Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Làm rõ những sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp. Đảng và nhà nước ta đã giải quyết vấn đề này trong giai đoạn hiện nay như thế nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.99 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Làm rõ những sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai
cấp. Đảng và nhà nước ta đã giải quyết vấn đề này trong giai đoạn hiện nay như thế nào?
1
Giáo viên hướng dẫn: Ths Lê Thị Hoa
Sinh viên thực hiện: Vũ Trung Kiên
Lớp tín chỉ: Tư tưởng HCM_9
Số thứ tự: 193
Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 2011.
MỤC LỤC
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về vấn đề dân tộc và giai cấp
2. Sự kế thừa và phát triển tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê nin về vấn đề dân tộc và
giai cấp của Hồ Chí Minh
3. Sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-lenin và tư tưởng HCM của Đảng và nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay
2
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về vấn đề dân tộc và giai cấp
Chủ nghĩa Mác-Lenin là một học thuyết chính trị do Mác, Ăng-ghen sáng lập và được
Lenin phát triển và hoàn thiện. Chủ nghĩa Mác-Lenin là thế giới quan, hệ tư tưởng chính
trị của giai cấp công nhân, biểu hiện lợi ích của giai cấp này trong nhiệm vụ xây dựng lại
xã hội một cách cách mạng. Là một học thuyết có nền tảng gồm 3 phần chủ yếu: triết
học Mác-lenin, kinh tế chính trị Mác-lenin và chủ nghĩa xã hội khoa học.
- Khái niệm dân tộc theo chủ nghĩa Mác-lenin
Dân tộc là một hình thức tổ chức cộng đồng người có tính chất ổn định được hình
thành trong lịch sử, là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử xã hội. Trước
khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao:
thị tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa
được dùng phổ biến nhất:


Thứ nhất, dân tộc là cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững,có sinh
hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hoá đặc thù, xuất hiện sau bộ lạc,
bộ tộc; kế thừa, phát triển cao hơn những nhân tố tộc ngườiở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện
thành ý thức tự giác tộc người của dân cư cộng đồng đó.
Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có
lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, sử dụng ngôn ngữ chung và có ý thức về sự
thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống
văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước
và giữ nước.
- Hai xu hướng phát triển của dân tộc và vấn đề dân tộc trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư
bản, V.I. Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan của sự phát triển các dân tộc
như sau:
Xu hướng thứ nhất: Khi mà các tộc người, cộng đồng dân cư có sự trưởng thành về
ý thức dân tộc, ý thức về quyền sống của mình, thì các cộng đồng dân cư đó muốn tách ra
3
thành lập các dân tộc độc lập. Trên thực tế, xu hướng này đã biểu hiện thành phong trào
đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập.
Xu hướng thứ hai: Sự liên hiệp lại của các dân tộc trong một quốc gia, các dân tộc
của nhiều quốc gia nhằm mở rộng, tăng cường quan hệ kinh tế, phá bỏ ngăn cách về kinh
tế giữa các dân tộc.
Hai xu thế này vận động trong một thể thống nhất, mỗi nước vừa có nhu cầu độc
lập, tự chủ… nhưng đồng thời vừa phải mở rộng quan hệ với bên ngoài,hòa nhập với
cộng đồng quốc tế và ngày càng xích lại gần nhau trên các lĩnh vực. Đây là hai xu hướng
khách quan của phong trào dân tộc và ngày nay, nó đang có những biểu hiện rất phong
phú và đa dạng. Xét trong phạm vi các quốc gia xã hội chủ nghĩa có nhiều dân tộc: Xu
hướng thứ nhất biểu hiện trong sự nỗ lực của từng dân tộc để đi đến sự tự chủ và phồn
vinh của bản thân dân tộc mình. Xu hướng thứ hai, tạo nên sự thúc đẩy mạnh mẽ để các
dân tộc trong cộng đồng quốc gia xích lại gần nhau hơn, hòa hợp với nhau ở mức độ cao

hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, hai xu
hướng phát huy tác động cùng chiều, bổ sung, hỗ trợ cho nhau và diễn ra trong từng dân
tộc, trong cả cộng đồng quốc gia trên cơ sở hợp tác bình đẳng giữa các dân tộc, tôn trọng
và hữu nghị.
Xét trên phạm vi thế giới, sự tác động của hai xu hướng khách quan thể hiện rất
nổi bật. Trong thời đại ngày nay, các dân tộc bị áp bức đã vùng dậy đấu tranh xoá bỏ sự
thống trị của chủ nghĩa đế quốc để giành lấy quyền quyết định vận mệnh của dân tộc
mình, đó là quyền tự lựa chọn chế độ chính trị, quyền bình đẳng với các dân tộc khác.
Đây là một trong những mục tiêu chính trị chủ yếu của thời đại - mục tiêu độc lập dân
tộc.
Trong thời đại ngày nay, các dân tộc có xu hướng xích lại gần nhau thành những
liên minh trên cơ sở lợi ích chung nhất định của các dân tộc. Hơn nữa sự liên minh đó
còn tạo nên sức hút trên toàn cầu nhằm tập trung giải quyết những vấn đề chung của cả
nhân loại như: phòng chống nguy cơ chiến tranh hạt nhân,chống ô nhiễm, bảo vệ môi
trường sinh thái, phòng chống dịch bệnh, khủng bố
-Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề
dân tộc
Vấn đề dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản do đó giải quyếtvấn đề dân
tộc phải gắn với cách mạng vô sản, đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân,
trên cơ sở vì lợi ích cơ bản và lâu dài của dân tộc. Kế thừa tư tưởng của Mác và Ăngghen
về dân tộc, từ thực tiễn đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Nga,
4
phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình
phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,
V.I.Lênin đã khái quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của Đảng Cộng sản.
Nội dung của Cương lĩnh gồm:
Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Đây là quyền thiêng liêng của mọi dân
tộc, là mục tiêu phấn đấu của các dân tộc trong sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng
dân tộc. Quyền bình đẳng dân tộc là bảo đảm cho mọi dân tộc dù đông người hay ít
người, dù có trình độ phát triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau,

không một dân tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi trong quan hệ xã hội cũng như trong
quan hệ quốc tế. Để thực hiện tốt quyền bình đẳng dân tộc đòi hỏi chúng ta phải chống lại
chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực
đoan và chủ nghĩa phát xít mới.
Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết. Đây là quyền cơ bản thiêng liêng của
mọi dân tộc. Quyền tự quyết dân tộc trước hết là quyền tự quyết về chính trị, tự do lựa
chọn chế độ chính trị và con đường phát triển cho dân tộc mình, thực hiện quyền làm chủ
vận mệnh dân tộc mình mà không một dân tộc nào được quyền dùng áp lực can thiệp vào
công việc nội bộ của dân tộc khác. Quyền tự quyết dân tộc bao gồm: quyền tự do phân
lập và quyền các dân tộc tự nguyện liên hiệp lại thành một liên bang các dân tộc trên cơ
sở bình đẳng, giúp nhau cùng tiến bộ. Do đó, khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của
dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân.
Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây là tư tưởng cơ bản trong
Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin, nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công
nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Những người cộng sản lấy đoàn kết công nhân tất cả các dân tộc làm mục tiêu phấn đấu
cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng nhân loại.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin là một bộ phận trong cương lĩnh
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc của
các Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
-Khái niệm giai cấp theo quan điểm chủ nghĩa Mác-lenin:
Giai cấp là những tập đoàn người đông đảo, giống nhau về địa vị trong một hệ
thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, về quan hệ của họ với tư liệu sản xuất, về
vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, do đó có sự khác nhau về phương thức
5
hưởng thụ và về phần của cải xã hội mà họ được hưởng. Giai cấp xuất hiện dựa trên cơ
sở phát triển của phân công lao động xã hội và sự ra đời của chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất. Nó tồn tại gắn liền với những phương thức sản xuất nhất định trong lịch sử. Do các
giai cấp có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định, nên đã dẫn đến

