LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã cung cấp cho em những kiến thức vô
cùng quý báu trong suốt quá trình học tập tại Khoa Tài chính – Ngân hàng trường Đại
học Đại Nam.
Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, các cô chú, anh chị công tác tại chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hoàng Mai, Hà Nội đã tạo
điều kiện thuận lợi, hướng dẫn em trong quá trình thực tập và hoàn thành khóa luận.
Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo nhiệt tình của Th.S
Nguyễn Thị Hương Lan đã giúp em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè, những người đó
luôn ở bên và quan tâm, động viên em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa
luận này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên
Dương Trà Linh
i
KÝ HIỆU CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
RRTD
NHTM
NH
DN
NHNN
NHNo&PTNT
HĐ
TCTD
TCKT
TCXH
TGDC
TGTCKT
DNNH
DNTDH
NQH
Rủi ro tín dụng
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng
Doanh nghiệp
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn
Huy động
Tổ chức tín dụng
Tổ chức kinh tế
Tổ chức xã hội
Tiền gửi dân cư
Tiền gửi tổ chức kinh tế
Dư nợ ngắn hạn
Dư nợ trung dài hạn
Nợ quá hạn
ii
MỤC LỤC
iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
iv
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tín dụng là hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại và tạo ra lợi nhuận chủ
yếu cho các ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng luôn là hoạt động chứa đựng rủi
ro cao, gây hậu quả nặng nề không chỉ đối với ngân hàng, hệ thống ngân hàng mà còn
đối với cả nền kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều phức tạp và
biến động bất thường, hoạt động tín dụng ngày càng ẩn chứa nhiều rủi ro.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam là một trong những
ngân hàng thương mại lớn nhất tại Việt Nam và có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động
tín dụng. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng, sự biến động của
nền kinh tế đặt ra nhiệm vụ cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam cũng như Chi nhánh Hoàng Mai phải nâng cao các giải pháp phòng ngừa để hạn
chế rủi ro, tăng lợi nhuận, đem lại sự an toàn cho hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt
động kinh doanh nói chung.
Nhận thấy sự cấp thiết của đề tài, sau một thời gian thực tập và tìm hiểu thực tế
tại chi nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Hoàng Mai, em đã
chọn đề tài “Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trong tại Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Hoàng Mai” với mục tiêu tìm ra tồn tại, nguyên
nhân và đề xuất một số biện pháp khắc phục nhằm tăng cường hiệu quả công tác hạn
chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về RRTD trong hoạt động kinh doanh
NHTM
- Phân tích đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Chi nhánh Hoàng Mai.
- Đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả trong công tác hạn
chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi
nhánh Hoàng Mai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Hoàng Mai.
1
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu những vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng
và rủi ro tín dụng trong 3 năm từ năm 2009 đến năm 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, suy
luận logic, thống kê, so sánh…
5. Kết cấu khóa luận.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, khóa luận tốt nghiệp được kết cấu gồm 3 chương
như sau :
Chương 1 : Lý luận chung về tín dụng Ngân hàng và RRTD trong hoạt động
NHTM
Chương 2 : Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Chi nhánh Hoàng Mai
Chương 3 : Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế RRTD tại Chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hoàng Mai
2
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
VÀ
RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG NHTM
1.1 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của tín dụng
1.1.1.1 Khái niệm
Tín dụng là từ ngữ ám chỉ sự tin tưởng, trong thực tế thuật ngữ này được
sử dụng trong nhiều ngữ cảnh khác nhau. Tùy theo góc độ nhìn nhận khác nhau
mà “tín dụng” sẽ mang các đặc tính khác nhau. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên
cứu dưới đây, “tín dụng” sẽ được hiểu như là một giao dịch về tài sản giữa bên
cho vay (Ngân hàng) với bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản
cho bên đi vay sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định có thỏa thuận
trước. Khi đến hạn thanh toán, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện
vốn gốc và lãi cho bên cho vay.
1.1.1.2 Đặc điểm tín dụng ngân hàng
a. Đặc trưng cơ bản
Trên thực tế, “tín dụng” mang 5 đặc trưng cơ bản nhất:
Thứ nhất: Tín dụng dựa trên cơ sở lòng tin. Ngân hàng chỉ cấp tín dụng cho
khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, hiệu quả và có khả năng hoàn trả
nợ vay (gốc, lãi) đúng hạn.
Thứ hai: Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị (tiền tệ hoặc hiện vật)
có thời hạn. Ngân hàng là trung gian tài chính "đi vay để cho vay", nên mọi khoản
tín dụng của ngân hàng đều phải có thời hạn, bảo đảm cho ngân hàng hoàn trả
vốn huy động.
