Hiến Thành, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín
nên giữ vững được cơ đồ nhà Lý.
Tô Hiến Thành đã giúp vua Lý Anh Tông đánh Đông dẹp Bắc, giữ cho nước yên,
luyện tập quân lính, kén chọn nhân tài giúp nước, làm cho nước Đại Việt trở nên
cường thịnh.
Năm Tân Mão và năm Nhâm Thìn (1171-1172), vua Lý Anh Tông sai làm tập bản
đồ nước Đại Việt.
Lý Anh Tông mất tháng 7 năm Ất Mùi (1175), trị vì được 37 năm, thọ 40 tuổi.
Niên hiệu: - Trinh Phù (1176-1185)
- Thiên Tư Gia Thuỵ (1186-1201)
- Thiên Gia Bảo Hựu (1202-1204)
- Trị Bình Long ứng (1205-1210)
Lý Anh Tông mất, Thái tử Long Cán lúc đó chưa đầy 3 tuổi, bà Chiêu Linh Thái
hậu muốn lập con cả của mình là Long Xưởng lên ngôi vua. Bà đem vàng bạc đút lót
cho vợ Tô Hiến Thành, nhưng Tô Hiến Thành nhất định không nghe cứ theo di chiếu
lập Long Cán lên làm vua, hiệu là Lý Cao Tông.
Lý Cao Tông sinh ngày 25 tháng 5 năm Quý Tỵ (1173), lên ngôi vua tháng 7 năm
Ất Mùi (1175).
Sau lớn lên, Cao Tông chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp
nổi lên như ong, đói kém liên miên, cơ nghiệp nhà Lý từ đó suy đồi.
Năm Mậu Thìn (1208) có loạn Quách Bốc, vua Cao Tông đem gia quyến chạy lên
vùng Tam Nông (Phú Thọ). Thái tử Sảm theo Tô Trung Từ chạy về Hải ấp (làng Lưu

Xá, Hưng Hà, Thái Bình) vào ở nhà ông Trần Lý làm nghề đánh cá. Thấy con gái
Trần Lý là Trần Thị Dung xinh đẹp thì lấy làm vợ rồi phong cho Trần Lý tước Minh
Tự, phong cho Tô Trung Từ, cậu ruột Trần Thị Dung, chức Điện tiền chỉ huy sứ.
Anh em nhà Trần: Trần Thừa, Trần Tự Khánh, Trần Thủ Độ mộ quân giúp Thái tử
Sảm khôi phục Kinh đô Thăng Long rồi lên Tam Nông rước Cao Tông về Kinh đô.
Cao Tông mất ngày 28 tháng 10 năm Canh Ngọ (1210), trị vì được 34 năm thọ 38
tuổi.
Niên hiệu: Kiến Gia (1211-1224)
Thái tử Sảm lên ngôi hoàng đế, hiệu là Huệ Tông, lập Trần Thị Dung làm Nguyên
phi. Phong cho Trần Tự Khánh làm Chương Tín hầu, Tô Trung Từ làm Thái uý,
Thuận Lưu Bá, Trần Thừa làm Nội Thị Phán thủ.
Thái tử Sảm sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194), con cả của Cao Tông và bà Hoàng
hậu họ Đàm.
Lý Huệ Tông lên ngôi vua cuối năm Canh Ngọ (1210).
Năm Quý Mùi (1223), Trần Tự Khánh mất, Trần Thừa được phong làm Phụ quốc
thái uý, Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ.
Vua Huệ Tông thường rượu chè say khướt suốt ngày, bỏ bê triều chính. Huệ Tông
không có con trai. Hoàng hậu Trần Thị Dung chỉ sinh được hai con gái. Con gái lớn là
Thuận Thiên công chúa đã gả cho Phụng Kiền Vương Trần Liễu. Công chúa thứ hai là
Phật Kim (công chúa Chiêu Thánh) mới 7 tuổi được làm Thái tử.
