LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới nền kinh tế, để từng bước phát triển, hội
nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trải qua nhiều khó
khăn, thử thách nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Để đạt
được điều đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành Ngân hàng với vai trò là "đòn bẩy
kinh tế" thông qua hoạt động tín dụng.
Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sự
phát triển cân đối của các ngành, các lĩnh vực khác theo định hướng của Nhà nước.
Tín dụng ngân hàng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho Ngân hàng thương mại. Tuy
nhiên, hoạt động tín dụng ngân hàng lại là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng không chỉ tác động tới bản thân ngân hàng
thương mại mà còn tác động tiêu cực tới nền kinh tế. Chính vì vậy, công tác hạn chế
rủi ro tín dụng luôn được các Ngân hàng thương mại quan tâm.
Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, sau thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân
hàng TMCP Công thương Thái Bình, tôi đã quyết định chọn đề tài: "Giải pháp hạn
chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, Chi nhánh Thái
Bình ".
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề này là:
- Nghiên cứu vấn đề rủi ro tín dụng trên phương diện lý thuyết: Bản chất của rủi
ro tín dụng, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cũng như tác động của nó tới bản
thân Ngân hàng Thương mại và với nền kinh tế.
- Thông qua việc phân tích thực trạng hoạt động tín dụng của Chi Nhánh Ngân
hàng TMCP Công thương Thái Bình để đánh giá được tình hình rủi ro trong hoạt
động tín dụng của Chi nhánh.
- Đưa ra một số ý kiến nhận xét và đề xuất các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro
trong hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng TMCP Công Thương Thái Bình.
Để giải quyết từng vấn đề trên, chuyên đề được thiết kế làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hạn chế rủi ro tính dụng tại Ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công
Thương Việt Nam, Chi nhánh Thái Bình.
Chương 3: Các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng ở NHTMCP Công
Thương Việt Nam, Chi nhánh Thái Bình.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍNH
DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tín dụng ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng thương mại
Tín dụng là quan hệ vay mượn bằng tiền tệ giữa bên cho vay và bên đi vay dựa
trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn và lãi vào một thời điểm xác định như
hai bên đã thoả thuận. Tín dụng Ngân hàng dùng để chỉ quan hệ vay mượn giữa Ngân
hàng và khách hàng. Tuy nhiên trong thực tế do tính chất phức tạp của hoạt động Ngân
hàng mà hoạt động nhận tiền gửi và hoạt động cho vay được tách riêng do hai bộ phận
chuyên môn độc lập nhau đảm nhận: bộ phận Nguồn vốn và bộ phận Tín dụng. Hoạt
động nhận tiền gửi không gọi là hoạt động Tín dụng mà gọi là hoạt động Huy động
vốn do bộ phận nguồn vốn đảm nhận. Bộ phận tín dụng chuyên làm nghiệp vụ cho
vay. Như vậy, sẽ phù hợp hơn khi sử dụng định nghĩa sau: Tín dụng Ngân hàng là
quan hệ vay mượn bằng tiền tệ giữa một bên là Ngân hàng đóng vai trò là người cho
vay và một bên là các cá nhân, tổ chức trong xã hội là người đi vay dựa trên nguyên
tắc người đi vay cam kết hoàn trả cả gốc và lãi vào một thời điểm xác định do hai bên
đã thoả thuận
Tín dụng Ngân hàng khác với tín dụng của các loại hình tín dụng khác là Ngân
hàng cho khách hàng vay từ nguồn mà khách hàng nhận tiền gửi từ dân cư, các doanh
nghiệp, các tổ chức khác…Ngân hàng hưởng lợi từ việc chênh lệch lãi suất cho vay và
lãi suất tiền gửi. Tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho Ngân hàng
nhưng cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất.Vì vậy tín dụng Ngân hàng phải
tuân thủ các nguyên tắc cơ bản.
1.1.2 Các hình thức tín dụng
Để mở rộng tín dụng có hiệu quả, các Ngân hàng, bên cạnh việc xây dựng và
thực hiện chính sách Tín dụng đúng đắn, phải không ngừng đa dạng hóa các hình thức
tín dụng phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng.
Hiện nay có rất nhiều hính thức tín dụng được các Ngân hàng thương mại đưa
ra. Để sử dụng và quản lý có hiệu quả tín dụng vần có sự phân loại tín dụng. Phân loại
tín dụng là sự sắp sếp tín dụng theo một số tiêu chí nhất định.
Có các tiêu thức để phân loại tín dụng sau:
- Phân loại tín dụng theo thời gian: Tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài
hạn.
- Phân loại tín dụng theo hình thức cấp tín dụng có các loại: Chiết khấu, cho vay,
cho thuê tài chính, bảo lãnh. Đặc biệt trong cho vay các Ngân hàng còn phân loại theo
các hình thức như: Thấu chi, cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp, cho vay luân chuyển,
cho vay trả góp.
- Phân loại theo đối tượng khách hàng được cấp tín dụng có: tín dụng đối với
khách hàng là đơn vị kinh doanh và đối tượng khách hàng là người tiêu dùng.Trong
khách hàng là đơn vị kinh doanh có thể phân chia thành: khách hàng có Vốn chủ sở
hữu lớn như các Tổng công ty, các tập đoàn, Doanh nghiệp có số vốn chủ sở hữu
lớn…và khách hàng có Vốn chủ sở hữu nhỏ như các Doanh nghiệp vừa và nhỏ, HTX,
hộ sản xuất cá thể…
- Phân loại theo tài sản đảm bảo có: Tín dụng có tài sản đảm bảo như thế chấp,
cầm cố tài sản và tín dụng không cần có tài sản đảm bảo( đây là loại tín dụng cung cấp
cho các khách hàng có uy tín, thường xuyên, hay là các là các khoản cho vay theo chỉ
thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu không cần tài sản đảm bảo).
- Phân loại tín dụng theo thành phần kinh tế có: Tín dụng đối với Doanh nghiệp
Nhà nước, Doanh nghiệp tư nhân, hộ sản xuất…
1.1.3 Chính sách tín dụng
Nhà nước có chính sách động viên các nguồn lực trong nước là chính và tranh
thủ tối đa nguồn lực ngoài nước; mở rộng đầu tư tín dụng, góp phần giải phóng mọi
năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, bảo đảm cho
doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,
chủ quyền quốc gia; bảo đảm an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia; mở rộng hợp
tác và hội nhập quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao
đời sống của nhân dân.
Chính sách tín dụng đối với doanh nghiệp nhà nước
Nhà nước có chính sách tín dụng về vốn, điều kiện vay đối với doanh nghiệp nhà
nước, tạo điều kiện để các doanh nghiệp này đổi mới thiết bị, hiện đại hoá công nghệ,
mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế quốc dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Chính sách tín dụng đối với hợp tác xã và các hình thức kinh tế hợp tác
khác
Nhà nước có chính sách tín dụng tạo điều kiện về vốn, điều kiện vay nhằm hỗ trợ
cho hợp tác xã và các hình thức kinh tế hợp tác khác đổi mới và phát triển; bảo đảm
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế hợp tác trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Chính sách tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân
Nhà nước có chính sách tín dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện, thời hạn vay
vốn đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân nhằm góp phần xây dựng cơ sở vật
chất, kết cấu hạ tầng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, phát
triển sản xuất hàng hoá, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông
thôn.