Thứ ba: Tính hoàn trả. Nếu không có sự hoàn trả thì không coi là tín
dụng. Giá trị hoàn trả phải lớn hơn giá trị ban đầu, nghĩa là ngoài việc hoàn trả
giá trị gốc, khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản lãi, đây chính là giá
3
của quyền sử dụng vốn vay. Khoản lãi này bù đắp chi phí hoạt động và tạo lợi
nhuận cho ngân hàng, phản ánh bản chất hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thứ tư: Tín dụng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao cho ngân hàng. Việc thu
hồi tín dụng phụ thuộc không những vào bản thân khách hàng, mà còn phụ
thuộc vào môi trường hoạt động ngoài tầm kiểm soát của khách hàng như sự
biến động về giá cả, lãi suất, tỷ giá, lạm phát, thiên tai… khi khách hàng gặp
khó khăn do môi trường kinh doanh thay đổi, dẫn đến khó khăn trong việc trả
nợ, điều này khiến cho ngân hàng gặp rủi ro tín dụng.
Thứ năm: Tín dụng trên nguyên tắc hoàn trả vô điều kiện. Quá trình xin
vay và cho vay diễn ra trên cơ sở những căn cứ pháp lý chặt chẽ như hợp đồng
tín dụng, khế ước vay tiền, hợp đồng bảo đảm tiền vay, bảo lãnh … trong khi đó
bên đi vay phải cam kết hoàn trả vô điều kiện khoản vay cho ngân hàng khi đến
hạn.
b. Nguyên tắc cơ bản
Thứ nhất: vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
Thứ hai: vốn vay phải được hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn đã cam kết
trong hợp đồng.
1.1.2 Phân loại tín dụng
1.1.2.1 Căn cứ vào thời hạn tín dụng
Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn đến một năm và được sử dụng
để bù đắp sự thiếu hụt tạm thời của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn cá nhân.
Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ một đến năm năm và sử
dụng chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới
trang thiết bị, mở rộng sản xuất và xây dựng công trình vừa và nhỏ có thời
hạn thu hồi vốn nhanh. Tín dụng trung hạn còn là nguồn quan trọng hình
thành nên vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là
những doanh nghiệp mới thành lập.
Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, đáp ứng nhu cầu
đầu tư dài hạn như xây dựng cơ bản (nhà xưởng, dây chuyền sản xuất…),
xây dựng cơ sở hạ tầng (đường xá, cảng biển, sân bay…), cải tiến mở
4
rộng sản xuất có quy mô lớn. Do thời hạn đầu tư thường kéo dài nên tín
dụng dài hạn thường áp dụng các hình thức giải ngân nhiều lần theo tiến
độ dự án. Nhìn chung tín dụng dài hạn thì thường biến động không dự
tính có thể xảy ra càng lớn.
1.1.2.2 Căn cứ vào bảo đảm tín dụng
Tín dụng có bảo đảm: là tín dụng có tài sản cầm cố thế chấp hoặc có bảo lãnh
của người thứ ba. Đối với những khách hàng không đủ uy tín đối với ngân
hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý
để ngân hàng có thêm nguồn thu dự phòng khi nguồn thu thứ nhất thiếu chắc
chắn, tạo áp lực buộc khách hàng trả nợ, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Tín dụng không có bảo đảm: là tín dụng không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
không có sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng. Đó là những khách hàng trung thực trong kinh doanh, khả
năng tài chính mạnh …
1.1.2.3 Căn cứ vào mục đích tín dụng
Tín dụng bất động sản: là tín dụng liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất
động sản như nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
Tín dụng công nghiệp và thương mại: là loại tín dụng ngắn hạn để bổ sung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp để trang trải các chi phí như mua nguyên vật
liệu, trả thuế và chi trả lương.
Tín dụng nông nghiệp: là khoản tín dụng cấp cho các hoạt động nông nghiệp
nhằm trang trải các chi phí trong các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi…
Tín dụng các định chế tài chính: cấp tín dụng cho các ngân hàng, các công ty
tài chính, công ty bảo hiểm…
Tín dụng tiêu dùng: là khoản tín dụng cấp cho các cá nhân, hộ gia đình nhằm
phục vụ nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng đắt tiền, các khoản để trang trải
chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
1.1.2.4 Căn cứ vào chủ thể vay vốn
Tín dụng doanh nghiệp: các doanh nghiệp thường vay những khoản vay có giá
trị lớn
5
Tín dụng cá nhân và hộ gia đình: thường là các khoản vay có giá trị nhỏ phục
vụ mục đích tiêu dùng.
Tín dụng cho các tổ chức tài chính : là các khoản tín dụng cấp cho các ngân
hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, và các tổ chức tài chính khác, những
khoản đi vay này trở thành nguồn vốn của ngân hàng đi vay, chúng có thể dùng
để trả nợ hay cho vay lại.
