Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với SMEs tại NHN0&PTNT Chi nhánh Sông Cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.77 KB, 58 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
1. SMEs Doanh nghiệp vừa và nhỏ (Small and Medium-sized Enteprises)
2. NHN
0
&PTNT Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
3. NHTM Ngân hàng Thương mại
4. NHNN Ngân hàng Nhà nước
5. DN Doanh nghiệp
6. TCTD Tổ chức tín dụng
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất của các Ngân hàng thương mại, chiếm
tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản và cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất.
Ngân hàng thương mại về bản chất là một tập đoàn kinh doanh được tổ chức
với mục tiêu tối đa hóa giá trị của cổ đông với mức rủi ro có thể chấp nhận. Sự gia
tăng đột ngột về các vụ phá sản của Ngân hàng trên toàn thế giới gần đây cho thấy
rằng mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận với mức rủi ro có thể chấp nhận là không dễ gì đạt
được. Việc theo đuổi mục tiêu này đòi hỏi Ngân hàng phải không ngừng tìm kiếm cơ
hội mới nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng, nâng cao hiệu quả hoạt động, hiệu quả kế
hoạch hóa và hiệu quả kiểm soát. Nhưng vấn đề là phải đảm bảo chất lượng tín dụng
như thế nào để Ngân hàng thương mại hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển bền
vững.
Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng thương mại làm
tốt chức năng trung gian tài chính và sẽ là cầu nối giữa phần tiết kiệm và đầu tư. Từ đó
góp phần điều hoà nguồn vốn trong xã hội, phân bố các nguồn vốn cho đầu tư một
cách hợp lý, giảm hiện tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức cá nhân này và nhu cầu
thiếu vốn ở các tổ chức cá nhân khác, tạo quan hệ tốt giữa cung và cầu vốn, đẩy nhanh


tốc độ luân chuyển hàng hoá và tiền tệ.
Tín dụng có chất lượng sẽ góp phần tăng chất lượng sản xuất kinh doanh và tạo
một thị trường tài chính lành mạnh, giúp đầu tư đúng hướng, đảm bảo cho sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Đồng thời khi chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ góp phần kiềm chế
lạm phát, ổn định tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước. Chất lượng tín
dụng được đảm bảo cũng có nghĩa là Ngân hàng đang trên đà phát triển tốt, nhờ vậy mà
có điều kiện đáp ứng yêu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Việc nâng cao chất lượng tín dụng sẽ giúp cho tình hình tài chính của Ngân
hàng thương mại được cải thiện, phòng ngừa và hạn chế được những rủi ro hay tổn
thất lớn có thể xảy ra, tạo thế mạnh cạnh tranh và điều kiện để mở rộng các quan hệ tín
dụng. Nó không chỉ có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của bản thân các
Ngân hàng mà còn có tác dụng trực tiếp trong việc kích thích kinh tế phát triển, đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, góp phần tạo sự ổn định và
phát triển kinh tế-xã hội. Vì vậy, việc tìm ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng đối với SMEs đang là một vấn đề cần được quan tâm hiện nay của các Ngân
1
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng thương mại.
Từ thực tế ở NHN
0
&PTNT Chi nhánh Sông Cầu và thực trạng hoạt động của
các SMEs hiện nay, sau một thời gian học tập và nghiên cứu em đã chọn đề tài: “Giải
pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với SMEs tại NHN
0
&PTNT Chi nhánh
Sông Cầu”
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì đề tài gồm có 03 chương:
Chương l: Những lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương
mại đối với SMEs

Chương ll: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với SMEs tại NHN
0
&PTNT Chi
nhánh Sông Cầu.
Chương lll: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với SMEs tại
NHN
0
&PTNT Chi nhánh Sông Cầu.
2
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA
NHTM ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1 Khái quát về Doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1 Khái niệm
Không có một khái niệm chung nào về Doanh nghiệp vừa và nhỏ (Small and
Medium-sized Enteprises, hay SMEs) đối với tất cả các nước trên thế giới. Các khái
niệm và sự phân loại ở mỗi nước không hoàn toàn giống nhau, nó thay đổi theo các
tiêu chí xác định riêng ở từng nước, quy mô của DN thường được xác định bởi nhiều
chỉ tiêu bao gồm quy mô của tài sản, số người lao động, cơ cấu sở hữu, nguồn và loại
hình tài trợ, lĩnh vực DN hoạt động. Đối với Việt Nam theo nghị định số 56/2009/NĐ-
CP ngày 30/06/2009 thì SMEs được định nghĩa như sau: SMEs là cơ sở kinh doanh đã
đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ,
vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác
định trong bảng cân đối kế toán của DN) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn
vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
3
Quy mô
Khu vực

Số lao động tối đa
(người)
Vốn tối đa
(tỷ đồng)
I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản
Trong đó DN siêu nhỏ:
DN nhỏ:
DN vừa:
10
200
300
20
100
II. Công nghiệp và xây dựng
Trong đó DN siêu nhỏ:
DN nhỏ:
DN vừa:
10
200
300
20
100
III. Thương mại và dịch vụ
Trong đó DN siêu nhỏ:
DN nhỏ:
DN vừa:
10
50
100
10

50
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.2 Đặc điểm của SMEs
a, Những đặc điểm thể hiện ưu điểm của SMEs
- SMEs chiếm số lượng lớn với tốc độ gia tăng cao trong nền kinh tế
Với ưu điểm là vốn điều lệ thấp, điều này đã tạo một động lực to lớn cho các tổ
chức kinh tế, tư nhân đứng ra thành lập DN của mình. Mặt khác, từ trước đó đã tồn tại
không ít các DN Nhà nước có quy mô vốn nhỏ, lao động ít như các hợp tác xã, các DN
Nhà nước mới thành lập hoặc được tách ra làm cho các SMEs ngày một gia tăng và
chiếm phần lớn về số lượng DN trong nền kinh tế.
- SMEs có tính năng động và linh hoạt cao
Do các SMEs có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt
hàng nhanh, tăng giảm lao động dễ dàng, cùng với sự đa dạng về sản phẩm và loại
hình hoạt động mà các SMEs đã đạt được hiệu quả trong hoạt động của mình và đóng
góp không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế.
- SMEs có bộ máy tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý linh hoạt gọn nhẹ; Các
quyết định, quản lý thực hiện nhanh; công tác kiểm tra và điều hành trực tiếp góp phần
tiết kiệm chi phí quản lý DN.
b, Ngoài những đặc điểm thể hiện ưu điểm của SMEs thì còn có một số
nhược điểm
- Nguồn vốn hạn chế, đặc biệt là nguồn vốn tự có
Mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng nếu xét về quy mô vốn của các SMEs
trong những năm gần đây thì lại rất thấp, khiến cho các DN gặp không ít khó khăn
trong việc mở rộng thị trường và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ công nghệ còn lạc hậu
DN tư nhân ít có khả năng tham gia đấu thầu quốc tế và đa số gặp rào cản trong
tiếp cận công nghệ, thị trường, vốn. Do đặc điểm nền kinh tế chưa thực sự phát triển,
một thực trạng phổ biến trong các SMEs là hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu, tỷ lệ
đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm còn rất thấp. Công nghệ lạc hậu làm tăng