Đến tháng 10 năm Giáp Thân (1224), Lý Huệ Tông truyền ngôi cho công chúa
Chiêu Thánh rồi đi tu ở chùa Chân Giáo.
Lý Huệ Tông trị vì được 13 năm, sau bị Trần Thủ Độ ép tự tử vào tháng 8 năm
Bính Tuất (1226), thọ 33 tuổi.
Niên hiệu: - Thiên Chương Hữu đạo (1224-1225)
Dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, ép Lý Huệ Tông đi tu, nhường ngôi vua cho
con gái là công chúa Chiêu Thánh (lúc đó mới 7 tuổi) là Lý Chiêu Hoàng, binh quyền
về tay Trần Thủ Độ.
Cũng dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, đưa cháu là Trần Cảnh (8 tuổi) là con ông
Trần Thừa vào hầu cận Lý Chiêu Hoàng.

Trần Cảnh được Lý Chiêu Hoàng yêu mến, thường hay té nước, ném khăn trêu đùa.
Trần Thủ Độ tung tin là Lý Chiêu Hoàng đã lấy chồng là Trần Cảnh.
Ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu (1225) có chiếu của Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi
cho chồng là Trần Cảnh.
Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên
An, trước bá quan văn võ, Chiêu Hoàng cởi Hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi
Hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất, dựng lên triều đại Nhà Trần từ
đấy. Phong cho Lý Chiêu Hoàng là Chiêu Thánh Hoàng hậu.
Nhưng sau bất hạnh đã đến với Chiêu Thánh Hoàng hậu, nguyên do lấy Trần Cảnh
đã hơn 10 năm mà vẫn chưa có con, Trần Thủ Độ và vợ là Trần Thị Dung sợ vua Thái
Tông Trần Cảnh tuyệt tự, không người nối dõi ngôi vua, bèn lấy Thuận Thiên công
chúa (chị ruột của Chiêu Thánh), vợ Trần Liễu (anh ruột Trần Cảnh) đang có mang ép
gả cho Trần Cảnh tháng 1 năm Đinh Dậu (1237), lập Thuận Thiên làm Hoàng hậu.
Chiêu Thánh đau khổ, âm thầm trong cung cấm, đã định thoát tục đi tu.
Nhưng may thay, 20 năm sau, hạnh phúc đã đến với Chiêu Thánh. Sau chiến thắng
đế quốc Mông Cổ lần thứ nhất (1258), Vua Trần Thái Tông đã gả Chiêu Thánh công
chúa cho Lê Phụ Trần, một tướng quân có công lớn trong cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mông Cổ. Lúc đó Chiêu Thánh đã 40 tuổi, nhưng đã tìm thấy hạnh phúc thực sự,
bà sinh được hai người con: Lê Tông làm quan dưới triều Trần đến tước Thượng Vị
hầu và Ngọc Khê sau được phong là ứng Thuỵ công chúa.
Chiêu Thánh mất năm 60 tuổi.
Như vậy, Vương triều Lý tồn tại 215 năm, với 9 đời vua trị vì.
Vương triều Lý đã có công làm cho nước Đại Việt trở thành một nước cường thịnh
ở thế kỷ XI-XII, ngoài thì đánh Tống, bình Chiêm, trong thì chỉnh đốn việc võ bị, sửa
sang pháp luật, xây dựng nền độc lập tự chủ. Song vì vua Cao Tông hoang chơi, làm
mất lòng người, cho nên giặc giã nổi lên, loạn thần nhiễu sự. Vua Lý Huệ Tông lại
nhu nhược, bỏ bê chính sự, đem giang sơn phó thác cho người con gái còn thơ dại,
khiến cho họ Trần được dịp mà lấy giang sơn nhà Lý lập ra cơ nghiệp nhà Trần từ đó.
Phần đọc thêm - Danh nhân Thời Lý
Đất nước Việt Nam ta, thời nào cũng sản sinh ra những anh hùng dân tộc và những

danh nhân của đất nước, ở đây chúng tôi chỉ xin giới thiệu một số danh nhân của thời
Lý.