Chính sách tín dụng đối với miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn
Nhà nước có chính sách tín dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện, thời hạn vay
vốn, mở rộng đầu tư phát triển kinh tế hàng hoá, giao lưu kinh tế miền núi, hải đảo,
vùng sâu, vùng xa và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Chính sách tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác
1. Nhà nước có chính sách tín dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện và
thời hạn vay đối với người nghèo, các đối tượng chính sách khác để có điều kiện phát
triển sản xuất, kinh doanh.
2. Nhà nước có chính sách tín dụng ưu đãi về lãi suất, điều kiện và thời hạn
vay tiền đối với học sinh nghèo để có điều kiện học tập.
1.1.4 Quy trình tín dụng
Bước 1: Lập hồ sơ vay vốn
Bước này do cán bộ tín dụng thực hiện ngay sau khi tiếp xúc khách hàng. Nhìn chung
một bộ hồ sơ vay vốn cần phải thu thập các thông tin như:
• năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng
• khả năng sử dụng vốn vay
• khả năng hoàn trả nợ vay (vốn vay + lãi)
Bước 2: Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là xác định khả năng hiện tại và tương lại của khách hàng trong việc
sử dụng vốn vay + hoàn trả nợ vay.
Mục tiêu:
• Tìm kiếm những tình huống có thể xảy ra dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, dự
đoán khả năng khắc phục những rủi ro đó, dự kiến những biện pháp giảm thiểu rủi ro
và hạn chế tổn thất cho ngân hàng.
• Phân tích tính chân thật của những thông tin đã thu thập được từ phía khách
hàng trong bước 1, từ đó nhận xét thái độ, thiện chí của khách hàng làm cơ sở cho việc
ra quyết định cho vay.
Bước 3: Ra quyết định tín dụng
Trong khâu này, ngân hàng sẽ ra quyết định đồng ý hoặc từ chối cho vay đối với một
hồ sơ vay vốn của khách hàng.
Khi ra quyết định, thường mắc 2 sai lầm cơ bản:
• Đồng ý cho vay với một khách hàng không tốt
• Từ chối cho vay với một khách hàng tốt.
Cả 2 sai lầm đều ảnh hưởng đến hoạt đông kinh doanh tín dụng, thậm chí sai lầm
thứ 2 còn ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
Bước 4: Giải ngân
Ở bước này, ngân hàng sẽ tiến hành phát tiền cho khách hàng theo hạn mức tín dụng
đã ký kết trong hợp đồng tín dụng.
Nguyên tắc giải ngân: phải gắn liền sự vận động tiền tệ với sự vận động hàng hóa hoặc
dịch vụ có liên quan, nhằm kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của khách hng và đảm
bảo khả năng thu nợ. Nhưng đồng thời cũng phải tạo sự thuận lợi, tránh gây phiền hà
cho công việc sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Bước 5: Giám sát tín dụng
Nhân viên tín dụng thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay thực tế của khách
hàng, hiện trạng tài sản đảm bảo, tình hình tài chính của khách hàng, để đảm bảo khả
năng thu nợ.
Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng
Thanh lý hợp đồng là quá trình kết thúc của hợp đồng vốn vay.
1.2. Rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về rủi ro, tuỳ thuộc vào chủ thể và hoạt động
của chủ thể đó trong mối quan hệ với các yếu tố khác của môi trường. Tuy nhiên, các
quan niệm đó đều thống nhất một nội dung coi rủi ro là sự bất trắc không mong đợi,
gây ra thiệt hại cà có thể đo lường được.
Như vậy, trong hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng thì
vấn đề rủi ro là không thể tránh khỏi. Vì thế, các nhà quản trị không thể loại bỏ được
rủi ro mà chỉ có thể phát hiện kịp thời để có những biện phát chủ động xử lý. Trong sự
cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường hiện nay, các nhà quản trị phải biết nhận
biết và dự đoán trước cá rủi ro để sớm đưa ra các giải pháp phòng ngữa chống đỡ tác
hạ của nó.
1.2.2 Các dấu hiệu của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng xảy ra khi người vay không trả được nợ lãi và nợ gốc đúng hạn,
đầy đủ. Theo phương thức quản lý rủi ro tín dụng hiện nay, người ta chia rủi ro tín
dụng thành bốn cấp độ theo mức độ rủi ro
•Không thu được lãi đúng hạn
Cấp độ thấp nhất khi người vay không trả được lãi đúng hạn, khi đó Ngân hàng
sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh. Hình thức rủi ro này được xếp
vào mức rủi ro thấp vì ngoại trừ trường hợp khách hàng muốn chiếm dụng vốn thì
phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu cân đối trong kỳ hạn thu nợ và trả nợ của khách
hàng.
•Không thu được vốn đúng hạn
Khi không thu được vốn đúng hạn tình hình dường như nghiêm trọng hơn, một
phần do một lượng vốn vay lớn bị mất. Khi đó, Ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang
mục nợ quá hạn phát sinh. Khoản mục này phát sinh vào thời gian đáo hạn của hợp
đồng tín dụng. Tuy nhiên, đấy chưa phải là khoản mất mát hiện thực của Ngân hàng vì
có thể tiến độ hoạt động kinh doanh của khách hàng bị chậm so với kế hoạch đã đề ra
trình Ngân hàng.
•Không thu được đủ lãi
Khi ngân hàng không thu được đủ lãi thì tình hình đã trở nên nghiêm trọng hơn.
Tình hình kinh doanh của khách hàng có thể đã kém hiểu quả đến mức không thể trả
đủ lãi cho Ngân hàng. Khi đó, Ngân hàng phải chuyển khoản lãi này vào khoản mục
lãi treo đóng băng và thậm chí có thể phải thực hiện miễn giảm lãi cho khách hàng.
•Không thu đủ vốn cho vay
Tình huống xấu nhất xảy ra khi ngân hàng không thu đủ vốn cho vay và lúc này
Ngân hàng đã bị mất vốn. Tại thời điểm này, Ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ vào mục
nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xoá nợ, coi như khép lại một hợp đồng tín
dụng không có hiệu quả.
Trên đây chủ yếu là bốn hình thức giúp cho NHTM phân biệt rủi ro tín dụng và
có biện pháp xử lý. Tuy nhiên, không phải lúc nào gặp rủi ro tín dụng thì Ngân hàng
đều phải trải qua bốn trường hợp trên. Có những trường hợp khách hàng đã trả lãi rất
đầy đủ và đúng hạn nhưng cuối cùng lại không thể trả được nợ gốc cho Ngân hàng. Vì
vậy, khi nghiên cứu về rủi ro tín dụng, người ta thường chú trọng vào các trường hợp
có nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng như là lãi treo phát sinh và đặc biệt là nợ quá hạn
phát sinh. Còn ở các trường hợp khác có lãi treo đóng băng hay nợ không có khả năng
thu hồi được coi là rủi ro thực sự nên thường được xem xét để giải quyết hậu quả và
rút ra những bài học kinh nghiệm.
1.2.3 Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
Rủi ro gây ra làm thiệt hại rất lớn cho bất cứ ai phải đương đầu với nó. Muốn tồn
tại và phát triển trong cạnh tranh, các doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng cần
phải dự đoán được rủi ro để có những giải pháp quản lý và phòng chống rủi ro cũng
như chấp nhận rủi ro mức độ hợp lý. Không có công việc kinh doanh nào lại không có
rủi ro, nhưng rủi ro quá giới hạn cho phép thì kinh doanh sẽ lỗ thậm chí phá sản. Cán
bộ ngân hàng cần ý thức được rằng: các chiến lược kinh doanh vạch ra cho dù cẩn
thận, tỷ mỷ đến đâu vẫn có thể gặp thất bại. Chiến lược kinh doanh càng táo bạo, cạnh
tranh càng khốc liệt thì các nhà kinh doanh càng dễ thu lợi nhuận lớn song cũng dễ
vướng phải tổn thất nặng nề.