1.1.2.5 Căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ vay
Tín dụng trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi
vay định kỳ thành những khoản bằng nhau. Loại tín dụng này áp dụng cho
những khoản vay lớn và có thời hạn dài.
Tín dụng hoàn trả một lần: là loại tín dụng mà khách hàng chỉ hoàn trả vốn gốc
và lãi vay một lần đến hạn. Loại tín dụng này áp dụng cho những khoản vay
nhỏ có thời hạn ngắn.
Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: loại tín dụng khách hàng có thể hoàn trả nợ vay
bất cứ khi nào. Loại tín dụng này thường được áp dụng cho những khoản vay
thấu chi, thẻ tín dụng.
1.1.2.6 Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
Tín dụng bằng tiền: là tín dụng có hình thái giá trị bằng tiền
Tín dụng bằng tài sản (cho thuê tài chính): là tín dụng mà hình thái giá trị của
nó bằng tài sản
Tín dụng bằng uy tín (bảo lãnh ngân hàng): là tín dụng mà hình thái của
nó bằng uy tín.
1.1.2.7 Căn cứ vào xuất xứ của tín dụng
Tín dụng trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho khách hàng có nhu cầu vay
vốn, đồng thời khách hàng hoàn trả nợ vay trực tiếp cho ngân hàng
Tín dụng gián tiếp: là khoản vay được thực hiện thông qua việc mua lại các
khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
1.1.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng
a. Đối với nền kinh tế
- Vai trò kinh tế cơ bản của tín dụng ngân hàng là luân chuyển vốn từ những chủ
thể trong xã hội (cá nhân, hộ gia đình, công ty và chính phủ) có nguồn vốn thặng
6
dư đến những chủ thể thiếu hụt nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu
dùng. Giúp phân bổ hiệu quả các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế, thúc đẩy
sự tăng trưởng kinh tế một cách hiệu quả.
- Thông qua việc đầu tư vốn tín dụng vào các ngành nghề, khu vực kinh tế trọng
điểm sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề đó, hình thành nên cơ cấu
hiện đại, hợp lý và hiệu quả.
- Góp phần lưu thông tiền tệ, hàng hóa, điều tiết thị trường, kiểm soát giá trị đồng
tiền và thúc đẩy mở rộng giao lưu kinh tế giữa các nước.
- Mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước thông qua thuế thu nhập và lãi
từ ủy thác đầu tư vốn của chính phủ.
- Là kênh truyền tải vốn tài trợ của nhà nước đến nông nghiệp nông thôn, góp
phần xóa đói giảm nghèo, ổn định chính trị xã hội.
b. Đối với khách hàng
- Đáp ứng kịp thời nhu cầu về số lượng và chất lượng vốn cho khách hàng. Với
các ưu điểm như an toàn, thuận tiện, nhanh chóng, dễ tiếp cận và có khả năng
đáp ứng được nhu cầu vốn lớn, tín dụng ngân hàng thỏa mãn được nhu cầu đa
dạng của khách hàng.
- Giúp nhà đầu tư nắm bắt được những cơ hội kinh doanh, doanh nghiệp có vốn
để mở rộng sản xuất kinh doanh, các cá nhân có đủ khả năng tài chính để trang
trải cho các khoản tiền chi tiêu, nâng cao chất lượng cuộc sống.
- Buộc khách hàng nỗ lực tận dụng hết khả năng của mình để sử dụng vốn vay
hiệu quả, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp
và đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng.
c. Đối với ngân hàng
- Tín dụng là hoạt động truyền thống, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản
có và mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng ( từ 70 đến 90% ).
- Thông qua hoạt động tín dụng mà ngân hàng đa dạng hóa danh mục tài sản có,
giảm thiểu rủi ro.
- Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng mở rộng được các loại hình dịch vụ
khác như thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, tư vấn…
1.2 RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NHTM
1.2.1 Khái niệm và phân loại RRTD
7
1.2.1.1 Khái niệm
Rủi ro tín dụng là một trong những loại rủi ro phổ biến nhất trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Hoạt động tín dụng ngày nay tạo ra phần lớn nguồn thu cho
ngân hàng song cũng ẩn chứa rủi ro cao và có thể đem lại hậu quả nặng nề, có khi dẫn
đến việc ngân hàng bị phá sản.
Theo quyết định 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN Việt và
quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN: “Rủi ro tín dụng(RRTD) là khả năng xảy ra tổn
thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện
hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.”
Như vậy RRTD là kết quả của việc NH cấp tín dụng cho khách hàng và ngân
hàng nhận được sự cam kết của con nợ sẽ thanh toán cả gốc lẫn lãi đầy đủ khi đến hạn.