giai cấp này có thể bóc lột thành quả lao động của giai cấp khác. Quá trình phát triển lịch
sử xã hội loài người từ trước đến nay đã cho thấy rằng trong xã hội đã từng có giai cấp
chủ nô và giai cấp nô lệ dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, giai cấp địa chủ và giai cấp nông
dân trong chế độ phong kiến, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trong xã hội tư bản. Trong
các xã hội đó, ngoài hai giai cấp cơ bản, còn có những giai cấp không cơ bản, những giai
cấp này hoặc gắn liền với sự duy trì những tàn dư của phương thức sản xuất cũ (nông dân
trong xã hội tư bản), hoặc gắn liền với sự ra đời của phương thức sản xuất mới (giai cấp
tư sản ra đời trong lòng chế độ phong kiến). Giai cấp chỉ tồn tại trong những giai đoạn
lịch sử nhất định của sự phát triển xã hội.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, giai cấp vẫn
còn tồn tại do vẫn còn sự khác nhau giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, giữa
lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn. Song, ở đây không còn
giai cấp đối kháng nữa vì xã hội phát triển chủ yếu dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất. Sự khác nhau giữa các giai cấp sẽ mất dần đi khi chế độ sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất được xoá bỏ, khi lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ rất
cao trong chủ nghĩa cộng sản thì mọi sự khác nhau về giai cấp sẽ hoàn toàn biến mất, xã
hội không còn giai cấp.
Mối quan hệ giữa dân tộc- giai cấp
Chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định rằng, vấn đề dân tộc không thể tách rời khỏi vấn
đề giai cấp, đấu tranh dân tộc không thể tách rời khỏi vấn đề giai cấp, đấu tranh dân tộc
và đấu tranh giai cấp quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng dân tộc và giai cấp là những
phạm trù chỉ các quan hệ xã hội khác nhau, mỗi nhân tố có vai trò lịch sử của nó trong sự
phát triển xã hội, không thể quy mối quan hệ này vào quan hệ kia. Giai cấp có trước dân
tộc hàng nghìn năm. Khi nhân loại tiến lên chủ nghĩa cộng sản, giai cấp sẽ mất đi, nhưng
dân tộc còn tồn tại lâu dài.
Việc giải quyết vấn đề giai cấp có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vấn đề
dân tộc, và vấn đề dân tộc bao giờ cũng được chỉ đạo bởi một quan điểm giai cấp nhất
6
định. Đồng thời, chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của nhân tố
dân tộc đối với sự phát triển xã hội, ý nghĩa cực kỳ to lớn của việc giải quyết đúng đắn

vấn đề dân tộc đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể mà giải quyết vấn đề dân tộc hay vấn
đề giai cấp trở thành nhiệm vụ chủ yếu trong từng giai đoạn cách mạng.
Quan hệ giai cấp, với tư cách là sản phẩm của một phương thức sản xuất nhất định,
là nhân tố có vai trò quyết định đối với sự hình thành dân tộc, tính chất dân tộc, xu hướng
phát triển của dân tộc, quan hệ giữa các dân tộc. Chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản đang
lên có vai trò quyết định đối với quá trình hình thành dân tộc (Quá trình hình thành dân
tộc mang tính chất điển hình). Đối với các dân tộc phương Đông, vai trò này thuộc về tập
đoàn xã hội tiên tiến đương thời.
Tính chất của dân tộc được quy định bởi phương thức sản xuất thống trị trong dân
tộc, bởi kết cấu giai cấp được sản sinh từ phương thức sản xuất đó. Thí dụ sự thống trị
của giai cấp tư sản đối với xã hội và đối với dân tộc nói lên tính chất tư bản chủ nghĩa của
dân tộc đó. Sau cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp tư sản mất vai trò thống trị, giai cấp
công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo xã hội và dân tộc. Sự thay đổi quan hệ giai cấp đó
làm cho dân tộc tư bản chủ nghĩa chuyển hướng trở thành dân tộc xã hội chủ nghĩa. Vai
trò của nhân tố giai cấp còn thể hiện ở mối quan hệ giữa áp bức giai cấp và áp bức dân
tộc, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Chủ nghĩa Mác đã chỉ ra nguyên nhân sâu xa,
căn bản của áp bức dân tộc là chế độ người áp bức bóc lột người, nói cách khác, áp bức
giai cấp là nguyên nhân căn bản của áp bức dân tộc. Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa
tư bản, do bản chất kinh tế của nó, là nguyên nhân căn bản và phổ biến của áp bức dân
tộc và sự bất bình đẳng giữa các dân tộc. Thực tế hiện nay, hầu hết các dân tộc thuộc địa,
do đấu tranh đã giành được độc lập về chính trị, thì các nhà lý luận tư sản cho rằng, chủ
nghĩa tư bản đã có khả năng khắc phục tệ áp bức, bóc lột dân tộc. Nhưng thực tế liệu có
như vậy, hay trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, áp bức, bóc lột dân tộc không mất đi mà
ngược lại vẫn phổ biến và ngày càng trầm trọng?
Nhân tố giai cấp đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ giai cấp - dân tộc.
Nhưng cũng không thể tuyệt đối hóa nhân tố giai cấp, coi nhẹ vai trò của dân tộ. Thực
tiễn cho thấy, các phong trào cách mạng không thể phát triển được, thậm chí có thể gặp
thất bại nếu coi thường hoặc phạm sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vấn đề dân
tộc.

