Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (699.4 KB, 68 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1
CHƯƠNG I

3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN

3
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

3
1.1. Khái quát chung về vốn huy động của ngân hàng thương mại 3
1.1.1. Khái niệm về vốn và huy động của ngân hàng thương mại 3
1.1.2. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại 4
1.2. HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN

10
1.2.1. Quan niệm về hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại 10
Quy mô vốn huy động / chi phí vốn huy động 11
Chênh lệch thu chi lãi / chi phí trả lãi của ngân hàng 12
Chênh lệch thu chi lãi 12
= 12
Thu lãi – Chi lãi 12
Chi phí trả lãi 12
Chi phí trả lãi 12
Quy mô vốn huy động / chi phí tiền lương 13
Sự ổn định vốn của các hình thức huy động vốn 14
CHƯƠNG II


18
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI

18
NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM THỊNH VƯỢNG

19
2.1. Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng VPBank 19
2.1.1. Khái quát về Ngân hàng VPBank 19
2.3. Đánh giá hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng 35
2.3.1. Đánh giá hiệu quả giữa số vốn huy động được so với chi phí trả lãi 35
2.3.2. Đánh giá hiệu quả giữa số vốn huy động được so với chi phí trả lãi tiền gửi, tiền vay 37
2.3.3. Đánh giá hiệu quả giữa số vốn huy động được và chi phí thưởng huy động vốn 38
2.3.4. Kết quả đạt được trong giai đoạn 2007 – 2010 40
2.3.5. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân tác động 41
CHƯƠNG III

54
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM
THỊNH VƯỢNG

54
3.1. Mục tiêu phát triển của Ngân hàng VPBank giai đoạn 2011-2015 54
- TẬP TRUNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC: CHÚ Ý XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN MÔI TRƯỜNG VĂN HOÁ
LÀM VIỆC; CHÚ TRỌNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO CÁN BỘ

54
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng VPBank 54
3.3.1. Mở rộng và phát triển các sản phẩm dịch vụ huy động vốn 54
3.3.2. Áp dụng chính sách lãi suất huy động linh hoạt, hợp lý 55

3.3.3. Nâng cao uy tín, tạo lòng tin với khách hàng 56
3.3.4. Đánh giá và có phương pháp tính toán cơ chế thưởng huy động vốn phù hợp 57
3.3.5. Xây dựng hệ thống thu thập thông tin và cơ chế phối hợp trong hoạt động huy động vốn 58
3.3.7. Nâng cao vai trò và trình độ của giao dịch viên, cán bộ quan hệ khách hàng 62
- Có chế độ khen thưởng phù hợp, cần có các chế độ khuyến khích cả về mặt chất và tinh thần, phát
động phong trào thi đua cán bộ giỏi nhằm kích thích các hoạt động tích cực trong công tác huy động
vốn. Đồng thời phải có chế độ kỷ luật và phê bình thích đáng đối với những cán bộ làm sai nguyên tắc
ngân hàng, những cán bộ tha hoá biến chất gây tổn thất cho ngân hàng. Mặt khác, nên có những buổi
thảo luận giữa cán bộ quản lý và cán bộ chuyên môn để có thể cùng nhau học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm
làm việc. Có như thế mới tạo ra môi trường làm việc và cạnh tranh lành mạnh giữa các cán bộ 62
3.4. Kiến nghị 63
3.4.1. Kiến nghị đối với Chính phủ 63
3.4.1. Kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 66
MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển phát triển chung của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng
nói chung, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng nói riêng cũng đã không
ngừng phát triển và ngày càng khẳng định mình là một bộ phận không thể thiếu của
nền kinh tế. Bằng lượng vốn huy động được trong xã hội thông qua nghiệp vụ huy
động vốn, VPBank đã cung cấp một lượng vốn lớn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp
ứng các nhu cầu vốn một cách nhanh chóng, kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ
đó mà hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần trong nền kinh tế được
diễn ra một cách thuận lợi. Do vậy, trong thời gian tới, để phát huy hơn nữa vai trò
của mình và đồng thời đáp ứng cho sự phát triển chung của nền kinh tế cũng như
cho chính bản thân hệ thống ngân hàng thì việc huy động vốn cho kinh doanh trong
tương lai chắc chắn sẽ được đặt lên hàng đầu đối với các tổ chức tài chính, các ngân
hàng thương mại nói chung và VPBank nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với những kiến thức đã được học ở
trường, cùng với những kiến thức thu nhận được trong thời gian thực tập, tìm hiểu
tình hình thực tế tại Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng, em đã chọn đề tài:

“Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng TMCP
Việt Nam Thịnh Vượng”, làm chuyên đề tốt nghiệp cho mình.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, kết cấu của bài báo cáo gồm ba phần như sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận về hiệu quả huy động vốn của ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn kinh doanh tại ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn - chi nhánh Thanh Xuân.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng
Để hoàn thành báo cáo thực tập này, Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ
và chỉ bảo tận tình của PGS. TS Lê Đức Lữ, Ban lãnh đạo và các anh chị nhân viên
Hội sở chính ngân hàng VPBank đã giúp đỡ em hoàn thành báo cáo tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT DIỄN GIẢI
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
TMCP Thương mại Cổ phần
TCTD Tổ chức tín dụng
TCKT Tổ chức kinh tế
UTĐT Ủy thác đầu tư
2
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát chung về vốn huy động của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về vốn và huy động của ngân hàng thương mại
Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương
mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ

kinh doanh khác. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của ngân hàng thương mại, quyết
định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng bao gồm:
*Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được,
thuộc sở hữu của ngân hàng. Nó mang tính ổn định và căn cứ để quyết định đến khả
năng và khối lượng vốn huy động của ngân hàng.
*Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các
tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội và được dùng làm vốn để kinh doanh. Vốn
huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử
dụng và phải hoàn trả đúng gốc và lãi khi đến hạn cho khách hàng. Nguồn vốn này
luôn biến động, tuy nhiên nó đóng vai trò rất quan trọng bậc nhất đối với mọi hoạt
động của ngân hàng.
- Phát hành giấy tờ có giá: Khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho
phép, TCTD được phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để
huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
- Vay vốn giữa các TCTD: các TCTD được vay vốn của nhau và của TCTD
nước ngoài.
*Vốn đi vay là phần vốn các Ngân hàng đi vay để bổ sung vào vốn hoạt
động của mình trong trường hợp tạm thiếu vốn khả dụng. Đây là nguồn vốn có chi phí
huy động tương đối cao cho nên chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân
hàng.
3
1.1.2. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
a Tiền gửi của khách hàng.
Tiền gửi của khách hàng đó là tiền gửi của các cá nhân, tổ chức kinh tế, các
doanh nghiệp cơ quan Nhà nước và các định chế tài chính trung gian trong và ngoài
nước gửi tiền tại ngân hàng.
Tiền gửi của khách hàng được chia làm hai bộ phận: Tiền gửi của dân cư,
doanh nghiệp và tổ chức kinh tế
*Tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế bao gồm:
-Tiền gửi không kỳ hạn.