Tuy nhiên vì một lý do nào đó mà con nợ lại không muốn trả nợ hoặc không có khả
năng trả nợ theo đúng cam kết, khi ấy tổn thất tiềm tàng mà ngân hàng phải gánh chịu
chính là RRTD.
RRTD không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn ở nhiều hoạt động mang
tính chất tín dụng khác như: bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay
trên thị trường liên ngân hàng, những chứng khoán có giá (trái phiếu, cổ phiếu…), trái
quyền, Swaps, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ…
Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên thị trường đều
phải vay ngân hàng, các Ngân hàng cấp tín dụng cho nhiều giai đoạn của quá trình sản
xuất và lưu thông hàng hóa; cấp tín dụng cho nhiều doanh nghiệp ở mọi lĩnh vực của
nền kinh tế. Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực đều có tính đặc thù, sự phức tạp và rủi ro riêng,
do đó Ngân hàng phải tìm hiểu cặn kẽ để có cách thức phù hợp phòng tránh những rủi
ro có thể xảy ra.
1.2.1.2 Phân loại RRTD
a. Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng bao gồm rủi ro
danh mục (Portfolio risk) và rủi ro giao dịch (Transaction risk).
Rủi ro danh mục : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân
phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân
hàng, được phân chia thành 2 loại : rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
- Rủi ro nội tại : xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính
riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế.
8
Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của
khách hàng vay vốn.
- Rủi ro tập trung : là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều
đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động
trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý
nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
Rủi ro giao dịch : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát
sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay,
đánh giá khách hàng.
- Rủi ro lựa chọn : là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích
tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả
để ra quyết định cho vay.
- Rủi ro bảo đảm : phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong
hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, cách thức đảm
bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.
- Rủi ro nghiệp vụ : là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt
động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử
lý các khoản cho vay có vấn đề.
b. Căn cứ vào khả năng trả nợ cho ngân hàng trên cả hai khía cạnh: thời
gian và số lượng, rủi ro tín dụng gồm hai loại: rủi ro đọng vốn và rủi ro mất
vốn:
Rủi ro đọng vốn : xảy ra khi khách hàng không thể trả nợ đúng hạn đã thỏa
thuận với ngân hàng hay nói cách khác khách hàng đã trì hoãn trả nợ.
Điều này ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng, gây cản
trở và khó khăn cho việc chi trả người gửi tiền, tăng chi phí cho ngân
hàng (chi phí cơ hội, chi phí xử lý nợ quá hạn và nợ khó đòi, chi phí giám
sát và chi phí pháp lý).
Rủi ro mất vốn : xảy ra khi khách hàng không trả được một phần hoặc toàn
bộ nợ vay, làm cho dòng tiền của ngân hàng giảm sút đồng thời doanh thu
bị chậm lại hoặc mất đi.
9
1.2.2 Các dấu hiệu nhận biết RRTD
1.2.2.1 Các dấu hiệu tài chính
Các dấu hiệu tài chính là các biểu hiện thông qua các chỉ tiêu định lượng. Nó
bao gồm: các chỉ số thanh khoản như hệ số thanh toán nhanh , hệ số thanh toán tức
thời…, cơ cấu vốn được biểu hiện bằng hệ số nợ , các vòng quay hoạt động như vòng
quay hàng tồn kho, vòng quay các khoản phải thu , các chỉ số khả năng sinh lời ROA
(tỷ lệ lợi nhuận/ tổng Tài sản), ROE(tỷ lệ lợi nhuận/vốn chủ sở hữu), EBIT(lợi nhuận
sau thuế và lãi vay)…. Các chỉ số trên cho phép ta đánh giá được thực trạng tình hình
sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính cũng như khả năng trả nợ của DN , phát hiện
ra những dấu hiệu của RRTD.
1.2.2.2 Các dấu hiệu phi tài chính
a. Nhóm 1: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng:
Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản của
khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu quan
trọng gồm:
- Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối; khó khăn trong thanh toán lương;
Sự dao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư tài khoản tiền gửi;
Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản; Thường xuyên yêu cầu hỗ
trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác nhau
Các hoạt động cho vay: Mức độ vay thường xuyên gia tăng; Thanh toán
chậm các khoản nợ gốc và lãi; Thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo
hạn; Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến
Phương thức tài chính: Sử dụng nhiều các khoản tài trợ ngắn hạn cho các
hoạt động phát triển dài hạn; Chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt
nhất; Giảm các khoản phải trả và tăng các khoản phải thu
b. Nhóm 2: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới phương pháp quản lý của khách hàng
Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc ban điều hành
Xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống điều hành; Điều hành độc đoán hoặc quá
phân tán; Tranh chấp trong quá trình quản lý.
Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện: được hoạch định bởi Hội
đồng quản trị hoặc Giám đốc điều hành ít hay không có kinh nghiệm, thiếu
quan tâm đến lợi ích của cổ đông và chủ nợ
10
Chi phí quản lý bất hợp lý: tập trung quá mức vào chi phí thiết bị văn phòng
hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền…
Quản lý có tính gia đình: cho các thành viên của gia đình nắm giữ các vị
trí then chốt trong khi những người này chưa được đào tạo đầy đủ và chưa
đủ kinh nghiệm để đảm đương các vị trí quan trọng đó
c. Nhóm 3: Nhóm các dấu hiệu về vấn đề kỹ thuật và thương mại
Khó khăn trong phát triển sản phẩm, không có các sản phẩm thay thế thu
hút khách hàng, mất thị phần trên thị trường, mất các khách hàng lớn, giá
trị đơn đặt hàng giảm sút gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Trang thiết bị không được duy trì bảo hành và nâng cấp thường xuyên,
chất lượng sản phẩm giảm sút, có biểu hiện cắt giảm chi phí
d. Nhóm 4: Nhóm các dấu hiệu xử lý thông tin tài chính
Các số liệu về tài chính chuẩn bị không đầy đủ, chậm chễ hoặc trì hoãn
Sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên
Kế hoạch sử dụng vốn và trả nợ không rõ ràng.
e. Nhóm 5: Nhóm các dấu hiệu khác
Cơ chế chính sách (chính sách thuế, điều kiện thành lập và hoạt động) thay
đổi ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh của khách hàng vay
vốn.
Giá cả thị trường thay đổi ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả đầu ra, đầu vào
của sản phẩm mà khoản vốn đó đầu tư.
1.2.3 Đo lường RRTD
1.2.3.1 Đo lường RRTD của từng khoản vay
a. Mô hình 6C
Mô hình 6C có thể sử dụng để đánh giá khách hàng trong giai đoạn thẩm định
và ra quyết định cho vay 1 khoản vay riêng lẻ, và cũng có thể được sử dụng trong quá
trình giám sát sau khi cho vay để theo dõi chất lượng khoản vay đã được thực hiện.
Khi sử dụng mô hình này, ngân hàng định kỳ cần phải phân tích lại mô hình cho các
khoản vay được xem là có vấn đề
11
Mô hình 6C cho phép ngân hàng trả lời câu hỏi người xin vay có tín nhiệm
không, tức là nguời vay có thiện chí trả nợ khi khoản vay đến hạn hay không. Các khía
cạnh cần xem xét trong mô hình 6C gồm:
(1) Tư cách người vay (Character): Cán bộ tín dụng phải có cơ sở rõ ràng về
mục đích sử dụng vốn vay của người đi vay rằng người xin vay có mục đích tín dụng
rõ ràng và có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ khi đến hạn.
(2) Năng lực của người vay(Capacity): Ngân hàng phải chắc chắn rằng người
vay có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý để ký kết hợp đồng tín dụng. Tiêu chí
này nhằm đảm bảo quyền lợi của ngân hàng, đảm bảo được bảo vệ trước pháp luật.
(3) Thu nhập của nguời vay (Cash): Tiêu chí này tập trung vào câu hỏi: Nguời
vay có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ không? Khả năng tạo tiền của khách hàng
gồm: (i) luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay từ thu nhập, (ii) bán thanh lý tài sản,
(iii) tiền từ phát hành chứng khoán hay chứng khoán vốn
(4) Đảm bảo tiền vay (Collateral): Khi đánh giá khía cạnh đảm bảo tiền vay cán
bộ tín dụng phải đặc biệt chú ý đến các yếu tố nhạy cảm như: tuổi thọ, điều kiện, mức
độ chuyên dụng của tài sản người vay…
(5) Các điều kiện (Conditions): Cán bộ tín dụng phải đánh giá được xu hướng
hiện hành của công việc kinh doanh và ngành nghề của người vay nói riêng cũng như
thay đổi của môi trường kinh tế nói chung nhằm đánh giá được những ảnh hưởng tới
khoản tín dụng
(6) Kiểm soát (Control): Ngân hàng cần tập trung vào những vấn đề như: Các
thay đổi trong luật pháp và quy chế có ảnh hưởng đến người vay hay không? Yêu cầu
tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng và của nhà quản lý
chất lượng tín dụng hay không?
b. Mô hình điểm số Z
Mô hình điểm số Z được sử dụng để đánh giá mức độ rủi ro của khoản vay sau
khi đã cho vay và so sánh với điểm số trước khi cho vay xem điểm số Z của khách
hàng vay vốn thay đổi thế nào từ đó đánh giá sự thay đổi chất lượng khoản vay.