Nguyên phi Ỷ Lan
Tên thật là Lê Thị Yến, quê ở làng Thổ Lỗi (Thuận Thành, Bắc Ninh) nay thuộc
huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Mẹ mất từ lúc 12 tuổi, bố lấy vợ kế nên ỷ Lan cũng khổ như cô Tấm trong chuyện
cổ tích.
Năm ấy, vua Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai nối dõi nên về chùa
Dâu cầu tự. Dân làng đổ ra xem, chỉ riêng cô Yến vẫn chăm chú vừa hái dâu vừa hát,
nhà vua thấy lạ, cho người vời lại hỏi thì thấy đấy là một cô thôn nữ bội phần xinh
đẹp, lại đối đáp lưu loát. Vua cảm mến đưa về triều, phong làm Nguyên phi ỷ Lan.
Nguyên phi ỷ Lan sinh ra Thái tử Càn Đức ngày 25 tháng giêng năm Bính Ngọ
(1066).
Khác với các hậu phi, ỷ Lan không lấy việc chau chuốt nhan sắc làm chính, mà chỉ
miệt mài đọc sách, khổ công học hỏi, nên chỉ trong một thời gian ngắn, triều thần đều
kinh ngạc trước sự hiểu biết uyên thâm về nhiều mặt của ỷ Lan.
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đích thân cầm quân đi đánh giặc Chiêm Thành. ỷ
Lan được trao quyền nhiếp chính, cũng năm đó nước ta không may bị lụt lớn, mùa
màng thất bát, nhiều nơi đói khổ, bà đã cho mở kho thóc dự trữ phát chẩn cho dân,
nhờ có tài trị nước đúng đắn, quyết đoán táo bạo của bà mà loạn lạc đã được dẹp yên,
dân đói đã được cứu sống. Cảm ơn đó, nhân dân ta đã tôn thờ bà ỷ Lan là Quan Âm
nữ.
Vì quân Chiêm Thành thường sang cướp phá vùng biên giới, Lý Thánh Tông phải
đem quân đi đánh Chiêm Thành, đánh mãi không được, nhà Vua bèn rút quân về đến
châu Cư Liên nghe tin Nguyên Phi ở nhà giám quốc, trong nước được yên trị, Thánh
Tông nghĩ rằng: "Nguyên Phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng
được việc gì hay sao"(1). Bèn đem quân trở lại đánh bắt được vua Chiêm Thành là
Chế Củ.
Vua Chiêm Thành là Chế Củ bị bắt xin dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính
để chuộc tội (ba châu ấy nay thuộc Quảng Bình, Quảng Trị), Vua Lý Thánh Tông lấy

ba châu ấy, rồi tha Chế Củ về nước.
Năm 1072, vua Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, ỷ Lan trở thành Hoàng Thái hậu
nhiếp chính vì lúc đó vua Lý Nhân Tông mới 7 tuổi, cùng với Lý Thường Kiệt nắm
quyền Tể tướng, đất nước ta ngày càng cường thịnh.
Năm 1077, nhà Tống phát đại binh sang xâm lược nước ta. Thái hậu ỷ Lan đã cử
Thái uý Lý Thường Kiệt chuyên tâm lo việc binh chống giặc ngoại xâm và cho người
vào Nghệ An đón Lý Đạo Thành về làm Thái sư để cùng bà điều khiển triều đình, huy
động sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống, nhờ
vậy mà chỉ trong vòng mấy tháng quân giặc đã phải rút chạy về nước.
Thái hậu ỷ Lan hiểu rõ nỗi khổ của nông dân. Bà lấy tiền kho chuộc những người
con gái nghèo bị bán rồi dựng vợ gả chồng cho họ.