chi phí tiêu hao 1.5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới. Thực trạng này dẫn
đến chi phí đầu vào tăng cao hơn so với các nước cùng khu vực, đồng thời dẫn đến
4
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
chất lượng sản phẩm giảm, giá thành cao và năng suất thấp.
- Kinh nghiệm chưa nhiều, trình độ quản lý yếu kém
Các DN tư nhân thường khi thành lập và trong quá trình hoạt động chưa có một
tầm nhìn chiến lược trong hoạt động kinh doanh của mình, quản trị DN yếu và thiếu
chiến lược phát triển… Một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về
trình độ chuyên môn. Đa số người lao động, nhất là những người có tay nghề nghiệp
vụ, trình độ chuyên môn giỏi, khi tìm kiếm việc làm đều có xu hướng vào các DN lớn
trên thị trường. Mặt khác, nhiều SMEs yếu kém trong tiếp cận thông tin và các dịch vụ
hỗ trợ kinh doanh, chưa có trang thiết bị kỹ thuật hiện đại nên chưa theo kịp thị
trường. Với số vốn ít và bề dày kinh nghiệm hạn chế, nhất là khi nền kinh tế có biến
động lớn, các SMEs sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh,
không có kinh nghiệm hay không đủ khả năng chống đỡ, dễ dẫn đến thua lỗ hoặc nặng
hơn là phá sản.
1.1.3 Vai trò của SMEs
Trong bối cảnh chuyển đổi và hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, mặc dù
có những yếu kém và bất lợi nhất định, nhưng với những ưu điểm của mình các SMEs
đã và đang đóng một vai trò quan trọng tác động đến nền kinh tế xã hội.
Thứ nhất, SMEs có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế
- Các SMEs có vị trí quan trọng ở chỗ, chúng chiếm đa số về mặt số lượng
trong tổng số các DN sản xuất kinh doanh và ngày càng gia tăng mạnh
Ở hầu hết các nước, số lượng SMEs chiếm khoảng hơn 90% tổng số các DN.
Tốc độ gia tăng số lượng các SMEs lớn hơn tốc độ gia tăng số lượng các DN lớn. Ở
nước ta hiện nay, theo số liệu của Hiệp hội các Doanh nghiệp vừa và nhỏ, SMEs
chiếm đến 96% tổng số các DN đăng ký ở Việt Nam và tạo ra đến 40% tổng sản phẩm
quốc nội (GDP). Trong hơn 10 năm qua, SMEs đã trở thành một bộ phận quan trọng

của kinh tế Việt Nam.
- Các SMEs có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế, góp
phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân, bình quân chiếm khoảng trên dưới
50% GDP mỗi nước. Các SMEs chiếm phần lớn số DN ở châu Á, đóng góp khoảng
30-60% GDP và chiếm khoảng 50% lực lượng lao động chính thức. Là những nhà
cung ứng cho các DN lớn chuyên sản xuất nhiều thành phẩm xuất khẩu, SMEs gián
tiếp đóng vai trò đáng kể trong nền kinh tế và trong hầu hết các ngành công nghiệp chế
tạo.
- Các SMEs góp phần làm năng động nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình chuyển
5
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
dịch cơ cấu kinh tế
Với tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán, đi sâu vào các ngõ ngách, yêu cầu vốn ban
đầu không nhiều cho nên các SMEs có vai trò, tác dụng rất lớn trong việc thu hút các
nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Do lợi thế của quy mô nhỏ là năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh, có sự
kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá mềm dẻo, hoà nhịp với đòi hỏi uyển chuyển
của nền kinh tế thị trường. Đồng thời góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, đặc biệt đối với khu vực nông thôn. Sự phát triển của các SMEs ở nông
thôn sẽ thu hút người lao động ở nông thôn thiếu hoặc chưa có việc làm vào hoạt động
sản xuất kinh doanh, rút dần lực lượng lao động ở nông thôn chuyển sang làm công
nghiệp và dịch vụ.
Thứ hai, sự phát triển của SMEs góp phần quan trọng trong việc giải quyết
những mục tiêu kinh tế xã hội
Tác động kinh tế xã hội lớn nhất của SMEs là giải quyết một số lượng lớn chỗ
làm việc cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói giảm
nghèo, nâng cao mức sống và thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng đất nước.
Ở hầu hết các nước, SMEs lại thu hút nhiều lao động hoặc có tốc độ thu hút lao động
mới cao hơn khu vực DN lớn. Ở Việt Nam, theo Phòng Thương mại và Công nghiệp

Việt Nam (VCCI) cũng nêu các con số thống kê đáng chú ý, cho đến nay khu vực DN
đã đóng góp trên 70% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút được 7.4 triệu lao động,
chiếm 81.7% lực lượng lao động phi nông nghiệp, hay 16.3% lực lượng lao động của
toàn xã hội. Trong nhiều ngành sản xuất và dịch vụ khác cũng chiếm một tỷ lệ đáng
kể. Các SMEs còn là nơi ươm mầm các tài năng kinh doanh, là nơi đào tạo, rèn luyện
các nhà DN, giúp họ làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh quy
mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh quy mô vừa và nhỏ, một số nhà
kinh doanh sẽ trưởng thành, có kinh nghiệm quản lý, biết đưa DN của mình nhanh
chóng phát triển. Hiện cả nước đã có trên 2 triệu doanh nhân và dưới sự điều hành của
đội ngũ này, các DN Việt Nam đã tích cực tham gia thúc đẩy nhanh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra một mạng lưới liên kết giữa các thành phần kinh tế với
nhau, thúc đẩy và lưu thông các nguồn lực sẵn có trong xã hội (như: vốn, nhân lực ),
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm…
1.1.4 Tình hình chung của các SMEs hiện nay
6
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngoài những đóng góp và những phát triển đáng kể thì các SMEs vẫn còn gặp
rất nhiều khó khăn, thách thức trong hoạt động. Đặc biệt trong nền kinh tế đang có sự
suy giảm như hiện nay, với ảnh hưởng của khủng hoảng thế giới, nợ công Châu Âu,
lạm phát… thì các khó khăn càng trở nên rõ rệt hơn bao giờ hết.
- Khó khăn trong việc tiếp cận vốn của các SMEs
Vấn đề tiếp cận vốn là vấn đề đầu tiên có ý nghĩa quyết định, nhưng tình trạng
thiếu vốn để sản xuất của các SMEs lại là một khó khăn không nhỏ. Ở nhiều quốc gia,
các DN nhỏ là động lực phát triển và đi đầu trong các lĩnh vực công nghệ cao và công
nghệ sinh học, chúng được sự hỗ trợ từ nhiều cơ quan khác nhau, từ Ngân hàng cho
đến các hiệp hội. Trong khi đó các SMEs Việt Nam luôn trong tình trạng thiếu vốn,
khó tiếp cận vốn từ Ngân hàng và các tổ chức tín dụng nên cũng khó để mở rộng sản
xuất. Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đưa ra tại hội thảo
“Giải pháp vốn cho DN” vào tháng 5/2011, chỉ có 1/3 số SMEs tiếp cận nguồn vốn