Mô hình điểm số Z do E.I.Altman dùng cho điểm tín dụng đối với các doanh
nghiệp vay vốn. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng với
người vay và phụ thuộc vào:
- Trị số của các chỉ số tài chính của nguời vay (X
j
)
12
- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người vay trong quá khứ
Altman xây dựng mô hình điểm số sau:
Z = 1,2X
1
+ 1,4 X
2
+ 3,3 X
3
+ 0,6 X
4
+ 1,0 X
5
Trong đó :
X
1
: Hệ số vốn lưu động / tổng tài sản
X
2
: Hệ số lãi chưa phân phối / tổng tài sản
X
3
: Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản
X
4
: Hệ số giá thị trường của tổng vốn sở hữu / giá trị hạch toán của tổng nợ
X
5
: Hệ số doanh thu / tổng tài sản
Trị số Z càng cao thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Khi trị số Z thấp
hoặc âm thì là căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
1.2.3.2 Các chỉ tiêu đo lường RRTD
Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN và quyết định số 18/2007/QĐ-
NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng, các chỉ tiêu đo lường
RRTD gồm:
a. Nợ quá hạn và tỉ lệ nợ quá hạn.
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và lãi đã quá hạn.
Ngân hàng nào có tỉ lệ nợ quá hạn cao thì rủi ro lớn hơn vì với những khoản nợ
quá hạn không thu hồi được sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình khai thác và sử
dụng vốn của ngân hàng, phá vỡ kế hoạch kinh doanh và đặc biệt nó ảnh hưởng
đến khả năng thanh toán của tổ chức tín dụng.
Nợ quá hạn làm tăng chi phí của ngân hàng.Với một khoản tín dụng đang gặp
rủi ro, ngân hàng phải tốn các chi phí giám sát, xử lý tài sản đảm bảo, chi phí
pháp lí.Trong khi đó, các khoản nợ này không mang lại cho ngân hàng nguồn
thu để trả lãi cho vốn vay, vốn huy động từ khách hàng.
Nợ quá hạn còn làm chậm quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của các tổ
chức tín dụng, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận, giảm hiệu quả kinh
doanh. Đồng thời hạn chế khả năng mở rộng và tăng trưởng tín dụng, giảm uy
tín, khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
13
Tổng nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100
(%) Tổng dư nợ
Tỉ lệ nợ quá hạn càng cao thì rủi ro càng cao
b. Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu
Ở Việt Nam, theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN và quyết định số
18/2007/QĐ-NHNN, nợ xấu là các khoản nợ thuộc về nhóm 3,4 và 5 được quy định
tại điều 6 bao gồm:
Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn)
- Các khoản nợ quá hạn từ 91-180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều
chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2;
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi
đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ)
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;
- Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90
ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4;
Nhóm 5 (Nợ có khả năng bị mất vốn)
- Nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn 90 ngày trở lên theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn
hoặc đã quá hạn;
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5.
14
Tỷ lệ nợ xấu cũng là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức
tín dụng. Nếu tỉ lệ này càng cao thì rủi ro tín dụng càng cao vì đây là những
khách hàng có dấu hiệu khó khăn về tài chính nên gặp khó khăn trong việc trả
nợ cho ngân hàng:
Nợ xấu
Tỉ lệ nợ xấu= x 100
(%) Tổng dư nợ
Nguyên nhân của các khoản nợ xấu là các khách hàng chỉ muốn vay, không nỗ
lực để trả nợ. Điều này sẽ gây cho ngân hàng những khó khăn trong việc bảo toàn
và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Nếu nợ xấu không được giải quyết kịp thời
thì đến một thời điểm nào đó khả năng trích lập dự phòng rủi ro sẽ không đủ để
bù đắp tổn thất đó và việc nâng cao tiềm lực tài chính đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn
sẽ là vấn đề khó khăn cho ngân hàng. Như vậy, các ngân hàng phải thường
xuyên đánh giá và kiểm tra phát hiện nợ xấu để có cơ sở trích lập dự phòng và
đưa ra biện pháp bảo toàn vốn.
c. Tỉ lệ nợ có khả năng mất vốn
Dư nợ có khả năng mất vốn
Tỉ lệ nợ có khả năng mất vốn = x 100
(%) Tổng dư nợ
Dư nợ có khả năng mất vốn là các khoản nợ thuộc nhóm 5 như đã trình bày ở nội
dung trên. Tỷ lệ mất vốn càng cao thì thiệt hại cho ngân hàng càng lớn vì nó
phản ánh những khoản tín dụng mà ngân hàng bị mất và phải dùng quỹ dự
phòng để bù đắp.
d. Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Dự phòng RRTD
Tỉ lệ trích lập dự phòng RRTD= x
100
(%) Tổng dư nợ kì báo cáo dự phòng RRTD
Tại Việt Nam, việc trích lập dự phòng RRTD của các ngân hàng đều theo
quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN. Trong
15
đó tùy vào việc phân loại nợ vào nhóm nào mà có tỷ lệ trích lập tương ứng theo
nguyên tắc: thời gian quá hạn càng cao thì tỉ lệ trích lập càng lớn. Cụ thể: nhóm
1 là 0%, nhóm 2 là 5%, nhóm 3 là 20%, nhóm 4 là 50%, nhóm 5 là 100%. Tỷ lệ
trích lập dự phòng rủi ro tín dụng càng lớn thì rủi ro tín dụng càng lớn.
e. Mức độ tập trung tín dụng
Mức độ tập trung tín dụng là tỷ trọng vốn đầu tư tín dụng phân theo đối tượng
khách hàng, từng nhóm khách hàng, từng ngành, từng thời hạn, từng loại tiền và
từng khu vực địa lý. Mức độ tập trung tín dụng có thể đối với chỉ tiêu là bao
nhiêu tuỳ thuộc vào chính sách tín dụng, vào chiến lược và mục tiêu của từng
ngân hàng trong từng thời kỳ.
Mức độ tập trung tín dụng theo ngành nghề kinh doanh :
Mức độ tập trung tín dụng theo ngành nghề kinh doanh là mức độ dồn vốn tín
dụng theo danh mục ngành nghề kinh tế như: ngành điện, ngành xi măng, xây lắp …
Mức độ này còn tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố như chính sách tín dụng , mục tiêu của
ngân hàng trong từng thời kỳ và trạng thái nền kinh tế và định hướng chung của Nhà
nước mà mỗi ngành kinh tế có những xu hướng phát triển khác nhau, mở rộng hay thu
hẹp.
Mức độ tập trung tín dụng theo thời hạn :
Mức độ tập trung tín dụng theo thời hạn là tỷ trọng dồn vốn tín dụng vào các
hình thức tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn trong danh mục đầu tư của ngân hàng.
Mức độ tập trung tín dụng càng cao thì rủi ro càng lớn.
Dư nợ TD ngắn hạn
Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn = x 100
(%) Tổng dư nợ
Dư nợ TD trung&dài hạn
Tỷ trọng dư nợ trung&dài hạn= x 100
(%) Tổng dư nợ
Mức độ tập trung tín dụng theo loại tiền :
16
Mức độ tập trung tín dụng theo loại tiền là tỷ trọng dồn vốn tín dụng vào VNĐ
hay ngoại tệ, phụ thuộc vào chính sách tín dụng của từng ngân hàng trong từng thời
kỳ. Tỷ trọng dư nợ tín dụng bằng đồng tiền nào càng cao thì rủi ro gặp phải càng lớn.
Dư nợ bằng VND
Tỷ trọng dư nợ bằng VND = x 100
(%) Tổng dư nợ
Dư nợ bằng ngoại tệ
Tỷ trọng dư nợ bằng ngoại tệ = x 100
(%) Tổng dư nợ
Mức độ tập trung tín dụng theo đối tượng khách hàng:
Đối tượng khách hàng được xem xét ở đây bao gồm: một khách hàng và một
nhóm khách hàng
Tỷ trọng dư nợ TD của một Dư nợ tín dụng của một hoặc một nhóm KH
hoặc một nhóm KH = x 100
(%) Tổng dư nợ
Nếu tập trung tín dụng vào một khách hàng hoặc một nhóm khách hàng càng
lớn thì điều này càng giúp cho ngân hàng tối đa hoá lợi nhuận nhưng cũng tương
đương với việc là có thể gặp phải rủi ro rất lớn.Vì vậy trước khi quyết định cho vay,
ngân hàng cần phải thẩm định khách hàng hoặc một nhóm khách hàng thật kỹ lưỡng
để tránh RRTD có thể xảy ra.
Mức độ tập trung theo khu vực địa lý :
Mức độ tập trung theo khu vực địa lý là việc dồn vốn tín dụng cho một hoặc
một số khu vực địa lý nào đó trong nước hay nước ngoài.
1.2.4 Tác động của RRTD
a) Đối với nền kinh tế
Bắt nguồn từ chức năng và bản chất của ngân hàng là một tổ chức trung gian tài
chính chuyên huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức,
doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất chủ sở hữu của những
khoản vay chính là những người đã gửi tiền vào ngân hàng. Bởi vậy, khi RRTD xảy ra
thì không những ngân hàng chịu thiệt hại mà quyền lợi của người gửi tiền cũng
bị ảnh hưởng.
