Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.76 KB, 12 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng mở đầu cho toàn bộ hoạt động xét
xử (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm). Việc tìm hiểu, giải thích, làm
sáng tỏ thủ tục xét xử sơ thẩm không chỉ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự mà còn có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng. Trong tố tụng hình sự (TTHS), thẩm quyền của Tòa án cấp sơ thẩm
cũng là một chế định quan trọng. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự càng được phân
định rõ ràng, khoa học, sát với thực tế bao nhiêu càng bảo đảm cho việc xét xử khách quan,
chính xác, đúng người, đúng tội bấy nhiêu. Với tầm quan trọng đó, các quy phạm pháp luật
về thẩm quyền của tòa án cấp sơ thẩm luôn luôn được chú ý từ khi ban hành pháp luật. Bộ
luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) của nước ta quy định tương đối đầy đủ các quy phạm pháp
luật về thẩm quyền của tòa án cấp sơ thẩm.
I. Những vấn đề chung về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự:
1. Khái niệm:
Thẩm quyền của Tòa án theo nghĩa chung nhất được hiểu là quyền xem xét và giải
quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Tòa án ra bản án nhân danh nước
CHXHCN Việt Nam. Bản án của Tòa án cụ thể hóa đường lối, chính sách, quan điểm
của Nhà nước đối với việc xử lý người có hành vi phạm tội.
Thẩm quyền xét xử của Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, theo nghĩa rộng bao gồm
quyền xem xét và quyền giải quyết vụ án, ra bản án hoặc các quyết định đình chỉ vụ án,
quyết định tạm đình chỉ vụ án… Theo đó, thẩm quyền của Tòa án bao gồm hai yếu tố có
liên quan chặt chẽ với nhau là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung.
Thẩm quyền về hình thức là quyền xem xét và phạm vi xem xét và phạm vi xem xét
(giới hạn xét xử) của Tòa án, Thẩm quyền về nội dung là quyền hạn giải quyết, quyết
định của Tòa án đối với những vấn đề được xem xét.
Tuy nhiên trong phạm vi đề tài chỉ nghiên cứu thẩm quyền xét xử của Tòa án theo
quy định tại chương XVI của Bộ luật tố tụng hình sự, tức là thẩm quyền về hình thức
(xem xét vụ án). Theo đó: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; đối tượng phạm tội; nơi thực hiện tội
phạm hoặc nơi khác theo quy định của pháp luật”.
2. Những căn cứ để quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự:


1
Việc quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án cần phải dựa vào các căn cứ sau:
1
- Đường lối, chính sách của Đảng
- Nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự
- Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
- Tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của Thẩm phán cũng như Điều tra viên, Kiểm sát
viên
- Biên chế và cơ sở vật chất
- Tình hình phạm tội và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm…
3. Giới hạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự:
Giới hạn xét xử sơ thẩm được quy định tại Điều 196 BLTTHS, theo đó phạm vi xét
xử của tòa án cấp sơ thẩm bị giới hạn trong phạm vi truy tố và quyết định đưa vụ án ra
xét xử, nhưng cũng có thể vượt khỏi phạm vi truy tố trong những trường hợp nhất định.
* Xét xử trong phạm vi truy tố và quyết định đưa vụ án ra xét xử:
“Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà viện kiểm sát truy
tố và tòa án đã quyết định đưa ra xét xử”. Trong khi chuẩn bị xét xử sơ thẩm, nếu có căn
cứ cho rằng bị can phạm một tội khác mà tội này nặng hơn tội mà viện kiểm sát truy tố,
hoặc có đồng phạm khác thì thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định
trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Qua việc xét xử tại phiên tòa, nếu phát hiện tội phạm hoặc
người phạm tội mới cần phải điều tra thì hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu
cầu viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự (khoản 1 Điều 104 BLTTHS).
Ngoài ra theo Quyết định giám đốc thẩm số 08/2006/HS-GĐT ngày 08/5/2006 của
HĐTP TANDTC, việc tòa án cấp sơ thẩm quyết định về tài sản, quyền và nghĩa vụ về tài
sản của những người có hành vi phạm tội nhưng không bị truy tố là vi phạm giới hạn xét
xử.
* Xét xử theo khoản khác hoặc về tội phạm khác với truy tố:
- Khung hình phạt khác với khung hình phạt mà viện kiểm sát đã truy tố trong cùng
một điều luật: Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn hoặc nhẹ hơn khoản mà

viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật.
- Tội phạm khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà viện kiểm sát đã truy tố: Tòa án không
được xét xử theo tội phạm khác nặng hơn tội mà viện kiểm sát đã truy tố. Nếu có căn cứ
1
Nguyễn Văn Huyên, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2002, tr.22-36.
2
cho rằng bị cáo phạm tội khác nặng hơn, tòa án phải xét xử theo tội danh mà viện kiểm
sát đã truy tố, không được tuyên là bị cáo không phạm tội mà viện kiểm sát đã truy tố.
Nhưng mặt khác, tòa án có thể xét xử bị cáo về một tội phạm khác bằng hoặc nhẹ hơn
tội mà viện kiểm sát đã truy tố.
+ Tòa án có thể xét xử bị cáo về tội nhẹ nhất trong các tội mà viện kiểm sát truy tố
hoặc về tội nhẹ hơn tất cả các tội mà viện kiếm sát truy tố.
Ví dụ: Viện kiểm sát truy tố A về năm hành vi phạm tội, trong đó hai hành vi bị truy
tố về tội cướp tài sản, ba hành vi truy tố về tội cướp giật tài sản. Tòa án có thể xét xử A
về tội cướp giật tài sản (nhẹ hơn tội cướp tài sản) đối với cả năm hành vi phạm tội mà
viện kiểm sát truy tố. Tòa án cũng có thể xét xử A về tội cưỡng đoạt tài sản (nhẹ hơn tội
cướp tài sản và tội cướp giật tài sản) đối với cả năm hành vi phạm tội mà viện kiểm sát
truy tố.
+ Tội phạm khác bằng tội phạm mà viện kiểm sát đã truy tố.
Đây là trường hợp điều luật quy định về trách nhiệm hình sự (hình phạt chính, hình
phạt bổ sung) đối với hai tội phạm như nhau.
Ví dụ: A bị viện kiểm sát truy tố về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tòa án có thể
xét xử A về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Hai tội này cùng được quy định tại Điều
194 BLHS.
+ Tội phạm khác nhẹ hơn tội phạm mà viện kiểm sát đã truy tố.
Đây là trường hợp điều luật quy định về trách nhiệm hình sự (hình phạt chính, hình
phạt bổ sung) đối với tội phạm khác nhẹ hơn so với tội phạm mà viện kiểm sát đã truy
tố.
Để xác định tội nặng hơn hay nhẹ hơn, ta căn cứ vào dấu hiệu hình phạt. Hình phạt
chính được so sánh trước. Trong trường hợp hình phạt chính đối với cả hai tội phạm như