Rủi ro trong kinh doanh là một tất yếu, nó có thể xuất hiện ở khâu này hay khâu
khác dưới nhiều dáng thức khác nhau. Chỉ cần một sơ suất nhỏ hoặc một quyết định
thiếu kịp thời: nên đầu tư hay rút vốn ra… cũng có thể đưa đến cho ngân hàng những
bất trắc khó lường. Vì vậy trong kinh doanh ngân hàng cần thiết phải đo lường rủi ro
•Kết cấu dư nợ tín dụng
Dựa vào kết cấu dư nợ tín dụng mà ta có thể xác định rủi ro tín dụng của ngân
hàng cao hay thấp. Nếu kết cấu dư nợ quá hạn tập trung vào một số doanh nghiệp hoặc
thành phần kinh tế chuyên sản xuất kinh doanh trong một hoặc một số lĩnh vực nhất
định sẽ có rủi ro lớn do tập trung vốn cao. Khi tập trung vốn cao vào một lĩnh vực như
vậy và khi xảy ra biến động trong thị trường, doanh nghiệp, lĩnh vực đầu tư mà Ngân
hàng phê duyệt bị mất thị trường, sản phẩm không tiêu thụ được, các doanh nghiệp
phá sản khiến cho Ngân hàng không thu hồi được nợ.
Như vây, dựa vào kết cấu tín dụng ( theo thành phần, đối tượng, ngành nghề, thời
hạn) kết hợp với việc phân tích các yếu tố liên quan tới khách hàng, thị trường của
Ngân hàng và của khách hàng ta có thể đánh giá rủi ro tíndụng là cao hay thấp
•Tỷ lệ nợ quá hạn / Dư nợ tín dụng
Hoạt động của Ngân hàng và doanh nghiệp đều tránh tình trạng nợ quá hạn.Về
phía doanh nghiệp đi vay vốn, nếu quá hạn không trả được nợ sẽ mất uy tín, phải chịu
một lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất trong hạn, đối với ngân hàng, nợ quá hạn sẽ làm
tăng tỷ lệ nợ quá hạn/ Dư nợ tín dụng. tỷ lệ này gián tiếp cho thấy qui mô của các
khoản vay có vấn đề của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này quá lớn chứng tỏ chất lượng tín
dụng của ngân hàng kém, ngân hàng phải xem xét lại khả năng đánh giá lại các khoản
cho vay của mình, đánh giá lại quy trình thủ tục cho vay, đặc biệt là xem xét lại khả
năng đánh giá lại các khoản cho vay của minh, đánh giá lại quy trình thủ tục cho vay,
đặc biệt là xem xét lại khả năng thực hiện nhiệm vụ của các cán bộ tín dụng.
Tuy nhiên, nợ quá hạn không phải là tổn thất của Ngân hàng, đây vẫn là chỉ tiêu
gián tiếp. Bởi vì không phải tất cả các khoản nợ quá hạn này sẽ dẫn đến rủi ro.
•Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng mất vốn/ Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng mất vốn/ Dư nợ quá hạn là chỉ tiêu trực tiếp phản
ánh rủi ro. Nó cho thấy trong một đồng nợ quá hạn thì có bao nhiêu đồng bị tổn thất.
Nói một cách khác, chỉ tiêu phản ánh mức độ có thể gây ra rủi ro trong số nợ của Ngân
hàng.
Nợ quá hạn có khả năng mất vốn thường bao gồm những khoản nợ quá hạn có
thời gian quá hạn lớn (6 tháng trở lên). Đối với Ngân hàng, việc duy trì các chỉ tiêu
này với tỷ lệ cao trong các báo cáo tài chính là điều khó chấp nhận. Ngân hàng luôn
tìm cách giảm chỉ tiêu này xuống và biện phát duy nhất là tích cực thu các khoản này.
Những khoản nào thực sự không thu hồi được phải hạch toán vào chi phí hoạt động
của Ngân hàng và lấy quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp.
1.2.4 Những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
•Nguyên nhân từ phía ngân hàng
- Việc mở rộng hoạt động tín dụng quá mức thường tạo điều kiện cho rủi ro tín
dụng của ngân hàng tăng lên.Mở rộng tín dụng quá mức đồng nghĩa với việc lựa chọn
khách hàng kém kỹ càng,khả năng giám sát của cán bộ tín dụng đối với việc sử dụng
khoản vay giảm xuống đồng thời cũng làm cho việc tuân thủ chặt chẽ theo quy trình
tín dụng bị lơi lỏng.
- Trình độ cán bộ hạn chế,nhất là cán bộ tín dụng người trực tiếp nhận hồ sơ
khách hàng, phân tích và thẩm định khách hàng cũng như dự án vay vốn.Vì vậy nếu
trình độ cán bộ tín dụng không cao, thẩm định không tốt, có thể chấp nhận cho vay
những khoản vay không khả thi hoặc bị khách hàng lừa gạt.
- Quy chế cho vay chưa chặt chẽ, quá cụ thể hoặc quá linh hoạt đều khiến cho
NHTM gặp phải rủi ro tín dụng.Việc đánh giá giá trị tài sản thế chấp, cầm cố cũng là
vấn đề rất lớn, hiện nay đang là vấn đề nổi cộm trong quy chế tín dụng tại các NHTM.
- Sự cạnh tranh không lành mạnh nhằm thu hút khách hàng giữa các NHTM
khiến cho việc thẩm định khách hàng trở nên sơ sài,qua loa hơn. Hơn nữa, nhiều
NHTM do quá chú trọng đến lợi nhuận nên đã chấp nhận rủi ro cao, bất chấp những
khoản vay không lành mạnh, thiếu an toàn.
- Ngoài ra, còn rất nhiều nhân tố khác thuộc về NHTM gây ra rủi ro tín dụng
như: chất lượng thông tin và xử lý thông tin trong NHTM, cơ cấu tổ chức và quản lý
đội ngũ cán bộ, năng lực công nghệ
•Nguyên nhân từ phía khách hàng
- Đối với các doanh nghiệp, kinh nghiệm và năng lực hoạt động kinh doanh còn
đang ở trình độ thấp, hầu hết các doanh nghiệp này đều không nắm bắt được thông tin
kịp thời, thiếu thích nghi với cạnh tranh. Vì vậy, khi dự án vay vốn gặp khó khăn, khả
năng trả nợ của khách hàng gặp vấn đề, rủi ro tín dụng là điều không thể tránh khỏi.
- Lợi dụng điểm yếu của NHTM, nhiều khách hàng đã tìm cách lừa đảo để được
vay vốn. Họ lập phương án sản xuất kinh doanh giả, giấy tờ thế chấp cầm cố giả mạo,
hoặc đi vay ở nhiều ngân hàng với cùng bộ hồ sơ.
- Sử dụng sai mục đích so với hợp đồng tín dụng khiến cho nguồn trả nợ trở nên
bấp bênh. Vì vậy, khi khách hàng đã sử dụng vốn sai mục đích, việc thanh toán gốc và
lãi đúng hạn rất khó xảy ra,rủi ro tín dụng xuất hiện.