Bà nhắc nhở nhà vua trị tội thật nặng những kẻ ăn trộm trâu và giết trâu, vì bà cho
rằng "nông dân có con trâu là đầu cơ nghiệp".
Ngày 25 tháng bảy năm Đinh Dậu (1117), Hoàng Thái hậu ỷ Lan qua đời, nhân dân
ta vô cùng thương tiếc, nhiều nơi lập đền thờ.
Thái uý Lý Thường Kiệt
Năm 1019 tại căn nhà của một võ quan ở phường Thái Hoà (mé trên vườn Bách
Thảo) con trai đầu lòng của ông Ngô An Ngữ và bà họ Hàn ra đời đặt tên là Ngô
Tuấn.
Năm Thiên Thành đời Lý Thái Tông, ông An Ngữ được cử đi tuần vùng phía nam
Thanh Hoá, ít lâu sau lâm bệnh qua đời.
Chồng của cô ruột là Tạ Đức đem ông về nuôi dạy văn võ.
Năm 18 tuổi mẹ mất (1036), Ngô Tuấn cùng em lo đủ các lễ mai táng. Hết tang,
ông được bổ chức Kỵ mã hiệu uý. Do tính siêng năng cần mẫn, lại hết lòng trung
thành, càng được vua tin yêu thăng thưởng dần lên đến chức Đô Tri và được đổi sang
họ vua gọi là Lý Thường Kiệt.
Năm 1061, ông được vua cử vào trấn giữ vùng núi Thanh - Nghệ hiểm trở, ông đã
vỗ về nhân dân chăm lo sản xuất, khai khẩn đất hoang làm cho nhân dân no ấm, biên
cương được bảo vệ vững vàng.
Năm 1075, nhà Tống do Vương An Thạch làm tể tướng âm mưu chuẩn bị xâm lược

nước ta.
Thái uý Lý Thường Kiệt tâu với Thái hậu ỷ Lan rằng: "Ngồi yên đợi giặc, không
bằng đưa quân ra trước". Thái hậu đồng ý cho Lý Thường Kiệt và Tông Đản đem
quân sang đánh phá các căn cứ tập kết lương thực, vũ khí của nhà Tống ở Châu
Khâm, Châu Liêm, Châu Ung, (Quảng Đông, Quảng Tây). Sau 42 ngày đêm chiến
đấu một cách thông minh, ngoan cường, quân đội Đại Việt đã san bằng ba căn cứ
quân sự lớn đó rồi chủ động rút quân về nước. Để ngăn chặn quân xâm lược Tống, Lý
Thường Kiệt đã cho xây dựng một phòng tuyến dài khoảng 80km, lấy dòng sông Cầu
làm hào, dùng đê mạn nam ngạn sông Cầu làm thành luỹ.
Đầu năm 1077, Quách Quỳ và Triệu Tiết dẫn 10 vạn bộ binh tinh nhuệ, 1 vạn ngựa
chiến cùng 20 vạn quân phu, ồ ạt tiến vào xâm lược nước ta. Quân xâm lược đã bị
quân dân cả nước ta chặn đánh ngay từ cửa ải Lạng Sơn. Ngày 18 tháng 1 năm 1077
quân Tống tiến đến bờ bắc sông Cầu và bị chặn lại hơn hai tháng, quân dân Đại Việt
dùng chiến tranh du kích tiêu hao sinh lực địch, làm cho quân giặc hoang mang, dao
động "tiến thoái lưỡng nan".
Chính trên phòng tuyến sông Cầu này, đêm khuya thanh vắng, Lý Thường Kiệt cho
người nấp trong đền thờ Trương tướng quân ngâm bài thơ thần bốn câu:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Tạm dịch:
Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Rõ ràng phân định tại sách trời,
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!
Giọng thơ vang như sấm động, nhắc đi nhắc lại nhiều lần, quân ta nghe thơ đều
phấn chấn, còn quân Tống bên kia sông cũng nghe thấy đứa nào, đứa nấy đều sợ hãi
mất mật.