Ngân hàng, 2/3 còn lại không hoặc khó tiếp cận được vốn từ nguồn này. Dù tiếp cận
vốn từ Ngân hàng rất khó khăn, song đây vẫn là kênh chính khi có đến 74.47% DN
hướng tới, trong khi các kênh khác chưa được sử dụng hiệu quả. Trong tình hình kinh
tế hiện nay, mặc dù nhà nước vẫn có những hỗ trợ đối với các DN tuy nhiên cũng có
rất ít các SMEs có thể tiếp cận nguồn vốn này do các SMEs có năng lực tài chính hạn
chế, tài sản đảm bảo ít, thông tin ít và thiếu tính minh bạch… những tiêu thức quan
trọng để Ngân hàng xem xét cho vay. Bên cạnh đó, về phía các Ngân hàng trước bối
cảnh lãi suất cho vay cao, cùng những quy định trong chính sách tiền tệ cũng đã phần
nào ảnh hưởng tới cơ cấu tín dụng của các NHTM.
- Điều kiện về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật cho sản xuất kinh doanh của các SMEs
Điều kiện về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật cho sản xuất kinh doanh của các DN còn
nhiều bất cập, chi phí đầu vào cho sản xuất lớn. Theo điều tra của Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam, các DN phải sử dụng trên 40% nguyên liệu nhập khẩu,
thậm chí có một số ngành tỷ lệ này là 70-80%, điều đó làm cho nguồn cung ứng bị phụ
thuộc, chi phí đầu vào cho sản xuất lớn, ảnh hưởng đến sự gia tăng giá trị trong xuất
khẩu. Cũng do nguồn năng lực tài chính còn yếu nên để thực hiện việc giao dịch trực
tiếp với các đối tác nước ngoài còn nhiều khó khăn và hạn chế, đặc biệt là điều kiện hạ
tầng không đủ cho các DN làm tăng chi phí sản xuất, bên cạnh đó do quy mô nhỏ kéo
theo hiệu quả kinh doanh không cao.
1.2 Những lý luận cơ bản về tín dụng Ngân hàng
7
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.1 Khái niệm
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và
người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Hay
nói một cách khác: Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà
trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị
hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về
thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.

Vậy tín dụng Ngân hàng là gì?
Theo luật các tổ chức tín dụng năm 2010 của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thì: "Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản
tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng
nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh Ngân hàng
và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác".
1.2.2 Các nghiệp vụ tín dụng
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản
ánh hoạt động đặc trưng của Ngân hàng. Các NHTM lớn hiện nay thực hiện đa dạng
các hình thức tín dụng từ cho vay ngắn, trung và dài hạn, bảo lãnh cho khách, mua các
tài sản để cho thuê… để mở rộng tín dụng có hiệu quả, các Ngân hàng bên cạnh việc
phải xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng đúng đắn, phải không ngừng đa dạng
hóa các hình thức tín dụng cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng.
a, Phân loại theo thời gian
- Tín dụng ngắn hạn: Là khoản tín dụng dưới 1 năm và được sử dụng để bổ
sung sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của DN, nó có thể được vay cho những sinh
hoạt cá nhân. Tín dụng ngắn hạn nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử
dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, DN, hộ sản xuất. Ngân hàng có thể áp dụng cho vay
trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay theo món hoặc theo hạn mức, có hoặc không cần đảm
bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển.
- Tín dụng trung và dài hạn
+ Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 1-5 năm, tài trợ cho các
tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị hao
8
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
mòn.
+ Tín dụng dài hạn: trên 5 năm, tài trợ cho công trình xây dựng như: nhà, sân
bay, cầu, đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu.
Tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và một phần

bổ sung cho vốn lưu động, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các gia đình, cá nhân như:
chi tiêu thường xuyên, sủa chữa nhà cửa, mua sắm tài sản…
b, phân loại theo hình thức cấp tín dụng
- Chiết khấu giấy nợ
Chiết khấu là một hình thức cấp tín dụng theo đó các tổ chức tín dụng nhận các
chứng từ có giá và trao cho khách hàng một số tiền bằng mệnh giá của chứng từ nhận
chiết khấu trừ đi phần lợi nhuận và chi phí mà ngân hàng được hưởng.
Các NHTM hiện nay thường nhận chiết khấu hai loại chứng từ cơ bản: thương
phiếu và chứng từ có giá khác như trái phiếu, kỳ phiếu…
+ Chiết khấu thương phiếu: Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh
yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong
một thời gian nhất định. Thương phiếu gồm có 2 loại là hối phiếu và lệnh phiếu. Trong
thương mại, hối phiếu do người xuất khẩu ký phát để đòi tiền người trả tiền, có thể là
người nhập khẩu hoặc Ngân hàng. Chiết khấu thương phiếu là một hình thức tín dụng
ngắn hạn của NHTM được thực hiện dưới hình thức khách hàng sẽ chuyển nhượng quyền
sở hữu thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho Ngân hàng để nhận một khoản tiền
thấp hơn mệnh giá của thương phiếu. Số tiền chênh lệch giữa mệnh giá thương phiếu so
với số tiền khách hàng nhận được gọi là lãi chiết khấu và phí hoa hồng.
+ Chiết khấu chứng từ có giá khác: Ngoài thương phiếu , các chứng từ có giá
khác như Trái phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nước, kỳ phiếu, sổ tiền gửi tiết kiệm cũng
được ngân hàng thực hiện chiết khấu. Đối với trái phiếu và tín phiếu kho bạc Nhà
nước người hưởng lợi là người mua, còn người thanh toán là kho bạc Nhà nước. Khi
chiết khấu, cần phân biệt hai loại: Trái phiếu chiết khấu hay trái phiếu không hưởng lãi
định kỳ và trái phiếu được hưởng lãi định kỳ. Trái phiếu chiết khấu là loại trái phiếu
mà người mua chỉ trả một số tiền nhỏ hơn mệnh giá (phần chênh lệch này chính là lãi
trái phiếu) và khi đến hạn thanh toán, kho bạc sẽ trả cho người mua một số tiền bằng
mệnh giá
- Cho vay
Theo quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng số 1627/2001/QĐ-NHNN
9