- Việc trốn tránh trách nhiệm và nghĩa vụ đã uỷ quyền và bảo lãnh cũng là một
nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho NHTM. Một số công ty, tổng công ty đứng ra bảo lãnh
hoặc uỷ quyền cho các chi nhánh trực thuộc thực hiện vay vốn của NHTM để tránh sự
kiểm tra giám sát của ngân hàng cho vay chính.Khi đơn vị vay vốn mất khả năng
thanh toán, bên bảo lãnh và uỷ quyền không chịu thực hiện việc trả nợ thay.
•Nguyên nhân khác
- Do môi trường pháp lý chưa hoàn thiện và đồng bộ, hoặc thay đổi theo hướng bất lợi
cho doanh nghiệp thì cũng khiến các khoản vay NHTM gặp khó khăn.
- Do sự biến động của kinh tế như suy thoái kinh tế, biến động tỷ giá, lạm phát
gia tăng ảnh hưởng tới doanh nghiệp cũng như ngân hàng.
- Ngân hàng không theo kịp đà phát triển của xã hội, nhất là sự bất cập trong
trình độ chuyên môn cũng như công nghệ ngân hàng.
- Ngoài ra, những rủi ro từ môi trường thiên nhiên như động đất, bão lụt, hạn
hán, tác động xấu tới phương án đầu tư của khách hàng, làm cho khách hàng khó có
nguồn trả nợ ngân hàng, từ đó cũng gây ra rủi ro tín dụng.
1.2.5. Quy trình quản lý rủi ro tín dụng.
Bước 1: Phân hạng danh mục rủi ro tín dụng.
Bước 2: Rà soát, xếp hạng rủi ro.
Bước3: Danh mục rủi ro rín dụng cần giám sát, nội dung giám sát.
Bước 4: Lập phương pháp giám sát hợp lý.
Bước 5: Quá trình kiểm tra, đánh giá.
Bước 6: Các dấu hiệu cảnh báo về những khoản tín dụng có khả năng có vấn đề.
1.2.6. Hoạt động xử lý rủi ro tín dụng của NHTM.
- Xử lý các nguyên nhân chủ quan về phía NHTM
+ Tổ chức hợp lý và khoa học quy trình tín dụng theo hướng chặt chẽ và có hiệu
quả, tập trung vào ba giai đoạn: nghiên cứu khách hàng, giám sát khách hàng vay và
thu nợ.
+ Thực hiện đa dạng hoá khách hàng và phương thức cho vay nhằm phân tán rủi
ro.
+ Nâng cao trình độ năng lực đội ngũ cán bộ, nhất là năng lực thẩm định dự án,
thẩm định khách hàng.
+ Xây dựng chiến lược khách hàng.
- Xử lý nợ quá hạn:Khi một khoản cho vay có vấn đề thì không phải NHTM sẽ
mất trắng. NHTM cần phải tìm cách thu hồi toàn bộ hoặc một phần khoản vay. Có hai
sự lựa chọn đối với xử lý nợ quá hạn: khai thác hoặc thanh lý. Tuy vậy cần nhấn mạnh
ở đây ba nguyên tắc xử lý nợ quá hạn là: chống xoá nợ, hạn chế gia nợ, chống đảo nợ.
+ Khai thác là một quá trình làm việc với người vay cho đến khi khoản nợ được
trả một phần hay toàn bộ mà không dựa vào các công cụ pháp lý để ép buộc thu nợ.
+ Thanh lý đối với các khoản nợ có vấn đề,nợ khó đòi được thực hiện khi việc tổ
chức khai thác tỏ ra không hiệu quả. Các công cụ để thực hiện thanh lý bao gồm: phát
mại tài sản thế chấp, kết hợp với cơ quan pháp lý để ép buộc thu hồi nợ, sử dụng
nghiệp vụ mua bán nợ trên thị trường.
- Trích lập dự phòng tổn thất:Việc trích lập dự phòng tổn thất được thực hiện đối
với các khoản nợ quá hạn,chia theo 5 nhóm, tỷ lệ trích lập khác nhau:
+ Nhóm 1: 0%
+ Nhóm 2: 5%
+ Nhóm 3: 20%
+ Nhóm 4: 50%
+ Nhóm 5: 100%
1.2.7 Hậu quả của rủi ro tín dụng
•Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng
Những khoản tín dụng gặp rủi ro gây cho ngân hàng những thiệt hại về mặt tài
chính khi không thu được vốn và lãi trực tiếp làm giảm lợi nhuận Ngân hàng.
Trong trường hợp Ngân hàng thu được lãi treo hay nợ quá hạn thì cũng làm Ngân
hàng mất cơ hội đầu tư vào những dự án khả thi, có khả năng mang lại lợi nhuận.
•Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng
Rủi ro tín dụng đã khiến cho việc hoàn trả tiền gửi của Ngân hàng gặp nhiều khó
khăn. Các khoản đầu tư, cho vay bị thoất thoát hoặc chậm thu hồi trong khi Ngân hàng
vẫn phải đều đặn trả lãi vốn huy động theo đúng kỳ hạn. Chính điều này đã làm hạn
chế khả năng thanh toán của Ngân hàng.
•Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của ngân hàng
Rủi ro tín dụng đã làm giảm uy tín của Ngân hàng và ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của của Ngân hàng. NHTM gặp nhiều rủi ro là Ngân hàng hoạt động kém
hiệu quả. Điều này đã làm cho uy tín của ngân hàng bị giảm sút. Đây là một vấn đề rất
tệ hại, khách hàng mất lòng tin ở Ngân hàng, họ sẽ không gửi tiền vào Ngân hàng,
thậm chí họ có thể còn rút lại những khoản tiền đã gửi. Điều đó đã gây khó khăn cho
việc huy động vốn của Ngân hàng làm giảm quy mô hoạt động của Ngân hàng. NHTM
gặp rủi ro cũng sẽ làm mất lòng tin đối với các Ngân hàng bạn, Ngân hàng nước ngoài
nên rất khó có thể nhận được những khoản tín dụng từ phía họ khi cần thiết. Ngoài ra,
Ngân hàng khó có thể có các quan hệ đại lý làm cầu nối trong thanh toán quốc tế, phát
triển các dịch vụ của Ngân hàng.
•Rủi ro tín dụng là nguy cơ dẫn đến phá sản ngân hàng
Ngân hàng gặp rủi ro tín dụng đã làm giảm sút lòng tin đặc biệt là đối với dân
chúng. Họ lo sợ bị mất những khoản tiền đã gửi và sẽ đến rút tiền để tìm cơ hội đầu tư
có lợi hơn ở một Ngân hàng khác. Trường hợp nghiêm trọng xảy ra khi có quá nhiều
người đến rút tiền về dẫn đến sự phá sản thực sự của Ngân hàng.
Hậu quả của sự phá sản Ngân hàng không chỉ bản thân Ngân hàng phải gánh
chịu mà nó còn liên quan đến các Ngân hàng bạn có quan hệ với ngân hàng. Điều này
sẽ tạo ra một phản ứng dây chuyền gây ra sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng khác
ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu
vực vừa qua bắt nguồn từ sự đổ vỡ của hệ thống các NHTM đã làm cho nền kinh tế
của các nước trong khu Vực bị điêu đúng. Chính điều này đã gây ta những rối loạn về
an ninh, chính trị, xã hội kéo theo hàng loạt những hậu quả khác như: Thất nghiệp,
lạm phát, tệ nạn xã hội nảy sinh. Đây là những bài học thấm thía có nguồn gốc từ
những rủi ro tín dụng của NHTM.
1.3. Hạn chế rủi ro tín dụng
1.3.1 Quan niệm về Hạn chế rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng khách hàng nhận khoản
vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với NH, gây tổn thất
cho NH, đó là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và
lãi cho NH.