Kể từ khi có dân tộc thì cộng đồng xã hội dân tộc là địa bàn trực tiếp của quá trình
kinh tế- xã hội, các cuộc đấu tranh giai cấp, các biến cố chính trị, các cuộc cách mạng xã
7
hội. Dân tộc là cái nôi của các nền văn hóa mà nếu không có những nền văn hóa do nhiều
dân tộc tạo ra thì không thể có nền văn minh nhân loại và không có chủ nghĩa xã hội.
Dân tộc là địa bàn trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân. Lênin
nói: "Tổ quốc, nghĩa là hoàn cảnh chính trị văn hóa và xã hội, là một nhân tố cực kỳ
mạnh mẽ đối với cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Sự nghiệp cách mạng của
gia cấp công nhân là sự nghiệp quốc tế xét về các mặt: Lợi ích căn bản, mục tiêu cuối
cùng, chông kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản quốc tế ”. Vì vậy, đoàn kết quốc tế là
nguyên tắc căn bản hàng đầu bảo đảm thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng.
Song, sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân của mỗi nước còn là sự nghiệp có tính
dân tộc sâu sắc. Địa bàn chiến đấu trực tiếp cảu giai cấp công nhân là dân tộc, là Tổ quốc.
“Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành
giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”. Là đại biểu chân chính của lợi ích và
truyền thống dân tộc, giai cấp công nhân có khả năng đoàn kết mọi lực lượng yêu nước
và cách mạng xây dựng mặt trận dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và
CNXH.
Áp bức giai cấp gây lên áp bức dân tộc, và ngược lại áp bức dân tộc lại trở thành
nguyên nhân làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp. Đặc biệt trong thời địa đế quốc chủ nghĩa,
đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa và đấu tranh giai cấp ở chính quốc có quan hệ
tác động lẫn nhau hết sức mật thiết. Đấu tranh dân tộc chứa đựng những nội dung giai
cấp sâu sắc, nó không chỉ là kết quả mà con là nguyên nhân làm cho đấu tranh giai cấp
phát triển cả về bề rộng, bề sâu và có bước nhảy vọt về chất. Đánh giá đúng vai trò cách
mạng của dân tộc thuộc địa, Lênin đã phát triển khẩu hiệu của Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản: "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!" thành khẩu hiệu mới: "Vô sản tất cả
các nước và dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!". Đó là lời kêu gọi tập hợp lực lượng xung
quanh giai cấp công nhân, tất cả các lực lượng có khả năng cách mạng, chống đế quốc
của thời đại đấu tranh vì các mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề dân tộc chỉ có thể được giải quyết từng bước và triệt để cùng với sự thắng

lợi của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội có sức mạnh xóa bỏ áp bức giai cấp, đồng thời
xóa bỏ áp bức dân tộc, bảo đảm quyền của các dân tộc tự do phát triển tất cả các giá trị
của mình. Tuy nhiên, vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc - giai cấp, quan hệ giữa các dân tộc
là vấn đề cực kỳ phức tạp. Quan niệm cho rằng, khi chính quyền đã về tay giai cấp công
nhân và nhân dân lao động thì vấn đề dân tộc sẽ trở lên rất đơn giản, tự nó được giải
quyết là một quan niệm hết sức sai lầm. Phải hiểu rằng, những mâu thuẫn của vấn đề dân
tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và dưới chủ nghĩa xã hội không chỉ là di
sản của xã hội cũ mà còn bao gồm các mâu thuẫn mới nảy sinh đòi hỏi được giải quyết.
8
Vấn đề dân tộc trở nên đặc biệt phức tạp khi các đảng cầm quyền phạm những sai lầm
lớn trong việc xử lý các quan hệ dân tộc, coi thường các lợi ích dân tộc cụ thể, coi thường
bản sắc dân tộc, tình cảm dân tộc, truyền thống dân tộc Sự khủng hoảng về vấn đề dân
tộc đã khiến cho khủng hoảng kinh tế - xã hội nói chung ở một số nước xã hội chủ nghĩa
thêm trầm trọng.
__________________
9
2. Sự kế thừa và phát triển tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lê nin về vấn đề dân tộc và
giai cấp của Hồ Chí Minh
Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn
đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam,
một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Theo Người, "Dân tộc" là một khối cộng đồng nhiều người, được hình thành trong
quá trình lịch sử, sinh ra trên cơ sở một ngôn ngữ chung, lãnh thổ chung, một đời sống
kinh tế chung, một cấu tạo tâm lý chung, biểu hiện trong một nền văn hoá chung cơ bản.
Từ khi xuất hiện vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, xã hội trong dân tộc tiến theo xu
hướng chính trị của dân tộc mình. Vì vậy, dân tộc là một phạm trù lịch sử - xã hội. Cũng
không nên lẫn lộn dân tộc với chủng tộc, dân tộc với bộ lạc.
"Giai cấp" là những tập đoàn người đông đảo, khác nhau về địa vị của họ trong mối
quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội. Giai cấp là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong

những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển của xã hội. Giai cấp sinh ra khi sự
phân công trong xã hội xuất hiện và phát triển, khi quyền tư hữu tư liệu sản xuất xuất
hiện. Từ đó hình thành giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột: giai cấp tư sản (giai cấp tư
bản), giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, Đối với trí thức, không phải là giai cấp, mà
là "tầng lớp", vì theo cách giải thích của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, thì
những người này thường phụ thuộc vào một giai cấp nhất định, bản thân họ không có hệ
tư tưởng riêng.
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí
Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những năm cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước khi học thuyết Mác –
Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người Việt Nam
10
chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng
nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là do bế tắc về đường lối, mặc dù các bậc
lãnh tụ của những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của
mình, nhưng do họ không nhận thức được xu thế của thời đại, nên không thấy được giai
cấp trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho một
phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới của
những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên
không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội Việt Nam.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước,
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
''Công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã tìm ra
con đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị áp bức
trên thế giới''.
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên các
châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận xét: chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của công nhân, nông dân
lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở thuộc địa. Nghiên cứu các cuộc cách mạng dân
chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các cuộc cách mạng này

tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'', ''bình đẳng'', nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng thực sự
cho quần chúng lao động. Người viết: Tiếng là cộng hoà, dân chủ kì thực trong thì nó
bóc lột công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Tuy khâm phục các cuộc cách mạng
ấy, nhưng Nguyên Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi. Vì thế, Nguyễn Ái
Quốc đã tích cực tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng của các dân
tộc bị áp bức, phong trào giải phóng giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Chính vì vậy
mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng Tháng Mười Nga, đến với V.I. Lênin như
một tất yếu lịch sử. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc
biệt quan trọng trong quá trình hoạt động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc
biệt, sau khi đọc ''Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của
V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam
sẽ trải qua. Người khẳng định: ''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ'';
11
rằng: ''Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản''. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng
đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản
so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải
phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do
Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm
nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải
phát triển thành cách mạng XHCN. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân tộc phải
phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn''.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh và
chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, bền bỉ
chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lý luận về
cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công nhân ở
Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao
động ''chính quốc'' với giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc địa. Đó là chủ
nghĩa Sô-Vanh nước lớn của các dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với

các dân tộc bị thống trị.
Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc đã
kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa và lên án phái
nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, theo đuổi bọn thực dân phản động,
từ chối yêu cầu giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Trong nhiều tham luận tại các Đại
hội quốc tế và các bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, phê bình
một cách kiên quyết và chân thành những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng sản
chính quốc. Các Đảng Cộng sản này, tuy thừa nhận 21 điều kiện của Quốc tế cộng sản,
trong đó Điều 8 quy định các Đảng Cộng sản ở chính quốc phải ủng hộ và hoạt động một
cách thiết thực giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc, nhưng trên thực tế hoạt động rất ít,
do không nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính cương
vắn tắt'' do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản''. Như vậy là, lần đầu
12
tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó
tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và
giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập
trường của giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai
cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt
Nam không phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân
chủ trên cơ sở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ
lên CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng này không có một bức tường nào ngăn
cách. Đây là quan điểm hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành
cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng
XHCN mới giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự.

Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính đồng
thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tự tưởng Hồ Chí Minh đã
chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa
dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết
định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin
và tiếp thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và
cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh
cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh cho sự
đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định
hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát
đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã
13
có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong
phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức
mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công
triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô
sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân, nòng cốt là liên minh công
nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu
chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp công nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là
hoàn toàn không đủ, mà theo Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức
mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu
thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh giải
quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược. Ở giai đoạn đầu

của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên trên hết. ''Nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng
những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp
đến vạn năm cũng không đòi lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân
đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc''. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở
cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu phải
là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng minh.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc như ''hai
cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô sản
và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc,
mà có thể và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi
trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định
hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là có lúc quan điểm
này của Hồ Chí Minh không được một số người, trong đó có một vài người của Quốc tế
cộng sản cũng không thừa nhận.
14
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc
địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá độ ấy phải tự
mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm đất nước,
tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức, bước đi, biện pháp của nước khác.
Những sáng tạo mới mẻ rất phù hợp với tình hình cách mạng cũng như tình hình
phát triển của Việt Nam, tạo nên những thành công vang dội, giải phóng dân tộc khỏi ách
thống trị, xây dựng đất nước từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
15
3. Sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-lenin và tư tưởng HCM của Đảng và nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay
Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm kim chỉ nam chỉ đạo mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Từ Đại hội V, VI đến Đại hội XI, Đảng và Nhà nước ta vận dụng sáng tạo tư tưởng của