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
thì: “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách
hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả
thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cho vay của NHTM rất đa dạng và
phong phú với nhiều hình thức khác nhau (nhiều loại tín dụng khác nhau). Việc áp
dụng từng cho vay loại tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế của đối tượng sử dụng vốn, do
đó để sử dụng và quản lý có hiệu quả vốn tín dụng thì ta cần thiết phải phân loại cho
vay. Có nhiều tiêu thức phân loại, sau đây là các hình thức phân loại của cho vay:
+ Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó Ngân hàng cho phép người vay được
chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và
trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Đây là
hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm
bảo, có thể cấp cho cả DN lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng
để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng… hình thức này nhìn chung chỉ sử
dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
+ Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay phổ biến của Ngân hàng
đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để
được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng
thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới
vay Ngân hàng, tức là vốn từ Ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định
của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng: là nghiệp vụ tín dụng theo đó Ngân hàng
thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả
kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên
cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên,
vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ
này Ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập, Ngân

hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do
các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên Ngân hàng khó kiểm soát
hiệu quả từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo
cáo tài chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
+ Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng
hóa DN khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ
thu nợ khi DN bán hàng đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân
10
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
chuyển. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức
tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể
được thỏa thuận trong 1 năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là
thời hạn để Ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng, quyết định có cho vay
nữa hay không, tùy mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài
chính của khách hàng.
+ Cho vay trả góp: Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó Ngân hàng
cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho
vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho
tài sản cố định hoặc hàng lâu bền, số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp
với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu
nhập hàng kỳ của người tiêu dùng). Cho vay trả góp rủi ro cao, do khách hàng thường
thế chấp bằng hàng hóa mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn
của người vay. Do đó lãi suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất trong khung
lãi suất cho vay của Ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung
gian. Thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân
tán, cách xa Ngân hàng, giúp tiết kiệm chi phí cho vay (phân tích, giám sát, thu nợ…).
Cho vay trung gian nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của Ngân hàng, tuy nhiên cũng bộc
lộ một số khiếm khuyết.

- Cho thuê tài sản (thuê - mua)
Hoạt động chủ yếu của NHTM là cho vay để khách hàng mua tài sản. tuy nhiên
trong nhiều trường hợp, khách hàng không đủ (chưa đủ) điều kiện để vay. Để mở rộng
tín dụng, NHTM đã mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho khách hàng
thuê. Vì tài sản cho thuê thuộc sở hữu của Ngân hàng nên Ngân hàng có thể thu hồi để
bán hoặc cho người khác thuê khi người thuê không trả nợ được, điều này góp phần
giảm bớt thiệt hại cho Ngân hàng. Hoạt động cho thuê của NHTM chủ yếu là cho thuê
tài chính.
- Bảo lãnh (tái bảo lãnh)
Bảo lãnh của Ngân hàng là cam kết của Ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh
về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của Ngân hàng, khi khách
hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Là một hình thức tài trợ của Ngân
hàng cho khách hàng, qua đó khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng
11
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
hóa hoặc thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. Ngân hàng
không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh, do vậy bảo lãnh được coi như tài sản ngoại
bảng. Tuy nhiên khi khách hàng không thực hiện được cam kết, Ngân hàng phải thực
hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba, khoản này được xếp vào tài khoản “xấu” trong
nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Chính vì vậy bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro như
một khoản cho vay và đòi hỏi Ngân hàng phân tích khách hàng như khi cho vay. Phí
bảo lãnh được tính theo tỷ lệ phần trăm trên số tiền bảo lãnh. Ngoài phí, Ngân hàng có
thể yêu cầu khách hàng phải ký quỹ, tạo nguồn tiền thanh toán cho Ngân hàng với
mức lãi suất rất thấp. Bảo lãnh cũng góp phần mở rộng các dịch vụ khác như kinh
doanh ngoại tệ, tư vấn, thanh toán…
Ngân hàng thực hiện tài trợ theo nhiều nghiệp vụ khác nhau nhằm đáp ứng yêu
cầu ngày càng đa dạng của hàng triệu khách hàng, từ nhu cầu của quốc gia, các tổ
chức tài chính, các tổ chức liên chính phủ và phi Chính phủ, các DN, các hộ gia
đình… các nghiệp vụ tín dụng không ngừng được mở rộng và hoàn thiện theo hướng

mang lại tiện ích nhiều hơn cho người sử dụng vốn đồng thời đảm bảo an toàn và lợi
ích của Ngân hàng.
1.2.3 Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với các SMEs
Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của các SMEs là một tất
yếu khách quan và cũng như các loại hình DN khác trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh, các SMEs cũng sử dụng vốn tín dụng Ngân hàng để đáp ứng nhu cầu
thiếu hụt vốn cũng như để tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn của mình. Vốn tín dụng
Ngân hàng đầu tư cho các SMEs đóng vai trò rất quan trọng, nó không những thúc đẩy
sự phát triển khu vực kinh tế này mà thông qua đó tác động trở lại thúc đẩy hệ thống
Ngân hàng, đổi mới chính sách tiền tệ, hoàn thiện các cơ chế chính sách về tín dụng,
thanh toán ngoại hối… Để thấy được vai trò của tín dụng Ngân hàng trong việc phát
triển SMEs, ta xét một số vai trò sau:
Thứ nhất, tín dụng Ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho DN
Hiếm có DN nào chỉ sử dụng vốn tự có để hoạt động sản xuất kinh doanh, việc
này không những hạn chế khả năng mở rộng sản xuất mà còn tăng giá vốn của DN đó.
Hiện nay, để thực hiện các quyết định đầu tư, một DN có thể sử dụng hai nhóm nguồn
vốn: vốn tự có hoặc vốn đi vay. Nếu càng sử dụng nhiều vốn vay, DN càng lợi dụng
được nguồn vốn đang rẻ đi do ảnh hưởng của chính sách thuế. Về mặt lý thuyết, mặc
dù vốn vay có nhiều lợi thế nhưng không phải lúc nào DN cũng vay được và muốn
vay bao nhiêu tuỳ ý, vì khi vốn vay vượt quá mức nào đó giá vốn sẽ tăng lên và làm
12
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
tăng chi phí vốn. Chính vì vậy, DN phải xây dựng một cơ cấu vốn tối ưu, đó là sự kết
hợp hợp lý nhất các nguồn tài trợ cho kinh doanh của một DN để có thể tận dụng tối
đa lợi thế của nguồn vốn vay và đảm bảo một mức chi phí vốn rẻ nhất tại mức rủi ro
có thể chấp nhận được.
Thứ hai, tín dụng Ngân hàng bổ sung vốn, tạo điều kiện cho các SMEs mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tác động tích cực đến việc phát triển và thúc đẩy
cạnh tranh đối với các SMEs