Như vậy, hạn chế rủi ro tín dụng là các biện pháp, các nghiệp vụ nhắm hạn chế
các những tổn thất trong quá trình cấp pháp và quản lý tín dụng sao cho khách hàng
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của mình hoặc giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng tại
mức thấp nhât.
1.3.2. Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng
Vấn đề cấp bách hiện nay trong quản trị điều hành hoạt động kinh doanh ngân
hàng là làm sao để đảm bảo an toàn tín dụng, cải thiện tình hình tài chính và nâng cao
năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Dưới đây xin nêu những phương
thức quản lý tổng quát về đảm bảo an toàn cũng như các kỹ thuật thu nhập và xử lý
thông tin có thể áp dụng cho các NHTM trong việc kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro tín
dụng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTM trong thời gian tới, thực hiện
chiến lược đã đề ra.
* Phương thức hạn chế rủi ro tín dụng bằng cách nâng cao chất lượng tín dụng.
Phương pháp này được thực hiện chủ yếu thông qua việc phân tích thẩm định kỹ
lưỡng các thông tin tài chính và các thông tin phi tài chính của người nhận nợ và áp
dụng thủ tục cấp tín dụng chặt chẽ trước khi đầu tư nhằm phân loại khoản vay và các
đối tác vay vốn dựa vào mức độ rui ro tín dụng của nó để quản lý.
* Phương thức hạn chế rủi ro bằng cách trích lập dự phòng rủi ro
Tổ chức tín dụng trích lập ra một khoản dự phòng ngằm bù đắp cho những rủi ro
có thể xảy ra căn cứ vào mức độ rủi ro của các tài sản có.
* Phương thức hạn chế rủi ro bằng cách bảo hiểm rủi ro tín dụng.
Thị trường trái khoán hoặc NHTM yêu cầu người nhận nợ phải có một khoản chi
phí phụ thêm cho việc mua bảo hiểm nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp trong trường
hợp phá sản.
Chất lượng tín dụng càng cao thì tỷ lệ bảo hiểm rủi ro tín dụng càng thấp, khi rủi
ro tín dụng của một doanh nghiệp tăng lên, các nhà đầu tư trái khoán và các NHTM sẽ
yêu cầu tỷ lệ bảo hiểm tín dụng cao hơn.
Việc tăng lên của các khoản bảo hiểm này là cần thiết để bù đắp cho mất mát dự
kiến cao hơn về trái khoán hoặc khoản vay vì khả năng khoán vay sẽ không được hoàn
trả. Kết quả là mức độ thấp về chất lượng tín dụng có thề làm tăng chi phí vay của nó.
* Phương thức hạn chế rủi ro bằng cách phân tán rủi ro.
Nắm giữ nhiều tài sản có rủi ro thay vì tập trung nắm giữ một hay một số loại tài
sản có rủi ro nhất định. Việc phân tán rủi ro tín dụng cho nhiều người vay cho phép
các tổ chức tín dụng và các nhà đầu tư giảm rủi ro tín dụng đối với toàn bộ tài sản có.
Tập hợp nhiều loại cho vay trong một tài sản cho phép tổ chức tín dụng giảm sự
thay đổi về thu nhập của chúng. Thu nhập từ các khoản cho vay thành công sẽ bù đắp
phần lỗ từ những khoản cho vay bị vỡ nợ. Do đó làm giảm khả năng tổ chức tín dụng
đó sẽ bị thiệt hại.
* Phương thức hạn chế rủi ro bằng cách sử dụng thị trường bán nợ.
Sau khi đầu tư hoặc cho các doanh nghiệp vay, tổ chức tín dụng hoặc nhà đầu tư
lập tức tập hợp các tài sản có rủi ro (trái phiếu những khoản nợ có rủi ro tín dụng) và
bán cho các nhà đầu tư khác để chuyển đổi sở hữu khoản nợ nhằm quản lý và giảm
thiểu rủi ro tín dụng.
Theo quan điểm của các nhà đầu tư, việc mua các phần của gói nợ này là tương
đối hấp dẫn vì việc mở rộng danh mục đầu tư thông qua
Theo quan điểm của các nhà đầu tư, việc mua các phần của gói nợ này là tương
đối hấp dẫn vì việc mở rộng danh mục đầu tư thông qua nhiều khoản vay sẽ làm giảm
rủi ro tín dụng nói chung và làm tăng các khoản thu nhập từ gói nợ đã mua mà không
nhất thiết phải nắm giữ các tài liệu có này.
Như vậy, để hạn chế rủi ro tín dụng, các tổ chức tín dụng, các nhà đầu tư có thể
sử dụng các phương thức như nâng cao tín dụng, trích lập dự phòng rủi ro, bảo hiểm,
phân tán rủi ro tín dụng tài sản của rủi ro tín dụng với các tài sản khác và bán các phần
của nó cho các nhà đầu tư bên ngoài. Những phương thức như vậy có thể làm giảm rủi
ro tín dụng của các tổ chức tín dụng hoặc nhà đầu tư và những rủi ro tín dụng này có
thể được chia sẻ cho nhiều người sở hữu mới. Tuy nhiên việc sử dụng các công cụ này
có những hạn chế, cụ thể:
Việc áp dụng những thủ tục cấp dụng quá chặt chẽ nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng làm người vay trở lên khó khăn hơn trong việc tiếp nhận vốn tín dụng, điều này
sẽ làm mất cơ hội đầu tư của tổ chức tín dụng hoặc nhà đầu tư.
Việc trích lập dự phòng rủi ro thường đặt ra những yêu cầu về tài chính đối với
các tổ chức tín dụng. Trong khi bảo hiểm rủi ro tín dụng lại đặt ra những yêu cầu về tài
chính đối với người nhận nợ. Do vậy, cả hai phương thức hoặc làm giảm khả năng cân
đối và điều hành vốn khả năng của tổ chức tín dụng hoặc làm tăng chi phí vay vốn của
người vay, dẫn đến tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong việc mở rộng tín dụng và
không thực hiện được chính sách khách hàng.
* Phương thức hạn chế rủi to tín dụng bằng cách thông qua dẫn xuất tín dụng.
Dẫn xuất tín dụng là các hợp đồng tài chính được ký kết bởi các bên tham gia
giao dịch dẫn xuất tín dụng (tổ chức tín dụng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, nhà
đầu tư.v.v…) nhằm đưa ra những bảo đảm chống lại sự chuyển dịch bất lợi về chất
lượng tín dụng của các khoản đầu tư hoặc những tổn thất liên quan đến tín dụng.
Nhưng hợp đồng này mang lại cho các nhà đầu tư, người nhận nợ và ngân hàng
những kỹ thuật mới bổ sung cho các biện pháp bán nợ phân tán rủi ro và bảo hiểm
nhằm quản lý rủi ro tín dụng.
* Các cộng cụ dẫn xuất tín dụng chủ yếu hiện nay gồm:
- Hoán đổi tín dụng: là công cụ dẫn xuất làm giảm rủi ro tín dụng thông qua phân
toán rủi ro.