Đây là khoản tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào và ngân
hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng, thực chất đó là khoản tiền gửi dùng
cho mục đích thanh toán.
Tiền gửi thanh toán được gửi vào ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả
khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của khách hàng một cách thuận
tiện và tiết kiệm. Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi chờ thanh toán mà không phải
để dành. Bởi vậy đối với khách hàng đây là một tài sản mà họ ký thác uỷ nhiệm cho
ngân hàng bảo quản và thực hiện các nghiệp vụ liên quan theo yêu cầu của khách
hàng. Do vậy khách hàng không mất quyền sở hữu, cũng như quyền sử dụng số tiền
đó. Họ có quyền lấy ra hoặc chuyển nhượng cho bất kỳ ai và bất kỳ thời gian nào.
Khách hàng được sử dụng số tiền của mình bằng các phương tiện thanh toán dùng
để chi trả như séc, uỷ nhiệm chi, thư chuyển tiền…
Đối với ngân hàng đây là một khoản nợ mà ngân hàng có nghĩa vụ thực hiện
lệnh thanh toán chi trả cho người thụ hưởng loại tiền gửi này, lãi suất thường thấp
hơn rất nhiều so với lãi suất trả cho các khoản tiền gửi có lãi khác. Nhưng khi khách
hàng mở và sử dụng các loại tài khoản này thì được ngân hàng cung ứng các loại
dịch vụ miễn phí hoặc thu với tỷ lệ thấp, lượng tiền vốn ở tài khoản thanh toán
thường chiếm gần 1/3 tiền gửi ngân hàng.
Như vậy các tài khoản này đã đem lại cho khách hàng sự an toàn trong việc
bảo quản vốn và trong qúa trình thanh toán trả tiền hàng hoá dịch vụ, ngoài ra khách
4
hàng còn được hưởng một khoản tiền lãi nhỏ và một số dịch vụ miễn phí. Còn đối
với ngân hàng phải bỏ ra một số chi phí cho bộ máy kế toán theo dõi và nghi chép
các nghiệp vụ phát sinh, chi phí phát hành séc và một số dịch vụ kèm theo. Chi phí
này khá lớn, nhưng nó được bù đắp lại bởi vì trên thực tế do lượng tiền gửi vào và
số lượng tiền rút ra không cùng một lúc và chủ tài khoản thường không sử dụng hết
số tiền của mình trên tài khoản. Do đó luôn tồn tại một số tiền trên tài khoản trong
một thời gian dài số dư ấy được ngân hàng dùng để đầu tư cho vay đối với một số
doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn sản xuất, kinh doanh để thu lợi nhuận. Như vậy đối
với tài khoản tiền gửi thanh toán số dư trên tài khoản giao dịch không những bù đắp

được chi phí mà còn có thể mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Ngày nay do điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều công nghệ mới
được ứng dụng vào hoạt động ngân hàng. Vì vậy đã có nhiều doanh nghiệp, cá nhân
mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng, làm cho lượng tiền gửi này ngày càng gia
tăng. Đó là những nguồn vốn dùng để cho vay hết sức quan trọng của ngân hàng,
đồng thời lợi nhuận thu về từ nguồn vốn này cũng ngày càng tăng.
- Tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp, chưa sử
dụng đến trong một thời gian nhất định, mà khoảng thời gian này được xác định
trước. Do đó cá doanh nghiệp thường gửi vào ngân hàng dưới hình thức tiền gửi có
kỳ hạn. Phần lớn các nguồn tiền gửi này xuất phát từ nguồn tích luỹ của các doanh
nghiệp mà có. Về nguyên tắc khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn và được
hưởng số tiền lãi trên số tiền gửi đó. Nhưng hiện nay để thu hút vốn nhằm khuyến
khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, các NHTM cho phép khách hàng rút tiền
ra trước thời hạn. Trong trường hợp này khách hàng không được hưởng lãi hoặc chỉ
được hưởng theo lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn.
Do tính chất của loại tiền vốn tương đối ổn định, ngân hàng có thê sử dụng
phần lớn số dư loại nguồn vốn này để cho vay trung và dài hạn. Nếu nguồn vốn này
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động sẽ tạo điều kiện thuận lợi, chủ
động của ngân hàng trong quá trình kinh doanh, các NHTM thường đưa ra nhiều
5
loại kỳ hạn nhằm đáp ứng nhu cầu tiền gửi của khách hàng. Hiện tại các NHTM có
các loại tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng 9 tháng, 1 năm, 2 năm.
Với mỗi một kỳ hạn khác nhau thì ngân hànng áp dụng một loại lãi suất khác nhau.
Thông thường thì thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Các NHTM thường
khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn dài, vì loại tiền này tương đối ổn
định, ngân hàng sẽ chủ động trong kinh doanh. Để thu hút được nhiều nguồn vốn
dài hạn thì tốc độ phát triển nền kinh tế phải ổn định, giá trị đồng tiền được đảm
bảo, lạm phát vừa phải (thường là một con số một năm) và tình hình hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng có hiệu quả.

* Tiền gửi tiết kiệm của dân cư:
Tiển gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi các nhân được gửi vào
Ngân hàng, nhằm hưởng lãi suất theo qui định. Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu
nhập bằng tiền gửi của cá nhân chưa sử dụng được gửi vào tổ chức tín dụng. Nó là
một dạng đặc biệt của tích luỹ tiền tệ trong tiêu dùng cá nhân. Khi gửi tiền người
gửi tiền được giao một sổ tiết kiệm coi như một giấy chứng nhận tiền gửi vào Ngân
hàng. Đến thời hạn khách hàng rút tiền ra được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số
tiền gửi tích kiệm.
Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Loại tiền gửi này người gửi tiền có thể rút ra một phần hoặc toàn bộ số tiền
gửi bất kỳ lúc nào. Nhưng khác với loại tiền gửi thanh toán, người gửi tiền không
được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác, lãi suất tiền gửi tiết
kiệm thường cao hơn và phần lớn những người gửi tiền tiết kiệm là do chưa xác
định được nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai, nhưng lại hưởng mức lãi trong
thời gian khoản tiền nhàn rỗi.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Khi cá nhân gửi tiền vào ngân hàng loại tiền gửi tích kiệm có kỳ hạn trên cơ
sở thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi, lãi suất theo qui định
và khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn. Nhưng trong thực tế ở nước ta hiện
6
nay để khuyến khích người gửi tiền các NHTM vẫn cho khách hàng rút ra trước
thời hạn và được hưởng lãi suất thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn (thông thường
bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn).
Do nguồn vốn huy động từ loại tiền gửi này mang tính ổn định, cho nên các
NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau như loại 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng,
24 tháng… nhằm thu hút càng nhiều nguồn vốn với lãi suất của các kỳ hạn khác nhau.
Thông thường kỳ hạn ngày càng dài thì lãi suất huy động ngày càng cao (lãi suất tiền
gửi có kỳ hạn lớn hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi thanh toán).
Nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư có số lượng lớn thứ hai