Lênin trong Chính sách kinh tế mới, đề ra nhiều chủ trương, đường lối đúng đắn trong
việc sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tạo ra các đòn bẩy kinh tế thúc đẩy kinh tế đất
nước phát triển. Cho đến nay, các chủ trương, đường lối lớn có ý nghĩa chiến lược của
Đảng đã được thực hiện đạt kết quả tốt.
Một ví dụ điển hình là việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong
suốt thời kỳ quá độ và thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chủ
trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự tiếp thu có chọn
lọc thành tựu của văn minh nhân loại, góp phần làm giàu cho xã hội và nâng cao đời sống
nhân dân. Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở
quán triệt lý luận Mác-Lênin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo
vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Trong điều kiện hiện nay, kinh tế nước ta đang gặp khó khăn tạm thời do tác động của
suy giảm kinh tế toàn cầu, Đảng và Nhà nước ta vẫn xác định phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN, thực hiện cho bằng được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Đây cũng là mục tiêu xuyên suốt, trung tâm của những giải
pháp điều hành nền kinh tế như kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sản
xuất kinh doanh, đảm bảo an sinh xã hội. Nhà nước ta luôn gắn phát triển kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội, như thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, xóa đói, giảm
nghèo…Những nhóm giải pháp đó đã và đang phát huy tác dụng.
Thế giới ngày nay đã có nhiều biến đổi so với giai đoạn mà Lênin sống, nhưng cuộc
đời hoạt động cách mạng của Lenin vẫn là tấm gương sáng ngời để những người cộng
sản chân chính trên toàn thế giới phấn đấu học tập và noi theo. Đúng như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định trong tác phẩm Đường Kách mệnh (1927): “Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng
nhất là chủ nghĩa Lênin''. Mặc dù các thế lực thù địch ra sức dùng các thủ đoạn như diễn
biến hòa bình, hòng phá hoại các thành quả cách mạng, nhưng cũng không thể làm thay
đổi xu thế tất yếu của xã hội loài người là nhất định đi lên CNXH, chủ nghĩa cộng sản.
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, việc
vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa
16

vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp thiết.
Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng CNXH,
đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai
cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và
kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát huy như một trong những động lực
chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về
phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này.
Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng: mối quan
hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó, còn ở Việt Nam vốn là nước
thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối, khi nào Đảng nhấn
mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn
mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, hạ thấp ý nghĩa
quan trọng, bức thiết của vấn đề giai cấp, không lấy quan điểm giai cấp làm quan điểm cơ
sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên đề
ra và giải quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Mục tiêu
''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh'' được họ đồng tình, thưng
giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không nhất thiết phải theo định hướng
XHCN. Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của
giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi ngược với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng
ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng là không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách
mạng Việt Nam. Thực tiễn đó đã chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta đều phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc,
trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp
công nhân Việt Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn minh và
hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong sự nghiệp cách
mạng theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậy, ngay từ khi khởi xướng và
lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ: đổi mới không phải là thay đổi mục
tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng

những hình thức; bước đi và biện pháp phù hợp. Nói cách khác, giữ vững định hướng
XHCN là nguyên tắc cơ bản của quá trình đổi mới.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng
ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà thực chất là
nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây đựng CNXH ở
nước ta.
17
Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ giữa các
giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân,
đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự lãnh
đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục
tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển mau lẹ
và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp. Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực
tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn trong những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong
bối cảnh các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực
hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước
có chủ quyền, bất chấp luật pháp. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là hết sức khó khăn,
gian khổ và nhiều thử thách, đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm vững vàng. Điều đó
càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững chắc cho việc
vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,
để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước trong quá trình xây dựng một đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
18
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (bộ Giáo Dục và Đào Tạo)

2. Hồ Chí Minh toàn tập (thư viện quốc gia)
3. Mác-lenin toàn tập (thư viện quốc gia)
4. Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam
5. Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
6. Ý kiến của một số giáo sư, PGS TS…
19

×