Thay cho việc phân tán rủi ro thông qua hoạt động cho vay ra cả bên ngoài địa
phương, tổ chức tín dụng hoặc nhà đầu tư có thể bán một số khoản nợ và mua một số
khoản khác nhằm hoán đỏi các khoản thanh toán từ một hoạt động cho vay của nó với
khoản thanh toán từ các tổ chức khác. Nghiệp vụ hoán đổi tín dụng chung nhất được
gọi là hoán đổi thu nhập toàn bộ; trong giao dịch này, tổ chức quản lý rủi ro sẽ hoán
đổi các khoản thanh toán đầu tư hoặc khoản cho vay có lãi suất cố định của tổ chức tín
dụng này với khoản thanh toán đầu tư hoặc vay có lãi suất được điều chỉnh của các tổ
chức tín dụng, nhà đầu tư hoặc công ty bảo hiểm khác. Hoán đổi tín dụng tạo ra hai
điểm thuận lợi quan trọng.
Nó cho phép các tổ chức tín dụng phân tán rủi ro tín dụng trong khi duy trì một
cách trung thành các số dư tài chính của khách hàng. Trong giao dịch hoá đổi thu nhập
toàn bộ, số dư của các doanh nghiệp vay vốn được duy trì với các tổ chức tín dụng ban
đầu. Khi các khoản nợ được bán, số dư nợ của doanh nghiệp được chuyển đổi cho
những người sở hữu mới của khoản nợ.
Các khoản chi phí quản lý giao dịch hoán đổi có thể thấp hơn là chi phí của giao
dịch bán nợ. Điều này đồng nghĩa với việc nó sẽ làm chi phí vay vốn của người nhận
nợ giảm và có thể thực hiện phân tán rủi ro với mức chi phí thấp hơn.
- Quyền chọn tín dụng
Là loại dẫn xuất tín dụng cung cấp chức năng tương tự bảo hiểm. Các quyền
chọn này cho phép các tổ chức tín dụng, các nhà đầu tư có thể lựa chọn mua hoặc bán
các tài sản có rủi ro tại một mức giá cố định để bảo vệ cho họ đối với những biến động
bất lợi về chất lượng tín dụng các tài sản tài chính hoặc khoản vay của tổ chức tín
dụng trong trường hợp rủi to xảy ra.
Quyền chọn tín dụng mang lại nhiều lợi ích hơn so với việc trích lập dự phòng
của các tổ chức tín dụng vì nó không làm tăng chi phí của người vay và không làm
giảm hiệu quả sử dụng vốn khả năng của tổ chức tín dụng do phải giữ lại các tài sản có
dự phòng. Như vậy nó sẽ bảo vệ cho nhà đầu tư khỏi sự giảm giá của các tài sản có.
- Các chứng chỉ liên quan đến tín dụng.
Là một loại dẫn xuất tín dụng khác được sự bởi người phát hành trái phiếu nhằm
tránh rủi ro tín dụng. Một chứng chỉ liên quan đến tín dụng bao gồm môi tập hợp trái
phiếu và một hợp đồng quyền chọn tín dụng. Chứng chỉ này hứa sẽ thanh toán định kỳ
lãi suất và thanh toán một lần giá trị như trái phiếu khi đến hạn. Quyền chọn tín dụng
trên chứng chỉ này cho phép người phát hành giảm các thanh toán của giấy tờ nếu có
sự biến động rõ ràng về tài chính khi giấy tờ giảm giá trị.
Tổ chức tín dụng, nhà đầu tư có thể cân nhắc viẹc mua các chứng chỉ liên quan
đến tín dụng vì nó có thể được một tỷ lệ doanh thu cao hơn trái phiếu thông thường
của nhà phát hành nợ, bởi vì khi phát hành chứng chỉ, thông thường giá của chứng chỉ
thấp hơn giá trị trái phiếu. Chi phí thấp hơn của tổ chức tín dụng, nhà đầu tư giá đối
với thanh toán lãi suất sẽ cho họ có một doanh thu cao hơn.
Trên đây là những cơ sở lý luận phục vụ cho mục đích nghiên cứu của chuyên
đề, để xem xét một cách cụ thể hơn chúng ta cùng đi hiểu tình hình thực tế tại Ngân
hàng TMCP Công Thương Việt Nam, Chi nhánh Thái Bình.
Chương 2: Thực trạng hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Công Thương Việt Nam, Chi nhánh Thái Bình
2.1. Tổng quan về Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam, Chi nhánh
Thái Bình
2.1.1. Quá trình hình thành và phảt triển của NHTMCP Công Thương Việt
Nam, CN Thái Bình
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thái Bình được thành lập ngày 01/01/1991
theo quyết định số 605/QĐ-NHNN ngày 22/12/1990 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam trên cơ sở chuyển đổi thành ngân hàng 2 cấp theo pháp lệnh Ngân
hàng, Hợp tác xã, tín dụng và công ty tài chính; sáp nhập Ngân hàng thị xã Thái Bình
với phòng Ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước tỉnh. Trụ sở chính đặt tại số 100- phố
Trưng Trắc- thị xã Thái Bình (nay là số 190- phố Hai Bà Trưng - thành phố Thái
Bình).
Đứng trước cơ hội và thách thức của quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế thế
giới, Hội đồng quản trị, Banh điều hành Ngân hàng Công thương Việt Nam quyết định
xây dựng tầm nhìn mới nhằm phát triển Ngân hàng Công thương Việt Nam thành tập
đoàn tài chính đa sở hữu, kinh doanh đa lĩnh vực, phát triển bền vững, giữ vững vị trí
hàng đầu tại Việt Nam và hội nhập tích cực với quốc tế, trở thành Ngân hàng thương
mại lớn tại khu vực châu Á.
Từ tháng 7/2006 do Ngân hàng Công thương Việt Nam yêu cầu hiện đại hóa hệ
thống ngân hàng nên Chi nhánh Ngân hàng Công thương Diêm Điền trước là chi
nhánh cấp 2 trực thuộc Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thái Bình đã chuyển thành
Chi nhánh cấp 1 trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Ngày 15/04/2008 Ngân hàng Công thương Việt Nam chính thức ra mắt thương
hiệu mới:
- Tên pháp lý: Ngân hàng Công thương Việt Nam
- Tên đầy đủ (tiếng Anh): Vietnam Bank for Industry and Trade
- Tên thương hiệu (tên giao dịch quốc tế): VietinBank
- Câu định vị thương hiệu: Nâng giá trị cuộc sống.
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thái Bình cũng không nằm ngoài chỉ đạo
của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Từ tháng 4/2009 Ngân hàng Công thương
Thái Bình được giao nhiệm vụ làm đại lý nhận lệnh chứng khoán.
Ngày 3/7/2009 Chi nhánh Ngân hàng Công thương Thái Bình được đổi tên
thành Chi nhánh Ngân hàng TMCP Công thương Thái Bình.
Từ một Chi nhánh có quy mô hoạt động nhỏ, với 22 năm xây dựng và phát triển
với bao thử thách, khó khăn, đến nay Chi nhánh Ngân hàng TMCP Công thương Thái
Bình đã phần nào tự khẳng định được mình trở thành một trong các Chi nhánh Ngân
hàng thương mại lớn hoạt động trên địa bàn. Bằng những nỗ lực rất lớn của chính bản
thân cộng với sự chỉ đạo, hỗ trợ của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, hoạt
động kinh doanh của Chi nhánh Thái Bình đã có nhiều khởi sắc và được đánh giá là
một Ngân hàng lớn nhất giữ vị trí hàng đầu trên địa bàn về thị phần, sản phẩm dịch vụ
đa dạng, công nghệ ngân hàng hiện đại, đảm bảo chất lượng về cung cấp các sản phẩm
dịch vụ, văn minh giao dịch, góp phần phấn đấu, xây dựng Chi nhánh trở thành một
Chi nhánh hoạt động, kinh doanh đa năng, hiện đại.