17
Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và
các cá nhân, vì vậy khi một ngân hàng gặp phải RRTD hay bị phá sản thì người
gửi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở
các ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân
hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự
hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó
làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã
hội mất ổn định. Ngoài ra, RRTD cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì
ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997), cuộc
khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) và mới nhất chính là khủng hoảng
tín dụng Mỹ đã làm rung chuyển toàn cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu
tư giữa các nước phát triển rất nhanh nên RRTD tại một nước ảnh hưởng trực
tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan.
18
b) Đối với Ngân hàng
Khi gặp RRTD, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay,
nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này
làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng
quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không có hiệu quả. Khi gặp phải
RRTD ngân hàng thường rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, làm mất lòng
tin người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng, bị cấp trên khiển trách. Đối
với cấp dưới, do gặp phải RRTD nên không có tiền trả lương cho nhân viên vì thế
những người có năng lực sẽ thuyên chuyển công tác, gây khó khăn cho ngân hàng.
Nói tóm lại, RRTD của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹ
nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng
nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến
ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được,
ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và
hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng
phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro
trong cho vay.
1.2.5 Nguyên nhân RRTD
1.2.5.1 Nguyên nhân chủ quan
a) Nguyên nhân từ phía khách hàng
Khách hàng cá nhân:
Khách hàng vay vốn Ngân hàng chủ yếu phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt cá
nhân, một phần nhỏ để kinh doanh. Nguồn trả nợ chủ yếu là các nguồn như tiền lương,
thưởng, thu nhập phụ. Vì vậy với đối tượng này khi cho vay Ngân hàng cần xem xét
kỹ nguy cơ gây nên rủi ro khi khách hàng suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập thường
xuyên, có thể do người vay vốn bị thất nghiệp tạm thời hoặc lâu dài. Rủi ro cũng có
thể xẩy ra khi khách hàng đang sử dụng vốn sai mục đích, chẳng hạn vốn vay họ
không sử dụng cho tiêu dùng, hoặc để sản xuất kinh doanh như dự kiến thì họ lại để
cho vay lấy lãi suất cao, đánh đề, chơi bạc…
Cũng có thể khách hàng gặp bất trắc trong đời sống như ốm đau, bệnh tật, tai
nạn, vợ chồng ly dị, chủ gia đình chết mà không để lại di chúc và có sự cạnh tranh
giữa những người thừa kế hợp pháp, hoặc người đi vay có hành vi gian lận, lừa đảo,
19
chiếm đoạt vốn của ngân hàng. Vì vậy khi cho vay đối tượng này tuy số tiền không lớn
nhưng cần xem xét kỹ lưỡng qua những thông số đáng tin cậy của anh em họ hàng,
bạn bè, chính quyền vì Ngân hàng không phải tổ chức từ thiện mà Ngân hàng đi vay
để cho vay nên phải kinh doanh có hiệu quả.
Khách hàng doanh nghiệp:
Nhóm khách hàng này vay vốn của NH với mục đích sử dụng cho hoạt
động sản xuất kinh doanh. Do đó khi khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc
trả nợ không đúng hẹn là do những nguyên nhân sau :
• Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay, cố tình
lừa đảo ngân hàng.
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa
đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh
lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các
doanh nghiệp khác.
• Khả năng quản lý kinh doanh kém:
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa
phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi
mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo
đúng chuẩn mực.
• Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch:
Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm
chung của hầu hết các doanh nghiệp VN. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính
xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm
chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân
hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng
lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp
cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực.
b) Nguyên nhân từ phía ngân hàng
• Chính sách tín dụng không hợp lý:
20
Sự không hợp lý thể hiện ở chỗ ngân hàng quá đề cao mục tiêu lợi nhuận mà
không chú ý đến mục tiêu an toàn, hiệu quả và lành mạnh. Hay ngân hàng quá quan
tâm về vấn đề lợi nhuận mà đơn giản hóa việc phân tích, đánh giá khách hàng.
• Ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để đánh giá
khách hàng dẫn đến xác định sai hiệu quả của phương án xin vay, hoặc xác định
thời hạn cho vay và trả nợ không phù hợp với phương án kinh doanh của khách
hàng
• Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng:
Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó
nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra
viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh.
Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như
chỉ tồn tại trên hình thức.
• Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ:
Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề
hạn chế RRTD. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một
cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì vô cùng nguy hiểm
khi được bố trí trong công tác tín dụng.
• Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay:
Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm
định trước khi cho vay mà nơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau
khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý
một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Tuy nhiên trong thời gian qua
các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý
ngại gây phiền cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống
thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không
cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu.
• Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm coi đó như sự bảo
đảm chắc chắn cho việc thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.
21