NHTM với tư cách là một trung gian tài chính, thực hiện một trong những chức
năng chủ yếu của mình là tiến hành huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi sau đó
cho vay ra đối với nền kinh tế. Thông qua các hoạt động cho vay của mình, Ngân hàng
đã đảm bảo cho các DN nói chung, SMEs nói riêng không chỉ duy trì sản xuất kinh
doanh mà còn tái sản xuất mở rộng.
Đối với các SMEs hiện nay, vốn vẫn luôn là vấn đề gây khó khăn nhất trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, tình trạng thiếu vốn của các DN là phổ biến và
nghiêm trọng. Tín dụng Ngân hàng là hình thức tốt nhất để đáp ứng nhu cầu vốn lưu
động hoặc sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của DN bởi tính linh hoạt của nó. Tín
dụng Ngân hàng không chỉ còn là nguồn vốn bổ sung nữa mà đã dần trở thành một
nguồn vốn chủ yếu, quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN. Tín
dụng Ngân hàng giúp cho các DN không bỏ lỡ thời vụ làm ăn, duy trì hoạt động sản
xuất kinh doanh liên tục, giúp quá trình lưu thông được thông suốt, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn trong toàn xã hội.
Mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng
sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh được thị trường… để thực hiện được
những hoạt động này thì DN không chỉ cần có vốn lưu động tạm thời mà còn phải có
một lượng vốn cố định và ổn định lâu dài. Quy mô vốn đầu tư cho các yêu cầu trên đôi
khi vượt quá khả năng vốn của DN. Giải quyết khó khăn này, DN có thể tìm đến Ngân
hàng xin vay vốn thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Thông qua hoạt động tín dụng,
Ngân hàng là chiếc cầu nối DN với thị trường, giúp cho các DN thoả mãn nhu cầu vốn
phục vụ cho các hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thị
trường, theo kịp với nhịp độ phát triển chung, từ đó tạo cho DN một chỗ đứng vững
chắc trong cạnh tranh.
Thứ ba, tín dụng Ngân hàng giúp các SMEs tăng cường quản lý và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn, hạn chế rủi ro.
Bản chất của tín dụng ngân hàng không phải là hình thức cấp phát vốn, mà là
13
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp

hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian quy định. Do đó, các DN sau khi sử dụng vốn
vay trong sản xuất kinh doanh không chỉ cần thu hồi vốn là đủ mà còn phải tìm ra
nhiều biện pháp để sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm, tăng nhanh vòng quay của vốn,
đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất Ngân hàng thì DN mới có thể trả được nợ
và thu lãi.
Về phía Ngân hàng, khả năng thu hồi khoản cho vay phụ thuộc rất lớn vào kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN vay vốn. Vì vậy, trước khi cho vay Ngân
hàng cần xem xét đánh giấ rất kỹ lưỡng phương án sản xuất kinh doanh của DN, Ngân
hàng chỉ cấp tín dụng cho các DN có phương án khả thi, lợi nhuận đủ cao để có thể trả
nợ Ngân hàng. Ngoài ra, DN muốn có được vốn vay Ngân hàng thì phải hoàn thiện
năng lực tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả.
Thêm vào đó, trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, Ngân hàng sẽ thực thi
quy trình giám soát trong và sau khi cho vay, thông qua việc làm đó, Ngân hàng giám
sát chặt chẽ việc sử dụng vốn của DN, buộc các DN phải thực hiện đúng những điều
khoản như đã thoả thuận trong hợp đồng, sử dụng vốn đúng mục đích để đem lại hiệu
quả cao nhất.
Một yếu tố khác là do quyền lợi của Ngân hàng luôn gắn chặt với quyền lợi của
khách hàng, nên Ngân hàng sẽ sẵn sàng hợp tác với DN để tháo gỡ những khó khăn
trong phạm vi cho phép, tư vấn cho DN về các vấn đề có liên quan, tạo điều kiện giúp
DN tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
1.3 Khái quát về chất lượng tín dụng đối với SMEs của NHTM
1.3.1 Khái niệm
Có thể nói, chất lượng của một sản phẩm hay một dịch vụ đều được biểu hiện ở
mức độ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng và lợi ích về mặt tài chính cho người
cung cấp. Theo cách đó, trong kinh doanh tín dụng Ngân hàng, chất lượng tín dụng
được thể hiện ở sự thỏa mãn nhu cầu vay vốn của khách hàng, phù hợp với sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân
hàng.
Với cách định nghĩa như vậy chất lượng tín dụng ở đây được đánh giá trên ba
góc độ: Ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.

- Đối với NHTM: Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi mức độ giới hạn tín
dụng phải phù hợp năng lực của bản thân Ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh
trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
14
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
- Đối với khách hàng: Nhu cầu vay vốn tín dụng của khách hàng là để đầu tư
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh nên chất lượng tín dụng được đánh giá theo
tính chất phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với mức lãi suất và kỳ hạn
hợp lý. Thêm vào đó là thủ tục đơn giản thuận lợi nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tín
dụng.
- Đối với nền kinh tế: Chất lượng tín dụng được đánh giá qua mức phục vụ sản
xuất và lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết công ăn việc làm, thúc đẩy quá trình
sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh tế.
Hiểu đúng về bản chất của chất lượng tín dụng, phân tích và đánh giá đúng chất
lượng tín dụng hiện tại cũng như xác định chính xác các nguyên nhân của những tồn
tại về chất lượng sẽ giúp cho Ngân hàng tìm được biện pháp quản lý thích hợp để có
thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường. Giới hạn trong bài này chỉ tập trung phân
tích về chất lượng tín dụng trên góc độ NHTM.
1.3.2 Mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng
Trong hoạt động của các NHTM Việt Nam hiện nay, hoạt động tín dụng là một
nghiệp vụ truyền thống, nền tảng, chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu tài sản và cơ cấu thu
nhập, nhưng cũng là hoạt động phức tạp, tiềm ẩn những rủi ro lớn cho các NHTM. Tín
dụng trong điều kiện trong nền kinh tế mở, cạnh tranh và hội nhập vẫn tiếp tục đóng
một vai trò quan trọng trong kinh doanh Ngân hàng và đặt ra những yêu cầu về nâng
cao chất lượng tín dụng.
a, Đối với Ngân hàng
- Mục tiêu sinh lời
Hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lời của Ngân hàng có mối quan hệ chặt
chẽ với khả năng thanh toán và chỉ ra triển vọng phát triển trong tương lai của Ngân