Về cơ cấu tổ chức gồm Hội sở chính, 5 Phòng giao dịch và 6 Quỹ tiết kiệm đặt
tại những nơi tập trung dân cư và kinh tế phát triển, thuận lợi cho việc huy động vốn
cũng như cho vay. Hoạt động chủ yếu của Chi nhánh Ngân hàng TMCP Công thương
Thái Bình là huy động nguồn vốn của các tổ chức kinh tế và các tầng lớp nhân dân để
cho các tổ chức kinh tế và các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực công thương nghiệp,
kinh doanh, dịch vụ vay và thực hiện các nghiệp vụ như thanh toán quốc tế, thuộc
phạm vi, chức năng và nhiệm vụ cho phép.
Địa bàn tỉnh Thái Bình không rộng nhưng có nhiều tổ chức tín dụng cùng kinh
doanh (Ngân hàng TMCP Công thương, Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng TMCP
Đầu tư và phát triển, Ngân hàng TMCP Ngoại thương, Quỹ tín dụng nhân dân, Ngân
hàng Cổ phần VP Bank, Ngân hàng Cổ phần Nam Việt, Ngân hàng Cổ phần VIB
Bank, Ngân hàng TMCP Đông Á, Ngân hàng TMCP Hàng Hải, ). Trong khi đó biện
pháp và hướng dẫn chỉ đạo mỗi hệ thống khác nhau, mạng lưới hoạt động (quỹ tiết
kiệm, phòng giao dịch) của các ngân hàng lại xen kẽ nhau, có thời gian, mức lãi suất
khác nhau đã ảnh hưởng tới tâm lý của khách hàng.
Nằm trên địa bàn Thái Bình – một tỉnh nông nghiệp, do đó Chi nhánh Ngân hàng
TMCP Công thương Thái Bình chịu ảnh hưởng của những điều kiện khó khăn cũng
như thuận lợi của địa phương đem lại. Nhưng cùng với khả năng của bản thân, thành
tựu to lớn của kinh tế địa phương, của toàn ngành Ngân hàng TMCP Công thương,
Chi nhánh đã phấn đấu vươn lên khẳng định được vai trò, vị trí là một trong những
ngân hàng thương mại lớn trên địa bàn, không ngừng phát triển và đổi mới, góp phần
đắc lực thực thi chính sách tiền tệ, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa
phương.
Bộ máy tổ chức trong Chi nhánh
Hiện nay để tạo điều kiện phù hợp với hoạt động kinh doanh của mình, Chi
nhánh Ngân hàng TMCP Công thương Thái Bình đã sắp xếp và tổ chức bộ máy bao
gồm: 1 Giám đốc, 2 Phó giám đốc và 7 phòng nghiệp vụ như sau:
- Phòng Khách hàng doanh nghiệp
- Phòng Khách hàng cá nhân
- Phòng Kế toán
- Phòng Tiền tệ kho quỹ
- Phòng Tổ chức hành chính
- Phòng Tổng hợp - Quản lý rủi ro- Nợ có vấn đề
- Tổ thông tin điện toán
Trong công tác tổ chức tính đến ngày 31/12/2009 Chi nhánh Ngân hàng TMCP
Công thương Thái Bình có tổng số 136 cán bộ công nhân viên, trong đó đã có 2 Thạc
sĩ, 98 Đại học tương đương chiếm 72,1% tổng số cán bộ công nhân viên, 66 Cao đẳng
và 17 trung cấp. Cơ bản tuổi đời bình quân ở mức vừa phải (40 tuổi) có nhiều thuận lợi
cho việc triển khai nghiệp vụ và công nghệ hiện đại.
Sơ đồ bộ máy tổ chức của Ngân hàng TMCP Công thương Thái Bình
Ban giám đốc
Khối
hỗ
trợ
Qũy
tiết
kiệm
Phòng
giao
dịch
Khối
tác
nghiệp
Khối
quản
lý
rủi ro
Khối
kinh
doanh
Phòng
Tổng
hợp-
Quản
lý rủi
ro -Nợ
có vấn
đề
PGD
Minh
Khai
QTK
số
02
Phòng
Tổ
chức
hành
chính
Phòng
Kế
toán
Phòng
Khách
hàng
doanh
nghiệp
PGD
Hồng
Phong
QTK
số
05
Tổ
thông
tin
điện
toán
Phòng
Tiền
tệ
kho
quỹ
Phòng
Khách
hàng
cá
nhân
PGD
Trần
Hưng
Đạo
QTK
số 07
QTK
số 08
PGD
Vũ
Thư
PGD
Đông
Hưng
QTK
số 10
10
QTK
số 09
2.1.2. Hoạt động cơ bản của NHTMCP Công Thương Việt Nam, CN Thái Bình
Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường ở một tỉnh nông nghiệp là một vấn đề
hết sức khó khăn đối với Chi nhánh Ngân hàng thương mại Cổ phần Công thương Việt
Nam cho nên việc mở rộng tín dụng và thanh toán của Ngân hàng còn hạn chế. Trong
khi đó nhiều đơn vị kinh tế, doanh nghiệp cũng gặp không ít khó khăn trong sản xuất và
tiêu thụ hàng hóa. Với phương châm: “Phát triển - An toàn - Hiệu quả” chủ đề là “huy
động vốn, phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ ngân hàng”, Chi nhánh
Ngân hàng TMCP Công thương Thái Bình tìm mọi biện pháp thu hút nguồn vốn còn tạm
thời nhàn rỗi để cho vay các đơn vị có khả năng kinh doanh nhưng thiếu vốn hoạt động
nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng trưởng kinh tế địa phương.
Với quan điểm “Nâng giá trị cuộc sống” nhằm nhấn mạnh vào tính hiệu quả, là mục
tiêu hoạt động của Ngân hàng, thể hiện sự tận tâm của VietinBank trong việc hỗ trợ và
bảo đảm thành công cho các khách hàng cũng như nỗ lực góp phần tạo dựng cho một
cuộc sống tươi đẹp, giàu ý nghĩa. Cùng với sự nỗ lực vươn lên của tập thể cán bộ công
nhân viên toàn Chi nhánh và kết hợp với điều kiện kinh tế địa phương đã tạo được môi
trường tốt cho hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng TMCP Công thương Thái
Bình.
•Hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn bao gồm các hoạt động nhận tiền gửi, phát hành chứng chỉ
tiền gửi, trái phiếu, tín phiếu kho bạc và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn; vay
vốn của các cá nhân, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, Ngân hàng TMCP Công
thương và các hình thức huy động vốn khác.