nhau thì so sánh tiếp đến hình phạt bổ sung. Thứ tự xác định theo nguyên tắc những dấu
hiệu trước giống nhau, không có sự khác biệt thì so sánh đến những dấu hiệu tiếp theo.
• So sánh hình phạt chính:
So sánh loại hình phạt: Tội mà điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất nặng hơn
là tội nặng hơn.
So sánh mức hình phạt tù cao nhất: Tội mà điều luật quy định mức hình phạt tù cao
nhấu cao hơn là tội nặng hơn.
So sánh mức hình phạt tù khởi điểm: Tội mà điều luật quy định mức hình phạt tù
khởi điểm cao hơn là tội nặng hơn.
3
So sánh mức hình phạt chính khác: Tội mà điều luật còn quy định loại hinh phạt
chính khác nhẹ hơn là tội nhẹ hơn.
• So sánh hình phạt bổ sung:
Tội mà điều luật ngoài hình phạt chính còn quy định hình phạt bổ sung là tội nặng
hơn. Trường hợp hình phạt bổ sung như nhau, tội mà điều luật quy định bắt buộc áp
dụng hình phạt bổ sung nặng hơn là tội mà điều luật quy định có thể áp dụng hình phạt
bổ sung.
2
4. Chuyển vụ án:
Tòa án chuyển vụ án cho tòa án khác có thẩm quyền xét xử trong trường hợp vụ án
không thuộc thẩm quyền xét xử của mình. Việc chuyển vụ án ngoài phạm vi tỉnh do Tòa
án nhân dân (TAND) cấp tỉnh quyết định. Việc chuyển vụ án ngoài phạm vi quân khu do
tòa án quân sự cấp quân khu quyết định. Trong thời hạn 2 ngày, kể từ ngày ra quyết định
chuyển vụ án, tòa án thông báo cho viện kiểm sát cùng cấp, báo cho bị cáo và những
người có liên quan trong vụ án. Việc chuyển vụ án được thực hiện trước khi mở phiên
tòa hoặc tại phiên tòa.
* Chuyển vụ án trước khi mở phiên tòa:
Trước khi mở phiên tòa, việc chuyển vụ án do chánh án tòa án quyết định. Trong giai
đoạn này, pháp luật không cho phép bất kỳ vi phạm nào về thẩm quyền xét xử.
* Chuyển vụ án tại phiên tòa:

Tại phiên tòa, việc chuyển vụ án do hội đồng xét xử quyết định nếu vụ án thuộc thẩm
quyền xét xử của tòa án quân sự hoặc tòa án cấp trên. Do đó, TAND vẫn tiếp tục xét xử
trong trường hợp vụ án thuộc thẩm quyền xé xử của TAND khác cùng cấp và tương tự,
tòa án quân sự vẫn tiếp tục xét xử trong trường hợp vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của
tòa án quân sự khác cùng cấp. Như vậy, trong giai đoạn này, pháp luật cho phép vi phạm
thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ, nhưng không cho phép tòa án cấp dưới vi phạm thẩm
quyền xét xử của tòa án cấp trên và không cho phép TAND vi phạm thẩm quyền xét xử
của tòa án quân sự.
5. Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử:
Tranh chấp thẩm quyền xét xử giữa các TAND cấp huyện thuộc các tỉnh khác nhau
do chánh án TAND cấp tỉnh nơi kết thúc việc điều tra quy định. Tranh chấp thẩm quyền
2
Mục 2 phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ – HĐTP ngày 05/11/2004.
4
xét xử giữa TAND và tòa án quân sự do chánh án TANDTC quyết định. Những tranh
chấp khác về thẩm quyền xét xử do chánh án tòa án cấp trên trực tiếp quyết định.
II. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành:
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được phân định theo sự việc, đối tượng và
lãnh thổ.
1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc:
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa các
cấp tòa án, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm. Do TANDTC
không có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, nên thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc là sự
phân định thẩm quyền xét xử giữa hai cấp tòa án còn lại:
* Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện và tòa án quân sự cấp khu vực:
- TAND cấp huyện và tòa án quân sự cấp khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm
những vụ án hình sự về các tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng.
Trong trường hợp điều luật về tội phạm cụ thể có nhiều khoản thì TAND cấp huyện
và tòa án quân sự cấp khu vực xét xử theo khoản thuộc thẩm quyền xét xử cùng một lần

một người phạm nhiều tội, nếu các tội phạm đó đều thuộc thẩm quyền xét xử của các tòa
án này. Trong trường hợp một người đang chấp hành hình phạt mà lại bị truy tố về tội
phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực thì các
tòa án này cũng có thẩm quyền xét xử, trừ trường hợp người bị kết án đã bị tuyên hình
phạt tử hình hoặc tù chung thần mà chưa được giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
- Những vụ án hình sự không thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện
và tòa án quân sự cấp khu vực gồm những vụ án do pháp luật quy định hoặc do cơ quan
tiến hành tố tụng quyết định. Cụ thể:
+ Những vụ án hình sự không thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và tòa
án quân sự khu vực theo quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 170 BLTTHS như sau:
“Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án
hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất
nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây :
a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
5

×