trong tổng số các loại tiền gửi vào ngân hàng và nó phục thuộc rất lớn vào thu nhập
bình quân theo đầu người, tỷ lệ tiết kiệm trên tổng thu nhập của dân cư, chất lượng
phục vụ của NHTM, sự ổn định đồng tiền và nền kinh tế tăng trưởng vững chắc.
b. Tạo vốn qua phát hành công cụ nợ.
Vốn phát hành của ngân hàng, đây là hình thức huy động vốn thông qua phát
hành kỳ phiếu, trái phiếu…Đó là các công cụ nợ của ngân hàng.
Đặc điểm của loại vốn này là lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Mục
đích huy động dùng để đáp ứng cho các dự án đầu tư lớn. Nguồn vốn này được huy
động theo nhiều thời hạn khác nhau như ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Thời hạn
càng dài thì lãi suất càng cao. Hiện nay ở Việt nam các NHTM thường huy động
nguồn vốn này dưới hình thức phát hành kỳ phiếu có mục đích và trái phiếu trung,
dài hạn.
* Phát hành kỳ phiếu có mục đích.
Khi các NHTM có nguồn vốn tài chính dồi dào để tài trợ cho các nguồn vốn
có qui mô lớn, nhằm phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hoặc
liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế mà các nguồn vốn tự có chưa đáp ứng
được, NHTM trình ngân hàng Nhà nước xin phép phát hành kỳ phiếu để tạo nguồn
vốn tín dụng tương đối lâu dài cho các hoạt động này.
Như vậy kỳ phiếu là một chứng chỉ huy động vốn có mục đích, có thời hạn,
người sở hữu có thể chuyển nhượng cho người khác qua chứng nhận của ngân hàng,
7
vì trên sổ kỳ phiếu có ghi tên người hưởng. Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành
nhằm huy động vốn trong dân cư một cách linh hoạt có tác dụng thu hút cá nguồn
tiền nhàn rỗi vào ngân hàng, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị của đồng
tiền, tạo nguồn vốn trung dài hạn để đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế.
* Phát hành trái phiếu.
Trái phiếu ngân hàng thực chất là giấy nhận nợ có kỳ hạn của ngân hàng đối
với những người mua trái phiếu (nhà đầu tư). Trái phiếu được các NHTM hay các
tổ chức tín dụng phát hành nhằm huy động vốn cho chính bản thân ngân hàng hoặc
các tổ chức tín dụng có liên quan. Thời hạn của trái phiếu thường lớn hơn một năm.

Lãi suất của trái phiếu thường cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu. Các
NHTM phát hành trái phiếu trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn thông qua các dự án
đầu tư của các doanh nghiệp mà ngân hàng cam kết cho vay.
Huy động vốn thông qua việc phát hành các công cụ nợ của các NHTM như
kỳ phiếu, trái phiếu là một hình thức mới trong công tác huy động vốn của NHTM
đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Vốn được huy động từ hình
thức này dùng để đầu tư cho các dự án trung và dài hạn.
Ở nước ta hình thức này được Ngân hàng sử dụng từ năm 1992. Nhưng cho
đến nay khối lượng vốn huy động của NHTM qua hình thức này vẫn còn thấp so
với các hình thức huy động vốn truyền thống khác. Để phát huy được thế mạnh của
công cụ huy động vốn này đòi hỏi phải có thị trưòng vốn hoàn chỉnh (thị trưòng
chứng khoán). Ở nước ta thị trường này mới được thành lập cho nên hoạt động của
nó chưa có tác động lớn đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
c. Vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác và ngân hàng Trung ương.
Khi các NHTM có sự mất cân đối giữa nguồn vốn huy động và sử dụng vốn,
xảy ra hiện tượng thiếu vốn đột xuất.
Để đảm bảo khả năng thanh toán của mình, các tổ chức tín dụng vay vốn của
nhau qua thị trường liên ngân hàng. Thị trường này giúp cho NHTM bổ sung nguồn
vốn cho nhau, nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời trong thanh toán.
Hoạt động của thị trường này nhằm tận dụng đến mức cao nhất các khả năng sẵn có
8
một cách triệt để của các tổ chức tín dụng, trước khi đi vay vốn của ngân hàng
Trung ương.
Việc thực hiện quan hệ tín dụng giữa các NHTM phải được tiến hành theo
nguyên tắc đi vay cho vay và phải được thoả thuận trên cơ sở hợp đồng tín dụng,
vốn vay phải đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố (tiền mặt tại quĩ và các chứng từ có
giá trị), hay NHTM đi vay có thể xin ngân hàng Nhà nước bảo lãnh để vay vốn các
ngân hàng khác. Các ngân hàng đi vay phải chấp hành đầy đủ các quy chế dự trữ
bắt buộc và an toàn vốn, phải có tài khoản tiền gửi thanh toán hoạt động thường
xuyên tại NHTW.

Khi các NHTM đã hết khả năng vay mượn của nhau mà vẫn thiếu vốn hoặc
mất khả năng thanh toán, các NHTM thực hiện vay vốn tại ngân hàng Trung ưng để
tạo thêm nguồn vốn bổ sung cho hoạt động kinh doanh của mình. Việc ngân hàng
Trung ương cho các NHTM vay đã làm tăng khả năng thanh toán cho các NHTM.
Nguồn vốn của ngân hàng Trung ương là nguồn vốn cuối cùng, làm cho tăng khả
năng thanh toán của nền kinh tế, tạo cho khả năng thanh toán của nền kinh tế được
bình thường. Nguồn vốn này vô cũng vô cùng quan trọng nếu như thiếu nguồn vốn
này thì sẽ xuất hiện các cuộc khủng hoảng tài chính khi các NHTM mất khả năng
thanh toán.
Các nguồn vốn đi vay từ các tổ chức tín dụng khác, từ ngân hàng Trung
ương để đảm bảo khả năng thanh toán trong những trường hợp cần thiết. Cho nên
thời hạn vay thường ngắn, lãi suất thường cao hơn các hình thức huy động vốn khác
của NHTM.
d. Tạo vốn từ nguồn vốn khác.
Ngoài các nguồn vốn huy động trên các NHTM cũng có thể khai thác nguồn
vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, đây là nguồn vốn lớn, có thời hạn tương đối
dài từ 5 đến 50 năm với lãi suất tương đối ưu đãi. Khi các NHTM nhận các nguồn
vốn này thường có các điều kiện kèm theo rất chặt chẽ và việc cấp phát phải đúng
nội dung chương trình của các dự án tài trợ.
9
Ở nước ta khi thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, Đảng và Nhà nuớc ta
đã sáng suốt lựa chọn các đường lối ngoại giao đúng đắn, trên tinh thần mở cửa của
nền kinh tế, làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, thu hút các nguồn vốn đầu tư
của nước ngoài vào Việt nam. Các nguồn vốn này có đóng gỏp rất quan trọng vào
công cuộc đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi Ngân hàng Nhà
nước và NHTM phải tăng cường mở rộng các mối quan hệ hợp tác quốc tế, từ đó
tranh thủ và tiếp nhận các nguồn vốn này.
Trên đây là các hình thức huy động vốn chủ yếu của NHTM, tuy nhiên chất
lượng, hiệu quả của hoạt động huy động vốn chịu ảnh hưởng tác động rất nhiều yếu
tố, từ các yếu tố mang tính chất vĩ mô, đến các yếu tố mang tính chât vi mô của nền