Bài thơ khẳng định quyền độc lập tự chủ thiêng liêng của Tổ quốc, cảnh cáo

nghiêm khắc mọi kẻ thù xâm lược và nói lên quyết tâm sắt đá của dân tộc ta trong
việc bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Bài thơ đã đi
vào lịch sử của dân tộc ta như bản "Tuyên ngôn độc lập" thứ nhất của Tổ quốc ta
(cách nay gần 1000 năm).
Đúng vào lúc giặc Tống đang bị dồn vào tình thế khốn quẫn nhất, Lý Thường Kiệt
hạ lệnh tấn công. Đó là một ngày cuối mùa xuân năm 1077. Trước hết, hai vị hoàng tử
là Hoằng Chân và Chiêu Văn dùng 400 thuyền chiến, bất ngờ đánh mạnh vào khu vực
đóng quân của Quách Quỳ. Hoằng Chân và Chiêu Văn vừa đánh vừa phô trương
thanh thế, cốt thu hút toàn bộ sự chú ý của quân xâm lăng. Một trận ác chiến đã diễn
ra, trong trận ác chiến này, hai vị hoàng tử là Hoằng Chân và Chiêu Văn đều anh dũng
hy sinh. Nhưng đúng lúc Quách Quỳ và Triệu Tiết dồn hết sự chú ý vào cánh quân
của hai hoàng tử thì đại quân do đích thân Lý Thường Kiệt đánh dồn dập vào khu vực
đóng quân của Triệu Tiết như sấm sét nổ trên đầu giặc. Đại bộ phận quân Tống ở đây
đều bị tiêu diệt. Chỉ trong một đêm, tình thế đã xoay chuyển hoàn toàn. Quách Quỳ và
Triệu Tiết vội vã ra lệnh rút quân tháo chạy về nước. Nền độc lập của Tổ quốc ta lại
được vững bền.
Sinh thời, Lý Thường Kiệt không ngừng nêu cao tấm gương sáng ngời về tình thần
đoàn kết vì nghĩa lớn, không ngừng nêu cao phẩm giá trung quân ái quốc khi vận
nước lâm nguy cũng như khi non sông được thái bình.
Lý Thường Kiệt đã góp phần đắc lực cùng vua và triều đình trong sự nghiệp xây
dựng đất nước, đặc biệt là góp phần củng cố sức mạnh của guồng máy nhà nước
đương thời. Trong khoảng thời gian chừng 10 năm sau khi Lý Thánh Tông qua đời
(1069) Lý Nhân Tông còn thơ ấu, Lý Thường Kiệt thực sự là linh hồn của đất nước, là
người chịu trách nhiệm lớn nhất trong sự nghiệp điều khiển vận mệnh của quốc gia
trong giai đoạn khó khăn nhất ở thế kỷ XI.
Ông đã để lại cho đời một số áng văn thơ, trong đó nổi bật nhất là bài tứ tuyệt
không đề, được hậu thế chọn bốn chữ đầu làm đề để dễ truyền tụng, đó là bốn chữ
Nam quốc sơn hà - một trong những áng thiên cổ hùng văn, có giá trị như bản "Tuyên
ngôn độc lập" lần thứ nhất của nước ta.
Tháng 6 năm Ất Dậu (1105) Đôn Quốc Thái uý Lý Thường Kiệt qua đời, thọ 86

tuổi. Điều đáng nói là trước khi qua đời một năm (1104) đã 85 tuổi, Lý Thường Kiệt
vẫn là tướng tổng chỉ huy quân đội, đã đánh và đánh thắng một trận rất lớn ở phía
Nam đất nước.
Nhà vua truy tặng ông chức: Nhập nội điện đô tri hiển hiệu Thái uý bình chương
quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công.
Để tưởng nhớ công lao to lớn của người anh hùng dân tộc, nhiều nơi lập đền thờ
Ngài.