hàng đó. Những ngân hàng hoạt động không hiệu quả sẽ gây ra những thua lỗ và nắm
giữ những tài sản không thanh khoản, cuối cùng sẽ trở nên mất khả năng thanh toán.
Trong môi trường cạnh tranh quốc tế, tăng cường hiệu quả kinh doanh, nâng
cao khả năng sinh lời của mỗi ngân hàng là cách tốt nhất để giúp cho hệ thống ngân
hàng phát triển một cách bền vững. Để có lãi, các Ngân hàng phải tạo ra nguồn thu
nhập ngày càng tăng cho mình, phải tiết kiệm chi phí hoạt động tới mức hợp lý, đồng
thời phải hạn chế được những rủi ro, thất thoát bằng cách nâng cao chất lượng tín dụng
trong hoạt động của mình.
15
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
- Mục tiêu an toàn
Nội dung hoạt động chủ yếu của một Ngân hàng thể hiện ở phía tài sản có. Quy
mô, cơ cấu và chất lượng tài sản có quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
Chất lượng tài sản có là chỉ tiêu tổng hợp nói lên chất lượng quản lý, khả năng thanh
toán, khả năng sinh lời và triển vọng bền vững của một Ngân hàng.
Phần lớn rủi ro trong hoạt động Ngân hàng đều tập trung ở phía tài sản của nó,
nên cùng với việc đảm bảo có đủ vốn thì vấn đề nâng cao chất lượng tài sản có là yếu
tố quan trọng đảm bảo cho Ngân hàng hoạt động an toàn.
Tài sản có của Ngân hàng bao gồm các tài sản sinh lời và tài sản không sinh lời,
trong đó tài sản sinh lời luôn chiếm phần chủ yếu. Tài sản có sinh lời là những tài sản
đem lại nguồn thu nhập chính cho Ngân hàng đồng thời cũng là những tài sản chứa
đựng nhiều rủi ro. Những tài sản này bao gồm các khoản cho vay, cho thuê tài chính,
các khoản đầu tư vào chứng khoán, góp vốn liên doanh, liên kết trong đó chiếm tỷ
trọng cao nhất là các khoản cho vay. Nói đến chất lượng tài sản là nói đến chất lượng
tài sản có sinh lời, mà trước hết được phản ánh ở chất lượng của hoạt động tín dụng.
Nếu một Ngân hàng có chất lượng hoạt động tín dụng cao, thể hiện qua việc thu nợ
gốc và lãi đúng hạn, bảo toàn được vốn cho vay, tỷ lệ nợ quá hạn thấp, vòng quay vốn
tín dụng nhanh, thì ngân hàng đó được đánh giá về cơ bản là hoạt động an toàn và hiệu
quả. Ngược lại, một Ngân hàng có mức độ tín dụng xấu, tỷ lệ nợ khê đọng cao sẽ gây

ra những tổn thất về tài sản, giảm khả năng sinh lời, trong khi mức dự phòng trích lập
không đủ sẽ dẫn đến giảm sút vốn tự có và cuối cùng sẽ mất khả năng thanh toán.
b, Đối với khách hàng
Việc nâng cao chất lượng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho khách hàng vay vốn đầu tư
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với mục đích sử dụng, với mức lãi suất và
kỳ hạn hợp lý. Các DN có thể tận dụng tối đa lợi thế của nguồn vốn vay và đảm bảo một
mức chi phí vốn rẻ nhất tại mức rủi ro có thể chấp nhận được. Sau khi sử dụng vốn vay
DN không chỉ cần thu hồi vốn là đủ mà còn phải tìm ra nhiều biện pháp để sử dụng vốn
có hiệu quả, tiết kiệm chi phí, tăng nhanh vòng quay của vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận
lớn hơn lãi suất Ngân hàng sẽ giúp cho các DN đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất.
Từ đó sẽ đảm bảo được khả năng trả nợ cho Ngân hàng và thu lãi của DN.
1.3.3 Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
a, Tỷ lệ nợ rủi ro/ tổng dư nợ
16
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
Tỷ lệ nợ rủi ro = Tổng dư nợ nhóm 2 đến nhóm 5 SMEs x 100%
Tổng dư nợ tín dụng SMEs
Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN dư nợ của các TCTD được chia làm
05 nhóm. Nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5 là nợ rủi ro và TCTD phải trích lập dự phòng rủi
ro đối với các nhóm được quy định như sau: nhóm 2: 5%, nhóm 3: 20%, nhóm 4:
50%, nhóm 5: 100%.
Chỉ tiêu càng lớn phản ánh nguy cơ mất vốn của Ngân hàng càng cao, chất
lượng tín dụng SMEs của Ngân hàng càng giảm.
b, chỉ tiêu dư nợ tín dụng có tài sản đảm bảo
Dư nợ tín dụng có tài sản
đảm bảo
=
Dư nợ có tài sản đảm bảo
Tổng dư nợ

Chất lượng tín dụng cần phải có cả yếu tố an toàn, dư nợ tín dụng có tài sản
đảm bảo sẽ góp phần hạn chế khả năng mất vốn, tạo nên tính an toàn cho khoản vay.
Trong trường hợp khách hàng không có khả năng trả nợ Ngân hàng sẽ bán các tài sản
đảm bảo để bù đắp tổn thất đó. Do vậy để đảm bảo chất lượng tín dụng Ngân hàng cần
chú ý tới các tài sản đảm bảo, cố gắng cho vay với các khoản vay có tài sản đảm bảo
và hạn chế cho vay trong trường hợp ngược lại.
c, Tỷ lệ Nợ xấu/ tổng dư nợ
Là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu và tổng dư nợ SMEs của NHTM ở một thời
điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Chỉ tiêu này được tính theo
công thức:
Tỷ lệ nợ xấu
SMEs
=
Nợ xấu SMEs
x 100% ≤ 5%
Tổng dư nợ SMEs
Chỉ tiêu này phản ánh nợ xấu SMEs của Ngân hàng, tỷ lệ này càng thấp càng
tốt. Thực tế, rủi ro trong kinh doanh là không tránh khỏi, nên Ngân hàng thường chấp
nhận một tỷ lệ nhất định được coi là giới hạn an toàn. Mức giới hạn này ở mỗi nước là
khác nhau, đối với Việt Nam hiện nay chấp nhận tỷ lệ là 5%.
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/ hoặc lãi đã quá hạn.
Theo cách phân loại nợ thì nợ từ nhóm 2 trở đi là không an toàn, nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu
thì chưa đánh giá chính xác về chất lượng tín dụng các SMEs của Ngân hàng. Theo quyết
17
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
định số 493/2005/QĐ-NHNN và quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước thì Nợ xấu (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 theo cách
phân loại nợ dưới đây, dư nợ của các TCTD được chia làm 05 nhóm, cụ thể:
- Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:

+ Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi
đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn;
+ Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và TCTD đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại;
- Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;
+ Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh
nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả
nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu);
- Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh
kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2
+ Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả
lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
- Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
- Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
18
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả
nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá

hạn hoặc đã quá hạn;
+ Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;
Việc phân loại nợ theo Quyết định số 493 và quyết định số 18 của NHNN vừa
dựa vào tiêu chí thời gian quá hạn của khoản vay, vừa dựa vào tiêu chí rủi ro của
khoản vay đã làm cho các Ngân hàng phải đánh giá lại thực sự các khoản nợ đã cho
khách hàng vay và có thể đánh giá chính xác hơn về chất lượng tín dụng của mình.
d, Tỷ lệ trích lập dự phòng/ tổng dư nợ
Hoạt động Ngân hàng luôn hàm chứa rủi ro, đặc biệt và thường xuyên là rủi ro
tín dụng. Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng
hạn cả gốc và lãi cho Ngân hàng. Các Ngân hàng phải tăng quỹ dự phòng tổn thất để
xử lý, dẫn đến giảm nộp ngân sách và giảm khả năng tích lũy.
Do đó, việc trích lập dự phòng là rất cần thiết, dự phòng rủi ro là khoản tiền
được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ
chức tài chính quy mô nhỏ không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết vay, nó được tính
theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tài chính quy mô nhỏ.
Tỷ lệ trích lập dự phòng
trên tổng dư nợ
= Chi phí trích lập dự phòng SMEs
Tổng dư nợ tín dụng SMEs
Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với năm 5 nhóm nợ như sau: Nhóm 1: 0%;
Nhóm 2: 5%; Nhóm 3: 20%; Nhóm 4: 50%; Nhóm 5: 100%. Chỉ tiêu này mà lớn thì
trích lập dự phòng ít, chất lượng tín dụng sẽ giảm và ngược lại.
1.3.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
Để có thể nâng cao được chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với DN (cả về
19
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngân hàng và DN sản xuất kinh doanh) ta phải hiểu rõ các nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng Ngân hàng để từ đó phát huy những tác động tích cực cũng như hạn
chế các ảnh hưởng tiêu cực. Mặt khác cả Ngân hàng và DN phải cố gắng linh hoạt để

phù hợp với quy định của Nhà nước trong hoạt động tín dụng. Có như thế thì cả Ngân
hàng và DN mới đề ra các biện pháp đúng đắn, cụ thể, linh hoạt để đạt được mục tiêu
hoạt động của mình một cách tốt nhất.
a, Nhân tố chủ quan
Đây là những nhân tố gây ra ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phát triển tín
dụng của Ngân hàng.
- Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng, nó
có ý nghĩa quyết định sự thành công hay thất bại của Ngân hàng. Chính sách tín dụng
phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, đồng thời hài
hòa giữa quyền lợi của người gửi tiền, của Ngân hàng và người sử dụng vốn vay.
Muốn vậy, chính sách tín dụng phải được xây dựng trên cơ sở khoa học và thực tiễn.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các NHTM trên thị trường tiền tệ như
hiện nay, thì một chính sách tín dụng linh hoạt sẽ là hết sức quan trọng. Nó giúp ngân
hàng đáp ứng được nhu cầu đa dạng về vốn của các loại hình DN. Từ đó thực hiện
được thành công mục tiêu mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng.
- Thông tin tín dụng
Thông tin giữ một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động tín dụng của ngân
hàng. Nhờ có thông tin tín dụng mà người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần
thiết liên quan đến việc cho vay, quản lý đảm bảo tiền vay, giảm thiểu rủi ro tín dụng,
nâng cao hiệu quả tín dụng. Có được thông tin đầy đủ, chính xác thì sẽ làm cho chất
lượng tín dụng được nâng cao do có thể kịp thời phát hiện và xử lý những vấn đề xấu
mới nảy sinh. Hơn nữa, còn có thể phát hiện, dự đoán nhu cầu vay vốn của khách hàng
để có được những chính sách tín dụng, chính sách huy động vốn cho phù hợp.
Thông tin tín dụng có thể thu thập được từ nguồn thông tin sẵn có của Ngân
hàng, từ khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh hoặc nói cách khác từ nguồn trực tiếp hay
gián tiếp, từ các nguồn thông tin của cơ quan pháp luật…
- Chất lượng nhân sự
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh
20

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
nói chung, còn nói đến hoạt động Ngân hàng thì nó lại càng quan trọng. Vì cán bộ
công nhân viên của Ngân hàng là bộ mặt, hình ảnh của Ngân hàng đối với khách hàng.
Hơn nữa nghiệp vụ Ngân hàng ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày
càng cao. Việc tuyển dụng nhân viên có đạo đức tốt, giỏi chuyên môn nghiệp vụ sẽ
giúp Ngân hàng tránh được các rủi ro có thể xảy ra để đem lại một khoản tín dụng có
chất lượng.
- Công tác tổ chức và kiểm soát nội bộ
+ Công tác tổ chức: Nhân tố này không chỉ tác động đến chất lượng tín dụng
mà tác động đến mọi hoạt động của Ngân hàng. Một Ngân hàng có cơ cấu tổ chức
đươc sắp xếp một cách khoa học, sự phân công công việc được tiến hành một cách cụ
thể, có sự liên kết giữa các bộ phận thì việc đáp ứng các yeu cầu của khách hàng sẽ
được thực hiện kịp thời, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, quản lý có hiệu quả và an toàn
các khoản tín dụng.
+ Công tác kiểm soát: Đây là công tác mà Ngân hàng nào cũng cần tiến hành
thường xuyên, liên tục nhằm duy trì chất lượng, hiệu quả kinh doanh của mình phù
hợp với các chính sách, đáp ứng yêu cầu, mục tiêu đã đề ra. Để làm tốt công tác này,
Ngân hàng cần sắp xếp một đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn, nhiệp vụ, trung thực làm
nhiệm vụ này và có chế độ thưởng, phạt nghiêm minh. Có như thế, công tác tín dụng
mới được thực hiện đúng quy trình nhằm nâng cao chất lượng tín dụng.
b, Nhân tố khách quan
- Môi trường kinh tế
Tính ổn định về kinh tế mà trước hết và chủ yếu là ổn định về tài chính quốc
gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát là những điều mà các DN rất quan tâm và ái
ngại, vì nó liên quan trực tiếp đến các hoạt dộng và hiệu quả kinh doanh của DN. Nền
kinh tế ổn định sẽ là điều kiện, môi trường thuận lợi để các DN hoạt động sản xuất
kinh doanh và thu được lợi nhuận cao, từ đó góp phần tạo nên sự thành công trong
kinh doanh của Ngân hàng.
Trong trường hợp ngược lại, sự bất ổn tất nhiên cũng bao trùm đến các hoạt