kinh tế, cũng như các yếu tố liên quan tới chính NHTM.
1.2. Hiệu quả huy động vốn
1.2.1. Quan niệm về hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, ngân hàng cũng như các tổ chức tín
dụng khác đang phải đối mặt với các cuộc cạnh tranh khốc liệt. Bất kỳ biến động
nào dù nhỏ hay lớn đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói
chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Vì vậy, hiệu quả trong hoạt động huy
động vốn không chỉ đánh giá chính xác đúng đắn hoạt động huy động vốn nói riêng
mà còn phản ánh khả năng thích nghi và khẳng định sự phát triển trên thị trường
của ngân hàng.
Hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Khi so sánh
giữa kết quả và chi phí thì cần phải so sánh dưới dạng thương số, hoặc kết quả/ chi
phí hoặc chi phí/ kết quả. Mỗi cách so sánh đó đều cung cấp các thông tin có ý
nghĩa khác nhau. Đặc biệt không thể tính kết quả bằng cách lấy kết quả - chi phí vì
như vậy chỉ cho ra một chỉ tiêu kết quả chứ không phải chỉ tiêu kết quả.
Khái niệm hiệu quả như trên cho thấy rằng chỉ khi nào đạt được kết quả cao
nhất trong điều kiện chi phí thấp nhất mới được coi là có hiệu quả. Tuy nhiên trên
thực tế, việc xác định kết quả nào là cao nhất với chi phí thấp nhất là rất khó.
10
Như vậy, hiệu quả huy động vốn theo quan niệm của ngân hàng nó được thể
hiện ở khả năng đáp ứng cao nhất nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng. Đó chính là
sự đáp ứng kịp thời, đầy đủ, nhu cầu sử dụng vốn với chi phí hợp lý.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại
Ngân hàng huy động vốn bằng nhiều hình thức khác nhau. Mỗi cách thức
huy động vốn đem lại cho ngân hàng thương mại một nguồn vốn có tính chất khác
nhau, với chi phí khác nhau. Để đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn của một
ngân hàng thương mại ta cần dựa vào các tiêu chí cụ thể. Mỗi tiêu chí nêu lên một mặt
của hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại. Sau đây là một số tiêu chí:
Quy mô vốn huy động / chi phí vốn huy động
Vốn của ngân hàng thương mại được chia làm hai loại: Vốn chủ sở hữu và

Nợ. Vốn chủ sở hữu chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng
nhưng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng
và đặc biệt là được dùng để đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng.
Nợ chiếm phần lớn trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại, nó là
nguồn vốn hoạt động chính đối với mỗi ngân hàng. Cho nên hầu hết các khoản nợ
của ngân hàng thương mại đều liên quan đến chi phí huy động vốn.
Chi phí huy động vốn của ngân hàng bao gồm chi phí trả lãi và chi phí phi
trả lãi. Trong chi phí vốn huy động được thì chi phí trả lãi là chi phí chủ yếu. Ngoài
ra còn có các chi phí khác như: Chi phí bảo hiểm tiền gửi, chi phí quản lý, dự trữ
bắt buộc, dự trữ thanh toán, chi phí cho hoạt động marketing, quảng cáo để thu hút
khách hàng gửi tiền, chi phí để mở các quỹ tiết kiệm, chi phí mua máy móc thiết
bị, và các chi phí khác liên quan đến hoạt động huy động vốn.
Chi phí trả lãi mà ngân hàng trả cho khách hàng là chi phí trả lãi dựa trên lãi
suất danh nghĩa, lãi suất ngân hàng công bố cho khách hàng. Chi phí này phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố như lãi suất trên thị trường, kỳ hạn, loại tiền gửi, mục tiêu gửi
tiền của khách hàng, chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ, tiện
ích kèm theo, Tuy nhiện, lãi suất thực tế của từng nguồn vốn huy động đối với
ngân hàng là cao hơn bởi vì ngoài chi phí trả lãi, ngân hàng còn phải bỏ ra nhiều
11
loại chi phí khác nữa, chi phí phi trả lãi. Vì vậy chỉ tiêu chi phí huy động vốn/ tổng
vốn huy động được chia nhỏ ra làm hai chỉ tiêu khác nhau. Đó là:
- Chi phí trả lãi/ tổng vốn huy động cho thấy để huy động được một đồng vốn thì
ngân hàng cần phải trả bao nhiêu tiền dựa trên lãi suất công bố cho khách hàng.
- Chi phí phi trả lãi/ tổng vốn huy động cho thấy một đồng vốn huy động
được ngân hàng bỏ ra chi phí là bao nhiêu cho việc quản lý, cất giữ, bảo quản,
Tóm lại chi phí huy động vốn/ tổng vốn huy động được dùng để đánh giá
xem một đồng vốn ngân hàng huy động được cần phải bỏ ra tổng cộng bao nhiêu
chi phí.
Như vậy, khi xem xét hiệu quả huy động vốn, chi phí cho một đồng vốn phải
hợp lý, đảm bảo các khoản thu nhập có thể bù đắp được chi phí này và có lợi nhuận

cho ngân hàng. Chỉ tiêu này càng thấp thì huy động vốn càng có hiệu quả. Tuy
nhiên cũng phải thấy rằng để giảm chi phí huy động vốn thì cần phải giảm lãi suất
huy động và có các chi phí quản lý, bảo quản, dự trữ vốn huy động một cách tối ưu
nhất. Việc đưa ra một lãi suất huy động hợp lý là rấtquan trọng, lãi suất không quá
cao - đảm bảo lợi ích ngân hàng, cũng không quá thấp – thu hút được khách hàng
gửi tiền. Đồng thời giảm các chi phí phi trả lãi cũng sẽ làm cho hiệu quả của hoạt
động huy động vốn của ngân hàng hiệu quả hơn.
Chênh lệch thu chi lãi / chi phí trả lãi của ngân hàng
Mối liên hệ nguồn vốn và tài sản là mối liên liên hệ giữa huy động vốn và sử
dụng vốn. Đó là hai mặt của quá trình hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên, để đánh
giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng, tức là khả năng đáp ứng kịp thời các nhu
cầu về sử dụng vốn hay khả năng sinh lời từ dồng vốn huy động được thì các ngân
hàng cũng thường sử dụng chỉ tiêu chêch lệch thu chi lãi / chi phí trả lãi của ngân
hàng để đánh giá mối liên hệ sinh lời của tài sản và nguồn vốn cũng như hiệu quả
hoạt động huy động vốn.
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Chênh lệch thu chi lãi
=
Thu lãi – Chi lãi
Chi phí trả lãi Chi phí trả lãi
Chỉ tiêu này cho thấy một đồng chi phí ngân hàng bỏ ra để huy động vốn sẽ
12
thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ đồng vốn đó. Chỉ tiêu này càng cao thì cho
thấy ngân hàng đã sử dụng rất hiệu quả đồng vốn huy động của mình trong việc tối
thiểu hóa chi phí huy động cho đồng vốn đó. Chỉ tiêu này cao do chênh lệch thu chi
lãi trước thu, chi khác cao và chi phí trả lãi nhỏ. Chỉ tiêu chênh lệch thu, chi lãi/ chi
phí trả lãi cao cũng có thể do chí phí tăng và thu nhập trước thu nhập khác và chi
khác giảm, tuy nhiên tốc độ tăng của chi phí chậm hơn tốc độ giảm của thu nhập đó.
Quy mô vốn huy động / chi phí tiền lương
Trước tiên, để đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thông qua chỉ