Năm 1126 (tức là 21 năm sau khi Ngài mất) nhà sư Thích Pháp Bảo có soạn bài
Ngưỡng Sơn Linh Xứng tu bi minh, (bài minh, khắc trên bia đá, đặt tại chùa Linh
Xứng, núi Ngưỡng Sơn) trong đó có đoạn:
Việt hữu Lý Công
Cố nhân chuẩn thức
Mục quận lý ninh
Chuẩn sự tất khắc
Danh dương hàm hạ
Thanh chán hà vực
Có nghĩa là:
Nước Việt có người họ Lý
Theo đúng phép của người xưa
Đã cầm quân là tất thắng lợi
Đã trị nước thì dân được yên
Danh lừng thiên hạ
Tiếng vang khắp xa gần.
Đền thờ Lý Thường Kiệt được lập nên ở nhiều nơi trong khắp đất nước ta. Ngày
nay Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đều chọn đường phố lớn đặt tên "Đại lộ Lý
Thường Kiệt" để tưởng nhớ công lao to lớn của ngài.
Lê Phụng Hiểu
Lê Phụng Hiểu ở Băng Sơn, gọi là thôn Bưng (Hoằng Hoá, Thanh Hoá). Ông say
mê đánh vật, đấu quyền, quăng đao, múa kiếm.
Lý Thái Tổ tuyển người giỏi võ vào đội quân Thượng Đô, ông lên Kinh dự thi, và

được tuyển dụng. Chỉ ít lâu sau ông được thăng đến chức Vũ vệ tướng quân.
Năm 1028, Lý Thái Tổ mất, Thái tử Phật Mã lên ngôi tức là Lý Thái Tông. Ba
Hoàng tử là Đông Chính Vương, Dực Thánh Vương, Võ Đức Vương vây kinh thành
để cướp ngôi (gọi là loạn tam vương). Lê Phụng Hiểu chỉ huy quân cấm vệ, đánh tan
bọn vương tử làm loạn.
Ngôi vua được bảo vệ, Lý Thái Tông phong ông là Đô Thống. Năm 1043, quân
Chiêm Thành sang xâm lược nước ta, Lê Phụng Hiểu hộ giá Lý Thái Tông đi đánh
giặc, năm 1044 chiến thắng trở về. Vua xét ban thưởng quan tước, ông không nghe,
xin trèo lên núi Băng Sơn ném con đao lớn ra xa. Đao rơi xuống nơi nào thì xin ban
cho vùng đó để dựng nghiệp. Vua ưng thuận. Ông đứng trên núi Băng Sơn vung tay
ném đao xuống núi. Đao rơi xuống thôn Đa Mi, tính đến hơn một nghìn mẫu đất, gọi
là "Thác đao điền".
Tô Hiến Thành
Tô Hiến Thành, hiệu Phi Diên, người làng Hạ Mỗ, huyện Ô Diên nay là thôn Hạ
Mỗ, xã Hồng Thái, Đan Phượng, Hà Nội.
Là người khảng khái, làm quan đến Thái phó rồi Thái uý đời vua Lý Anh Tông,
ông là người trung thực và liêm khiết.
Ông đã có nhiều công to: Năm Kỷ Mão (1159), ông đã đánh tan giặc Ngưu Thống
và Ai Lao vào cướp phá biên giới phía tây nam và ven biển, năm Đinh Hợi (1157)
đánh Chiêm Thành thắng lợi.
Khi ông lâm bệnh sắp mất có tham tri chính sự Võ Tán Dương sớm tối lo hầu hạ,
còn quan Gián nghị đại phu là Trần Trung Tá vì bận việc nước không hề đến thăm,
nhưng khi Thái hậu hỏi: "Ông mất thì ai sẽ nối nghiệp ông?" Ông trả lời không do dự
"Gián nghị đại phu Trần Trung Tá ".
Tháng 6 năm Kỷ Hợi (1179), Tô Hiến Thành qua đời.