động của Ngân hàng. Ngân hàng sẽ khó tránh khỏi rủi ro nếu nền kinh tế không ổn
định, chu kỳ kinh tế có tác động không nhỏ đến hoạt động cho vay của Ngân hàng.
Trong thời kỳ nền kinh tế thị trường bị suy thoái, sản xuất bị đình trệ, kinh doanh bị
thu hẹp, làm giảm nhu cầu đầu tư, các SMEs do năng lực tài chính thấp sẽ chịu sự tác
21
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
động lớn nhất. Nhiều DN kinh doanh thua lỗ, phá sản, nhu cầu vốn tín dụng giảm
mạnh, quy mô tín dụng Ngân hàng bị thu hẹp. Và nếu vốn tín dụng đã được thực hiện
thì cũng khó có thể sử dụng có hiệu quả hay khó có thể trả nợ đúng hạn cho Ngân
hàng, làm ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng, gây tổn thất cho Ngân hàng.
- Môi trường chính trị - xã hội
Môi trường chính trị đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh
doanh, đặc biệt đối với các hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Tính ổn định về chính trị
trong nước sẽ là một trong những nhân tố thuận lợi cho các DN hoạt động kinh doanh
có hiệu quả. Đó cũng là điều kiện thuận lợi cho nhiều nhà đầu tư nước ngoài, bởi họ
không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn chú trọng tới an toàn của vốn đầu tư. Nếu
xảy ra các diễn biến gây bất ổn chính trị như: chiến tranh, xung đột đảng phái, cấm
vận, bạo động, biểu tình bãi công có thể dẫn đến những thiệt hại cho DN và cả nền
kinh tế nói chung. Và như vậy những món tiền DN vay Ngân hàng sẽ khó được hoàn
trả đầy đủ và đúng hạn, ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng.
- Môi trường pháp lý
Một trong những bộ phận của môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của DN nói chung và NHTM nói riêng là hệ thống pháp luật. Với một môi
trường pháp lý chưa hoàn chỉnh, thiếu tính đồng bộ thống nhất giữa các luật, các văn
bản dưới luật còn nhiều mâu thuẫn trong khi thực hiện và chưa thật phù hợp với các
đơn vị có liên quan đến hoạt động tín dụng thì có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
Do đó, xây dựng hành lang pháp lý vững chắc, lành mạnh, sẽ tạo thuận lợi trong việc
nâng cao hiệu quả kinh doanh của các DN trong đó có các NHTM.
c, Nhân tố khác

Ngoài những nhân tố nêu trên, chất lượng tín dụng của Ngân hàng còn chịu ảnh
hưởng của một số nhân tố khách quan khác thuộc về phía DN, hay các yếu tố về môi
trường tự nhiên
- Năng lực và trình độ quản lý của DN
do năng lực và trình độ của nhiều nhà lãnh đạo còn nhiều hạn chế về kiến thức
cũng như kinh nghiệm thực tế nên nhiều khi họ không dự đoán được những biến động
của thị trường
- Đạo đức và uy tín
22
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
Thực tế kinh doanh cho thấy tính chân thật và khả năng chi trả của khách hàng
vay có thể thay đổi sau khi món vay được thực hiện. Khách hàng có thể lừa đảo Ngân
hàng thông qua việc gian lận về số liệu, giấy tờ, quyền sở hữu tài sản, sử dụng vốn vay
không đúng mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, phương án kinh doanh
việc khách hàng gian lận tất yếu sẽ dẫn đến những rủi ro cho Ngân hàng.
Uy tín của khách hàng là tiêu chí đánh giá sự sẵn sàng trả nợ và kiên quyết thực
hiện các nghĩa vụ cam kết hợp đồng từ phía khách hàng. Thể hiện dưới nhiều khía
cạnh đa dạng như: chất lượng, giá cả hàng hóa, dịch vụ, sản phẩm, mức độ chiếm lĩnh
thị trường, chu kỳ sống của sản phẩm, các quan hệ kinh té tài chính, vay vốn, trả nợ
với khách hàng, bạn hàng và Ngân hàng. Nó được khẳng định và kiểm nghiệm bằng
kết quả thực tế trên thị trường qua thời gian. Do đó Ngân hàng cần phân tích các số
liệu và tình hình trong suốt quá trình phát triển của khách hàng với những thời gian
khác nhau mới có thể kết luận.
- Yếu tố môi trường tự nhiên
Các yếu tố rủi ro do thiên nhiên gây ra như lũ lụt, hỏa hoạn, động đất, bệnh
dịch là những yếu tố không thể lường trước được và khó tránh khỏi thiệt hại cho cả
khách hàng và Ngân hàng, gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của các DN khó có thể trả nợ Ngân hàng.
CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI SMEs TẠI
NHN
0
&PTNT CHI NHÁNH SÔNG CẦU
23
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Chuyên đề tốt nghiệp
2.1. Giới thiệu chung về NHN
0
&PTNT Chi nhánh Sông Cầu
2.1.1 Quá trình hình thành NHN
0
&PTNT Chi nhánh Sông Cầu
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHN
0
&PTNT
VN) - Agribank thành lập ngày 26/03/1988 hoạt động theo Luật các Tổ chức Tín dụng
Việt Nam, đến nay là Ngân hàng thương mại hàng đầu giữ vai trò chủ đạo và chủ lực
trong phát triển kinh tế Việt Nam, đặc biệt là đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, nông
dân. Agribank là Ngân hàng lớn nhất Việt Nam cả về vốn, tài sản, đội ngũ cán bộ nhân
viên, mạng lưới hoạt động và số lượng khách hàng, có trụ sở chính đặt tại số 2 Láng
Hạ - Ba Đình - Hà Nội.
NHN
0
&PTNT Chi nhánh Sông Cầu là đơn vị mới thành lập và đi vào hoạt động
từ ngày 25/07/2003 theo Quyết định số 187/QD/HĐQT - TCCB ngày 10/07/2003 của
Chủ tịch hội đồng quản trị NHN
0
&PTNT Việt Nam, trên cơ sở sáp nhập Công ty Vàng
bạc đá quý tỉnh Thái Nguyên vào Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

tỉnh Thái Nguyên. Hiện nay trụ sở NHN
0
&PTNT Chi nhánh Sông Cầu đặt tại số 138 -
Hoàng Văn Thụ - thành phố Thái Nguyên, có chức năng hoạt động kinh doanh, dịch
vụ Ngân hàng trên mọi lĩnh vực như nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán quốc tế và
thanh toán nội bộ đầy đủ toàn ngành. Tuy mới được thành lập và đi vào hoạt động gần
tròn 10 năm, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hết sức sôi động và nhiều cạnh
tranh, Chi nhánh đã gặp không ít những khó khăn, trở ngại trong lĩnh vực kinh doanh -
tiền tệ, nhưng với sự nỗ lực của của hơn 20 cán bộ công nhân viên của Chi nhánh,
dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của NHN
0
&PTNT tỉnh Thái Nguyên, Ngân hàng Nhà nước
thành phố Thái Nguyên, các cấp, các ngành chính quyền địa phương, đã tạo điều kiện
cho NHN
0
&PTNT Chi nhánh Sông Cầu từng bước hòa nhập với cơ chế thị trường,
nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững.
24

×