tiêu này, cần phải đánh giá chỉ tiêu quy mô vốn huy động / 1cán bộ huy động vốn.
Chỉ tiêu này được tính bằng tổng số vốn mà ngân hàng huy động được trong
một thời kỳ từ khách hàng cá nhân chia cho tổng số lao động trong hoạt động huy
động vốn của ngân hàng trong thời kỳ đó.
Quy mô vốn huy động
=
Tổng số vốn huy động
1 cán bộ huy động vốn Tổng số lao động huy động vốn
Chỉ tiêu này cho thấy trong một thời kỳ nhất định, một nhân viên của ngân
hàng huy động được bao nhiêu vốn, hay nói cách khác chỉ tiêu này cho biết năng suất
huy động vốn của nhân viên hoạt động huy động vốn trong ngân hàng thương mại.
Chỉ tiêu này tăng cho thấy năng suất huy động vốn của ngân hàng tăng lên
khi nguồn vốn huy động tăng nhanh hơn số lao động hoạt động huy động vốn làm
cho chỉ tiêu này tăng lên. Tuy nhiên cũng phải xem xét tới sự giảm của nguồn vốn
huy động và số lượng lao động hoạt động huy động vốn của ngân hàng qua các
năm. Bởi chỉ tiêu này vẫn tăng nếu sự giảm xuống của nguồn vốn huy động được
chậm hơn so với sự giảm xuống của lao động hoạt động huy động vốn.
Chỉ tiêu nguồn vốn huy động trên một lao động hoạt động huy động vốn tăng
qua các năm cho thấy hiệu quả trong việc huy động vốn của ngân hàng. Tuy nhiên
chỉ tiêu này cũng chỉ cho thấy một cách định lượng về khả năng huy động vốn của
lao động hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Chúng không nêu lên được cơ cấu
nguồn vốn huy động cũng như các chi phí phải bỏ ra để huy động vốn, sự phù hợp
của nguồn vốn huy động với mục tiêu sử dụng vốn
Đối với chỉ tiêu quy mô vốn huy động / chi phí tiền lương phải trả cho tổng
cán bộ huy động vốn cho thấy một đồng chi phí phải trả cho một cán bộ huy động
13
vốn sẽ thu được bao nhiêu đồng vốn huy động.
Quy mô vốn huy động
=
Tổng số vốn huy động

Chi phí tiền lương Tổng tiền lương trả cho cán bộ huy động vốn
Chỉ tiêu này càng cao thì càng thể hiện rõ hiệu quả trong huy động vốn của
ngân hàng. Bởi chỉ tiêu này cao khi chi phí thấp và quy mô vốn huy động cao hoặc là chi
phí huy động tăng nhưng tốc độ tăng lại không nhanh bằng quy mô vốn huy động.Tuy
nhiên, cũng phải xét tới sự giảm sút của 2 yếu tố cấu thành nên chỉ tiêu này. Bởi nếu quy
mô vốn giảm nhưng vẫn nhanh hơn tốc độ giảm của chi phí sẽ làm cho chỉ tiêu này vẫn
phản ánh được hiệu quả huy động vốn của ngân hàng. Như vậy, chỉ tiêu sẽ cho thấy
hiệu quả huy động vốn của ngân hàng về mặt lượng một cách cụ thể.
Sự ổn định vốn của các hình thức huy động vốn
Một hình thức huy động vốn được đánh giá là tốt ngoài những yếu tố như
đáp ứng nhu cầu với chi phí thấp cần phải có sự ổn định, tức là không có sự thay đổi
đột ngột trong thời gian sử dụng nguồn vốn đó của ngân hàng.
Thông thường các nguồn vốn huy động đều có thể dự tính được trước thời
gian sử dụng như tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm,
Vốn huy động phải có sự tăng trưởng ổn định về mặt số lượng để thoả mãn
nhu cầu tín dụng cũng như nhu cầu của các hoạt động khác. Mặt khác vốn huy động
đó cung cần phải có sự ổn định về thời gian. Chẳng hạn như nếu ngân hàng huy
động được một nguồn vốn lớn đáp ứng được yêu cầu tín dụng nhưng lại không đánh
giá được khả năng ổn định của nguồn vốn đó sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động của
ngân hàng, tạo cho ngân hàng những rủi ro khó lường trước được. Ngược lại, nếu
ngân hàng chỉ huy động được nguồn vốn nhỏ nhưng ổn định về thời gian sẽ làm cho
việc đầu tư của ngân hàng từ nguồn vốn đó đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
Chỉ tiêu này được đánh giá qua mức độ tăng giảm vốn huy động. Nếu vốn
huy động tăng đều qua các năm, có tốc độ gia tăng ổn định, đều đặn thì vốn đó được
coi là có hiệu quả trong việc huy động.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn
1.3.1. Các nhân tố khách quan
14
a. Môi trường pháp lý
Nghiệp vụ huy động vốn của các NHTM chịu sự điều chỉnh rất lớn của môi