XIV. Nhà Trần (1225-1400)
175 năm, Quốc hiệu Đại Việt, Kinh đô Thăng Long
Niên hiệu: - Kiến Trung (1225-1241)
- Thiên ứng Chính Bình (1232-1250)
- Nguyên Phong (1251-1258)

Tên huý Trần Bồ, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218), con thứ của ông
Trần Thừa và bà họ Lê. Tổ tiên nhà Trần là Trần Kinh vốn gốc ở Đông Triều (Quảng
Ninh) chuyên nghề đánh cá, đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay là xã Tức
Mặc, Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định), sinh ra Trần Hấp. Trần Hấp sinh ra Trần Lý. Trần Lý
sinh ra Trần Thừa, Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ là cháu họ, được
Trần Lý nuôi nấng từ nhỏ coi như con. Trần Thừa sinh ra Trần Liễu và Trần Cảnh là
con trai, sau có mối tình với cô thôn nữ ở thôn Bà Liệt tên là Tần, sinh ra Trần Bá
Liệt. Dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, lúc đó là Điện Tiền chỉ huy sứ, ngày 21
tháng 10 năm Ất Dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là
Trần Cảnh.
Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu (1225), Trần Cảnh chính thức lên ngôi Hoàng Đế,
đổi niên hiệu là Kiến Trung.
Phong Lý Chiêu Hoàng làm Chiêu Thánh Hoàng hậu.
Phong Trần Thủ Độ là Thái sư Thống quốc hành quân vụ chinh thảo sự.
Mùa hạ, tháng 6 năm Nhâm Thìn (1232), vua Trần Thái Tông ban bố các chữ quốc
huý và miếu huý.
Vì Tổ nhà Trần là Trần Lý, mới đổi họ Lý sang họ Nguyễn.
Một số hoàng thân nhà Lý sợ hãi, tìm cách di cư ra nước ngoài như hoàng tử Lý
Long Tường đã di cư sang Cao Ly (sau trở thành anh hùng chống Nguyên - Mông của
Cao Ly).
Năm Đinh Dậu (1237), Trần Thái Tông lấy Chiêu Thánh Hoàng hậu đã 12 năm mà
chưa có con. Trần Thủ Độ và vợ là công chúa Thiên Cực ép vua Trần Thái Tông bỏ
Chiêu Thánh để lấy chị dâu (vợ Trần Liễu) là công chúa Thuận Thiên đã có mang ba
tháng làm Hoàng hậu. Trần Liễu tức giận đem quân ra sông Cái làm loạn. Còn vua
Trần Thái Tông đang đêm bỏ trốn lên chùa Phù Vân, núi Yên Tử (Quảng Ninh) để
phản đối.
Trần Thủ Độ dẫn các triều thần lên núi mời vua trở về kinh sư. Vua nói: "Vì trẫm
non trẻ chưa cáng đáng nổi sứ mệnh nặng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm mất chỗ
trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xã tắc".
Trần Thủ Độ cố nài xin nhiều lần, vua vẫn không nghe, mới bảo mọi người rằng:

"Xa giá ở đâu là triều đình ở đó" rồi sai người xây dựng cung điện ở ngay tại chùa
Phù Vân. Vị quốc sư ở chùa phải vào van lạy nhà Vua. Nhà Vua bất đắc dĩ phải theo
xa giá về Kinh đô.
Trần Liễu làm loạn ở sông Cái được vài tuần, lượng thấy thế cô, bèn ngầm đi
thuyền đến chỗ Vua xin hàng, anh em nhìn nhau mà khóc.
Trần Thủ Độ nghe tin, đến thẳng thuyền Vua, rút gươm định giết Trần Liễu. Nhà
Vua phải lấy thân mình che đỡ cho anh. Trần Thủ Độ tức lắm ném gươm xuống sông
nói: "Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào?".
Vua nói giải hoà, rồi bảo Thủ Độ rút quân về.

×