Có thể nói công tác huy động vốn luôn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của
bất cứ một ngân hàng thương mại nào, là tiền đề cho các hoạt động kinh doanh tiếp theo,
là yếu tố quyết định mở rộng hay thu hẹp đầu tư tín dụng. Do vậy ngay từ khi thành lập
Ngân hàng Công thương Việt Nam, Chi nhánh Thái Bình đã luôn chú trọng tới việc huy
động vốn từ các tổ chức kinh tế và trong dân cư. Nhờ sự linh hoạt trong kinh doanh và đa
dạng các hoạt động, Chi nhánh Ngân hàng TMCP Công thương Thái Bình nhìn chung đã
22
đạt được những kết quả tốt. Hiện nay tổng vốn của Chi nhánh bao gồm tiền mặt, trái
phiếu và các tài sản khác của ngân hàng. Tuy tình hình huy động vốn của Ngân hàng qua
các năm có nhiều biến động nhưng nguồn vốn huy động nói chung có xu hướng tăng lên
được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1.1. Bảng kết qủa huy động vốn trong 3 năm 2008 – 2010
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu 2008 2009 2010
Tiền gửi doanh nghiệp 159.460 126.755 255.055
Tiền gửi tiết kiệm 1.201.894 1.284.316 2.044.944
Tiền gửi của các định
chế TC khác
-
- 140
Phát hành GTCG 34.457 65.486 15.208
Tổng cộng 1.395.811 1.476.557 2.315.347
Qua bảng trên ta thấy tổng vốn huy động của Chi nhánh Ngân hàng TMCP
Công thương Thái Bình liên tục tăng qua các năm. Năm 2009 tổng vốn huy động tăng
5.8% so với năm 2008( tương đương tăng 80,746 triệu đồng). Tổng mức vốn huy động
sang năm 2010 tiếp tục tăng 36% (tương đương tăng 838,790 triệu đồng). Trong đó số
tiền gửi của các tổ chức kinh tế và dân cư cụ thể trong bảng sau:
Bảng 1. 2. Bảng kết quả huy động vốn cụ thể trong 3 năm 2008-2010
Chỉ tiêu Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
1. Tiền gửi doanh
nghiệp
159.460 126.754.539.406 255.055
- Bằng VNĐ 133.786 118.011.233.538 208.578
- Bằng ngoại tệ quy đổi 25.674 8.743.305.868 46.477
2. Tiền gửi tiết kiệm 1.201.894 1.284.315.763.028 2.044.944
- Bằng VNĐ 859.764 928.017.385.590 1.545.925
- Bằng ngoại tệ quy đổi 342.130 356.298.377.438 499.019
3. Tiền gửi của các định
chế TC khác
- - 140
- Bằng VNĐ - - 140
- Bằng ngoại tệ quy đổi - - 0
Chi nhánh Ngân hàng TMCP Công thương Thái Bình có được kết quả huy động
23
vốn như trên là nhờ đã sử dụng nhiều biện pháp, hình thức khác nhau để khai thác nguồn
vốn tại chỗ như: huy động tiền gửi tiết kiệm và kỳ phiếu bằng VNĐ và ngoại tệ; vận
động và tuyên truyền các đơn vị, cá nhân có tiền nhàn rỗi, chưa sử dụng gửi vào ngân
hàng. Đây là nguồn vốn tương đối ổn định với lãi suất đầu vào hợp lý có hiệu quả với
hoạt động kinh doanh của ngân hàng, Đặc biệt trong năm 2010, Chi nhánh đã thành
lập thêm Phòng giao dịch loại 2, đầu tư nâng cấp và đầu tư mới máy móc trang thiết bị
tiên tiến tạo ra diện mạo mới cho cả hệ thống mạng lưới của ngân hàng. Bên cạnh việc
đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ, Chi nhánh còn thường xuyên quan tâm đến tác
phong, thái độ giao dịch của đội ngũ cán bộ với khách hàng.
Do vậy tính đến 31/12/2010 tổng nguồn vốn huy động của chi nhánh đạt 2.315.347
triệu đồng tăng 65.78% so với cùng thời điểm năm 2008. Trong đó:
Tiền gửi các tổ chức kinh tế ở đây chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi tiết kiệm
của các cá nhân và doanh nghiệp tại Chi nhánh vẫn ổn định mặc dù trong thời gian qua
các doanh nghiệp đã sử dụng tối đa nguồn vốn của mình. Đến 31/12/2010, số dư tiền gửi
tiết kiệm đạt 255.055 triệu đồng chiếm 88% trong tổng nguồn vốn và bằng 159% so với
cùng thời điểm năm 2009.
Nguồn vốn huy động từ tiền gửi doanh nghiệp chiếm 11% tổng mức vốn huy động.
Trong năm 2010, Chi nhánh đã triển khai tốt dịch vụ thẻ ATM, thêm vào đó là tính
thuận tiện của thẻ nên ngày càng có nhiều người sử dụng thẻ, nhất là các cơ quan, doanh
nghiệp trả lương cho người lao động qua thẻ. Điều này đã giúp cho Chi nhánh có thêm
được một kênh huy động vốn ổn định. Đến 31/12/2010 tại Chi nhánh nguồn vốn từ số dư
trên tài khoản ATM là 20 tỷ đồng.
Nguồn vốn huy động được duy trì phát triển ổn định là nhờ sự đồng lòng quyết tâm,
nỗ lực của toàn Chi nhánh thông qua các biện pháp cụ thể.
•Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động tín dụng tại Chi nhánh là việc cấp tín dụng dưới hình thức cho vay, chiết
khấu thương phiếu, và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh ngân hàng và các hình thức khác.
Trong những năm qua, Chi nhánh Ngân hàng TMCP Công thương Thái Bình hết
sức quan tâm đến công tác sử dụng vốn. Với phương châm : “Phát triển – An toàn – Hiệu
24
quả” Chi nhánh đã không chạy theo số lượng mà đi vào chất lượng tín dụng. Bằng việc
thẩm định kỹ trước khi cho vay cùng với việc phân tích, đánh giá để chọn lọc khách
hàng, dư nợ tín dụng của Chi nhánh đã được lành mạnh hóa. Với nguồn vốn huy động
hiện có, Chi nhánh đã phân bổ một cách hợp lý cho các doanh nghiệp có nhu cầu, góp
phần thực hiện nhiệm vụ thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển.
Đặc biệt công tác tín dụng luôn được coi là mũi nhọn, là nhiệm vụ hàng đầu trong
kinh doanh. Thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam và trên cơ sở thực
tế tại địa phương, Chi nhánh đã xác định định hướng chính trong công tác tín dụng là:
- Tích cực đầu tư trong điều kiện cho phép, đảm bảo an toàn và hiệu quả. Mở rộng
hoạt động tín dụng như cho vay sản xuất kinh doanh, cho vay tiêu dùng, chuyển mạnh
sang cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ vươn lên là ngân hàng đóng vai trò quan trọng
trong sự phát triển kinh tế của địa phương.
- Thực hiện kinh doanh tín dụng theo cơ chế thị trường và quan hệ cung cầu vốn,
áp dụng lãi suất thực dương, đảm bảo bù đắp chi phí và có lãi.
- Tìm kiếm và chuyển dần sang đầu tư theo dự án và chương trình kinh tế có tính
khả thi cao của địa phương, giữ vững thị trường và liên kết chặt chẽ với sự phát triển của
các khu công nghiệp trong địa bàn.
Trong những năm qua hoạt động tín dụng của chi nhánh chủ yếu đi vào chiều sâu,
rà soát, sàng lọc và nâng cao chất lượng tín dụng đối với khách hàng truyền thống, duy trì
và tăng trưởng đầu tư tín dụng vào những ngành kinh tế mũi nhọn (công nghiệp may,
làng nghề, công nghiệp khí đốt, ), đồng thời không ngừng nghiên cứu, tìm kiếm và tiếp
thị các khách hàng mới có uy tín và tài chính lành mạnh, tiếp cận các dự án có tính khả
thi cao, bám sát vào mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế của tỉnh, đặt nền móng cho
việc mở rộng đầu tư tín dụng một cách vững chắc, an toàn và hiệu quả.
Những kết quả của việc tăng trưởng và nâng cao chất lượng tín dụng tại Chi nhánh
Ngân hàng TMCP Công thương Thái Bình được thể hiện qua diễn biến số liệu về hoạt
động tín dụng trong 3 năm gần đây:
Bảng 1.3. Bảng kết quả dư nợ cho vay trong các năm 2008 – 2010
25