trường pháp lý, bởi các quy định pháp luật tác động trực tiếp đến các hoạt động của
các TCTD tiêu biểu là: Luật các TCTD, Luật NHNN Những quy định pháp luật
này qui định tỉ lệ huy động vốn của ngân hàng so với vốn tự có, qui định về việc gửi
và sử dụng tài khoản tiền gửi Có những quy định pháp luật tác động gián tiếp đến
hoạt động ngân hàng như Luật đầu tư nước ngoài hoặc các NHTM không được
nhận tiền gửi hoặc cho vay bằng cách tăng giảm lãi suất, mà phải dựa vào lãi suất
do NHNN đưa ra và chỉ được xê dịch trong biên độ nhất định mà NHNN cho
phép Bên cạnh những bộ luật đó thì chính sách tài chính tiền tệ của một quốc gia
cũng ảnh hưởng rất lớn tới nghiệp vụ tạo vốn của NHTM. Nó được thể hiện ở mục
tiêu của chính sách tiền tệ, chẳng hạn khi nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà nước có
chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã
hội thì lúc đó NHTM huy động vốn dễ dàng hơn. Như vậy, môi trường pháp lí là
nhân tố khách quan có tác động vô cùng to lớn tới quá trình huy động vốn của
NHTM. Mục tiêu hoạt động của NHTM được xây dựng vào các qui định, qui chế
của Nhà nước để đảm bảo an toàn và nâng cao niềm tin từ khách hàng.
b.Môi trường kinh tế xã hội:
Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước cũng có tác động không nhỏ
đến quá trình huy động vốn của ngân hàng. Khi nền kinh tế tăng trưởng hay suy
thoái thì nó đều ảnh hưởng tới nghiệp vụ tạo vốn của NHTM. Mọi biến động của
nền kinh tế bao giờ cũng được biểu hiện rõ trong việc tăng, giảm nguồn vốn huy
động từ bên ngoài của ngân hàng. Nền kinh tế tăng trưởng, sản xuất phát triển, từ đó
tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn, do đó tạo môi trường cho việc thu hút vốn của
NHTM thuận lợi. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát tăng, người dân
không gửi tiền vào ngân hàng mà giữ tiền để mua hàng hoá, làm cho việc thu hút
vốn gặp nhiều khó khăn.
c. Tâm lý, thói quen khách hàng
Khách hàng của ngân hàng bao gồm những người có vốn gửi tại ngân hàng
15
và những đối tượng sử dụng vốn đó. Về môi trường xã hội ở các nước phát triển,
khách hàng luôn có tài khoản cá nhân và thu nhập được chuyển vào tài khoản của

họ. Nhưng ở các nước kém phát triển, nhu cầu dùng tiền mặt thường lớn hơn. Ở
khoản mục tiền gửi tiết kiệm có hai yếu tố quan trọng tác động vào là thu nhập và
tâm lý của người gửi tiền. Thu nhập ảnh hưởng đến nguồn vốn tiềm tàng mà Ngân
hàng có thể huy động trong tương lai. Còn yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến sự biến
động ra vào của các nguồn tiền. Tâm lý tin tưởng vào tương lai của khách hàng có
tác dụng làm ổn định lượng tiền gửi vào, rút ra và ngược lại nếu niềm tin của khách
hàng về đồng tiền trong tương lai sẽ mất giá gây ra hiện tượng rút tiền hàng loạt vốn
là mối lo ngại lớn của mọi ngân hàng. Một đặc điểm quan trọng của đối tượng
khách hàng là mức độ thường xuyên của việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Mức
độ sử dụng càng cao, ngân hàng càng có điều kiện mở rộng việc huy động vốn.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan
a.Các hình thức huy động vốn
Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trước hết phải đa dạng
hình thức huy động vốn. Hình thức huy động vốn của ngân hàng ngày càng phong
phú, linh hoạt bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn từ nền kinh tế càng lớn bấy nhiêu.
Điều này xuất phát từ sự khác nhau trong nhu cầu và tâm lí của các tầng lớp dân cư.
Mức độ đa dạng các hình thức huy động càng cao thì dễ dàng đáp ứng một cách tối
đa nhu cầu của dân cư, vì họ đều tìm thấy cho mình một hình thức gửi tiền phù hợp
mà lại an toàn. Do vậy các NHTM thường tìm cách đa dạng hoá các hình thức huy
động vốn đáp ứng nhu cầu gửi tiền tối đa cho khách hàng.
b. Chính sách lãi suất cạnh tranh:
Việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau đã trở
nên cực kỳ quan trọng trong việc thu hút các khoản tiền gửi mới và duy trì tiền gửi
hiện có. Điều này đặc biệt đúng khi lãi suất thị trường đã ở vào mức tương đối cao.
Các ngân hàng cạnh tranh giành vốn không chỉ với các ngân hàng khác mà còn với
các tổ chức tiết kiệm khác, các thị trường tiền tệ và với những người phát hành các
công cụ tài chính khác nhau trong thị trường tiền tệ. Khi lãi suất tối đa bị loại bỏ trong
quá trình nới lỏng các quy định, việc duy trì mức lãi suất cạnh tranh càng trở nên gay
16
gắt. Đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, đủ cho những khác biệt tương đối nhỏ

về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiền tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ ngân
hàng này sang ngân hàng khác hay từ công cụ này sang công cụ khác.
c. Năng lực và trình độ cán bộ ngân hàng
* Về phương diện quản lí, nếu ngân hàng có trình độ quản lí tốt sẽ có khả
năng tư vấn phù hợp cho khách hàng đem lại hiệu quả cao thì sẽ thu hút được khách
hàng đến với mình. Mặt khác, quản lí tốt sẽ đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín,
tạo điều kiện tốt cho công tác huy động vốn của ngân hàng.
* Về trình độ nghiệp vụ: Trình độ của cán bộ ngân hàng ảnh hưởng lớn tới chất
lượng phục vụ, chi phí dịch vụ làm ảnh hưởng tới việc thu hút vốn của ngân hàng.
Hiện nay, ở nhiều Ngân hàng Việt Nam, trình độ nghiệp vụ của cán bộ có
nhiều bất cập. Vì vậy, cần phải chú trọng vào việc nâng cao trình độ cho cán bộ sao
cho phù hợp với nhu cầu đòi hỏi của kinh tế thị trường
d. Công nghệ ngân hàng
Trình độ công nghệ ngân hàng được thể hiện theo các yếu tố sau:
Thứ nhất: Các loại dịch vụ mà ngân hàng cung ứng
Thứ hai : Trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên ngân hàng
Thứ ba: Cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Trình độ công nghệ ngân hàng ngày càng cao, khách hàng sẽ càng cảm thấy
hài lòng về dịch vụ được ngân hàng cung ứng và yên tâm hơn khi gửi tiền tại các
ngân hàng. Đây là một yếu tố rất quan trọng giúp ngân hàng cạnh tranh phi lãi suất
vì khách hàng mà ngân hàng phục vụ, không quan tâm đến lãi suất mà quan tâm đến
chất lượng và loại hình dich vụ mà ngân hàng cung ứng. Với cùng một lãi suất huy
động như nhau, ngân hàng nào cải tiến chất lượng dịch vụ tốt hơn, tạo sự thuận tiện
hơn cho khách hàng thì sức cạnh tranh sẽ cao hơn.
e. Các dịch vụ ngân hàng cung ứng
Một ngân hàng có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên có lợi thế hơn so các ngân
hàng có các dịch vụ hạn chế. Trong điều kiện thành phố thiếu bãi đậu xe, ngân hàng
có bãi đậu xe rộng rãi cũng là một lợi thế hoặc ngân hàng có giao dịch mặt đường
trên các phố chính, có hệ thống rút tiền tự động làm việc ngày đêm, có cán bộ giao
17

dịch niềm nở, có trách nhiệm, tạo được niềm tin cho khách hàng cũng là lợi thế
đáng quan tâm của các NHTM. Khác về cạnh tranh, về lãi suất, cạnh tranh về dịch
vụ ngân hàng không giới hạn, do vậy đây chính là điểm mạnh để các ngân hàng
giành thắng lợi trong cạnh tranh.
f. Mức độ thâm niên của một Ngân hàng:
Đối với các khách hàng khi cần giao dịch với một ngân hàng thì bao giờ họ
cũng dành phần ưu ái đối với một ngân hàng có thâm niên hơn là một ngân hàng mới
thành lập. Bởi vì, theo họ thì một ngân hàng thâm niên là một ngân hàng có uy tín,
vững vàng trong nghiệp vụ, có nguồn vốn và có khả năng thanh toán cao. Do vậy, mức
độ thâm niên về một khía cạnh nào đó cũng tạo ra được lòng tin đối với khách hàng
g. Chính sách quảng cáo:
Không một ai có thể phủ nhận được vai trò to lớn của chính sách quảng cáo
trong thời đại ngày nay. Trong hoạt động ngân hàng hiện đại, quảng cáo luôn được
đề cao và cần đầu tư một chi phí hợp lí cho công tác này. Đồng thời ngân hàng cũng
phải có chiến lược quảng cáo đặc biệt không chỉ trên truyền hình mà nên dùng cả
Pano, áp phích, tờ rơi nhằm đẩy mạnh công tác huy động vốn.
h. Mạng lưới phục vụ cho việc huy động vốn:
Mạng lưới huy động vốn của các ngân hàng thường biểu hiện qua việc tổ chức
các quỹ tiết kiệm. Mạng lưới huy động không chỉ được mở rộng tạo điều kiện thuận lợi
cho người gửi tiền, mà cần được mở ra ở cả những nơi cách xa trung tâm kinh tế như
nông thôn, vùng sâu, vùng xa để từ đó nâng cao được hiệu quả huy động vốn.
Trên đây là các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của các hệ
thống ngân hàng thương mại. Với mỗi ngân hàng trong những giai đoạn khác nhau,
mức độ ảnh hưởng của các nhân tố trên đến hoạt động huy động vốn cũng khác
nhau. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể mà các ngân hàng có thể xây dựng cho mình
một chiến lược huy động thích hợp.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI
18
NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM THỊNH VƯỢNG

2.1. Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng VPBank
2.1.1. Khái quát về Ngân hàng VPBank
2.2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (gọi
tắt là VPBank) được thành lập theo giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP của
thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam cấp ngày 12/08/1993 với thời
gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 04/09/1993 theo
giấy phép thành lập số 1535/QĐ-UB ngày 04/09/1993.
Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng trải qua ba giai đoạn:
Từ năm 1993 đến 1996: Là giai đoạn ngân hàng tăng trưởng thiếu kiểm soát do mới
thành lập và chưa có kinh nghiệm trong hoạt động cũng như quản lý.
Từ năm 1996 đến 2004: Là giai đoạn giải quyết khủng hoảng của ngân hàng. Năm
1997 xảy ra Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á, chính vì vậy VPBank
ngoài việc phải giải quyết những vấn đề còn tồn tại của chính mình thì còn phải giải
quyết những khó khăn do khủng hoảng gây ra
Từ năm 2004 đến nay: Là giai đoạn định hướng phát triển bền vững.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, VPBank luôn chú ý đến việc mở rộng
quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn. Cuối năm 1993,
Thống đốc NHNN chấp thuận cho VPBank mở Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí
Minh. Tháng 11/1994, VPBank được phép mở thêm Chi nhánh Hải Phòng và tháng
7/1995, được mở thêm Chi nhánh Đà Nẵng.
Trong năm 2004, NHNN đã có văn bản chấp thuận cho VPBank được mở
thêm 3 Chi nhánh mới đó là Chi nhánh Hà Nội trên cơ sở tách bộ phận trực tiếp
kinh doanh trên địa bàn Hà Nội ra khỏi Hội sở; Chi nhánh Huế; Chi nhánh Sài Gòn.
Trong năm 2005, VPBank tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận cho mở
thêm một số Chi nhánh nữa đó là Chi nhánh Cần Thơ; Chi nhánh Quảng Ninh; Chi
nhánh Vĩnh Phúc; Chi nhánh Thanh Xuân; Chi nhánh Thăng Long; Chi nhánh Tân
19
Phú; Chi nhánh Cầu Giấy; Chi nhánh Bắc Giang. Cũng trong năm 2005, NHNN đã
chấp thuận cho VPBank được nâng cấp một số phòng giao dịch thành chi nhánh.

Bên cạnh việc mở rộng mạng lưới giao dịch trên đây, trong năm 2006, VPBank
cũng đã mở thêm hai Công ty trực thuộc đó là Công ty Quản lý thác tài sản (VP
Bank AMC) Công ty chứng khoán VPBank (VPBS).
VPBank có tổng số 134 chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc.Tại Hà
Nội : Có 1 trụ sở chính và 46 chi nhánh và Phòng giao dịch.Tại khu vực Miền trung có
27 chi nhánh và phòng Giao dịch Tại Miền Nam có 35 chi nhánh và Phòng Giao dịch
2.2.1.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức hoạt động
Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng có gồm có các phòng ban, nghiệp vụ như sau:
Phòng Kế toán giao dịch
Phòng Khách hàng số 1
Phòng Khách hàng số 2
Phòng Khách hàng cá nhân
Phòng Tổ chức hành chính
Phòng Tổng hợp và tiếp thị
Phòng Tài trợ thương mại
Phòng Tiền tệ kho quỹ
Phòng Thông tin điện toán
Phòng Kế toán tài chính
Phòng Kiểm tra nội bộ
Các phòng Giao dịch
Quỹ tiết kiệm / Điểm giao dịch
Các phòng ban được qui định chức năng, nhiệm vụ chi tiết phù hợp với mô
hình tổ chức và phương thức quản lý mới nhưng không trái chức năng, nhiệm vụ cơ
bản do Hội đồng quản trị VPBank qui định.
20
Bi?u đ? 8: L?i nhu?n trư?c thu?
650
3,968
2,103
2,142

2,912
-
500
1,000
1,500
2,000
2,500
3,000
3,500
4,000
4,500
2006 2997 2008 2009 30/11/2010
T? VND
2.2.1.3. Một số kết quả hoạt động kinh doanh trong những năm gần đây

Biểu đồ 2.1: Tổng tài sản Biểu đồ 2.2. Lợi nhuận trước thuế
Nguồn số liệu: Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng, Báo cáo thường niên
năm 2006,2007,2008,2009 và Báo cáo họp giao ban tháng 12/2010
Mặc dù chịu ảnh hưởng và tác động rất nhiều từ cuộc suy thoái kinh tế thế
giới, nhưng kết quả hoạt động kinh doanh của VPBANK trong những năm vừa qua
vẫn hết sức khả quan.
Tổng tài sản của VPBANK tăng trưởng ổn định qua các năm với quy mô
tăng trưởng trung bình là 50.000 tỷ/năm. Đặc biệt, tính từ năm 2006 đến năm 2010
tổng tài sản của VPBANK đã tăng gấp đôi từ 158.165 tỷ lên 343.322 tỷ đồng.
Dư nợ tín dụng tăng trưởng có kiểm soát: đến tháng 11/ 2010 dư nợ tín dụng
của VPBANK đạt 232.227 tỷ, tăng hơn 2,5 lần so với năm 2006 và tương ứng với
mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 24,9%/năm. Mức tăng trưởng này được đánh
giá là phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cũng như tăng trưởng tín dụng
toàn ngành ngân hàng, thị phần tín dụng của VPBANK chiếm 10,6%.
Chất lượng và cơ cấu tín dụng: Từ tháng 11 năm 2006, VPBANK đã xây

dựng và áp dụng thành công hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo thông lệ quốc
21
Tỷ VND
tế, đến năm 2010, tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát ở mức 2,3%, đảm bảo được kế hoạch
mà ngân hàng VPBANK đã đặt ra. Tỷ lệ nợ nhóm 2 trên tổng dư nợ đến 30/11/2010
đạt 11,3%, giảm dần trong giai đoạn 2006-2010, hướng dần đến thông lệ quốc tế.
Tỷ trọng dư nợ ngoài quốc doanh tăng dần qua từng năm trong giai đoạn 2006-
2010, hiện chiếm 75% tổng dư nợ, tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo được giữ ổn
định quanh mức 70%/năm, tỷ trọng trung dài hạn trên tổng dư nợ đã giảm dần qua
các năm, chiếm 43,5% tổng dư nợ và đạt được mức giới hạn giao năm 2010.
Trong khi đó, lợi nhuận trước thuế hàng năm của VPBANK tăng trưởng một
cách ổn định, luôn đảm bảo năm sau cao hơn năm trước: đến tháng 11/2010 đạt
3.968 tỷ, tăng gấp 6 lần so với năm 2006, tương ứng với mức tăng trưởng bình quân
giai đoạn 2006-2010 đạt mức 46%/năm, cao hơn so với mục tiêu đề ra (40%). Lợi
nhuận tăng trưởng đột biến ở năm 2007 từ 650 tỷ đồng lên 2.103 tỷ đồng, tăng nhẹ
trong năm 2008 ở mức 2.142 tỷ đồng và tăng đều từ năm 2008 đến nay (từ l2.142 tỷ
năm 2008 lên 2.912 tỷ năm 2009 và đến 30/11/2010 là 3.968 tỷ).
Các chỉ tiêu phản ánh về khả năng sinh lời ROA, ROE đều cao, hoàn thành
được kế hoạch mà ngân hàng đề ra đồng thời phù hợp theo thông lệ quốc tế (các chỉ
số ROA, ROE lần lượt ở các năm 2008: 0,8% và 19,38%; năm 2009: 0,94% và
21,04%; đến 30/11/2010: 1% và 14,03%).
2.2.2. Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng VPBank trong
những năm gần đây
2.2.2.1. Quy mô tăng trưởng và thị phần huy động vốn
Trong giai đoạn từ 2006 – 2010, quy mô huy động vốn của VPBANK đã
tăng trưởng cao với tốc độ tăng trưởng bình quân cả giai đoạn là 18,5%/năm, nâng
tổng quy mô huy động vốn từ mức 121.665 tỷ đồng năm 2006 lên mức 239.746 tỷ
đồng tại thời điểm 31/12/2010.
22
Bảng 2.1: Tăng trưởng huy động vốn giai đoạn 2006 – 2010

Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Tăng trưởng tuyệt đối Tăng trưởng tương đối
30/11/10 2009 2008 2007 ‘10/'09 ‘09/'08 '08/’07 ‘07/'06
HĐV cuối kỳ 27.730 26.044 36.595 27.712 13,1% 14,0% 24,5% 22,8%
HĐV BQ 30.382 37.504
17.05
3
44.93
6
15,3% 23,3% 11,9% 45,5%
Nguồn số liệu: Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng, Báo cáo thường niên
năm 2006,2007,2008,2009 và Báo cáo họp giao Ban tháng 12/2010
1
Theo Bảng 2, huy động vốn cuối kỳ tại VPBANK tăng trưởng đều và ổn
định, quy mô tăng trưởng bình quân hàng năm là 27.360 tỷ/năm tương đương
18,5%/năm. Năm 2008, đánh dấu năm VPBANK có tốc độ tăng trưởng tuyệt đối
(36.595 tỷ) và tương đối (24,5%) cao nhất trong giai đoạn 2006 - 2010 do sự tăng
đột biến về nguồn vốn USD từ các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước. Trong đó,
tăng trưởng 2010 so với 2009 là: 13,1% tương đương 27.730 tỷ đồng; 2009 so với
2008 là: 14,0% tương đương 26.044 tỷ đồng; 2008 so với 2007 là 24,5% tương
đương 27.712 tỷ đồng.
Huy động vốn bình quân đạt tăng trưởng bình quân là 23.292 tỷ/năm tương
đương 23,4%/năm. Trong đó tăng trưởng năm 2010 so với 2009 là: 15,3% tương
đương 30.382 tỷ đồng; 2009 so với 2008 là: 23,3% tương đương 37.504 tỷ đồng;
2008 so với 2007 là 11,9% tương đương 17.053 tỷ đồng.
Thị phần huy động vốn của VPBANK có xu hướng sụt giảm chung cùng với
xu hướng sụt giảm huy động vốn của khối ngân hàng do sự mọc lên của nhiều ngân
hàng thương mại cổ phần.
1

Chú thích: HĐV - Huy động vốn, BQ - Bình quân, ‘10/’09 – Tăng trưởng năm 2010 so với năm 2009…
23
2.2.2.2. Cơ cấu huy động vốn
* Theo đối tượng khách hàng:
Nguồn: Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng, Báo cáo thường niên năm 2006,
2007, 2008, 2009 và Báo cáo họp giao Ban tháng 12/2010
Nhóm khách hàng dân cư: Từ năm 2007 – năm 2010 quy mô huy động vốn
từ nguồn dân cư liên tục tăng trưởng nhanh, năm 2007 đạt 52.095 tỷ đồng, năm
2008 đạt 58.251 tỷ đồng, năm 2009 là 74.339 tỷ đồng và đến năm 2010 là 94.231 tỷ
đồng tăng gấp 1,8 lần so với năm 2007. Nguồn vốn huy động được từ dân cư cũng
là nguồn có mức tăng trưởng huy động vốn cao nhất trong ba nhóm với mức tăng
bình quân 22,1%/năm góp phần làm tăng tỷ trọng nguồn vốn huy động nhóm khách
hàng này từ mức 33%, đứng ở vị trí thứ hai sau nhóm tổ chức kinh tế ở năm 2007
và đã dẫn đầu về tỷ trọng là 39% tính đến ngày 31/12/2010.
Nhóm khách hàng tổ chức kinh tế có tốc độ tăng trưởng huy động bình quân
12,4% trong cả giai đoạn, liên tục chiếm giữ tỷ trọng chủ đạo từ 2007-2009 với quy
mô huy động vốn năm 2007 là 65.791 tỷ đồng, năm 2008 là 90.816 tỷ đồng, năm
2009 là 100.118 tỷ đồng. Tuy nhiên sang năm 2010, với sự sụt giảm mạnh của
24

×