Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch NHTMCP NT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.4 KB, 95 trang )

- -
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô giáo ThS.
PHẠM THỊ LÝ đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình viết khóa luận tốt
nghiệp.
Em chân thành cảm ơn các thầy, cô trong khoa Tài chính ngân hàng, Trường
Đại Học Đại Nam đã tận tình dạy bảo, truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm trong suốt
bốn năm học tập ở trường. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không
chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quí báu để
em bước vào đời một cách vững chắc và tự tin.
Em chân thành cảm ơn Ban giám đốc tại Sở giao dịch Ngân hàng Thương Mại
Cổ phần Ngoại Thương đã cho phép và tạo điều kiện thuận lợi để em thực tập tại
Ngân hàng. Em xin gửi lời cảm ơn đến các anh, chị trong phòng Tín dụng Doanh
nghiệp vừa và nhỏ đã giúp đỡ em trong quá trình thu thập số liệu.
Em cũng không quên gửi lời cảm ơn sâu sắc đến bạn bè và cha mẹ luôn giúp đỡ
và động viên em trong lúc em gặp khó khăn.
Cuối cùng em kính chúc quý thầy, cô dồi dào sức khỏe và thành công trong sự
nghiệp. Đồng kính chúc các cô, chú, anh, chị trong Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần
Ngoại Thương luôn dồi dào sức khỏe, đạt được nhiều thành công tốt đẹp trong công
việc.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn !
i
- -
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHTMCP NT Ngân hàng thương mại Cổ Phần Ngoại Thương
NHTM Ngân hàng thương mại
SGD Sở giao dịch
CN Chi nhánh
VCB Vietcombank
DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DN Doanh nghiệp


NHNN Ngân hàng nhà nước
NH Ngân hàng
SXKD Sản xuất kinh doanh
PGD Phòng giao dịch
QHKHSME Quan hệ khách hàng tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ
TCTD Tổ chức tín dụng
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
ii
- -
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 4
KẾT LUẬN 89
iii
- -
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Tên Trang
Bảng 2.1 Kết quả hoạt động kinh doanh tại SGD từ năm 2009 -2011
45
Bảng 2.2 Kết quả huy động vốn của Sở giao dịch từ 2009 – 2011
46
Bảng 2.3 Tỷ trọng huy động vốn của sở giao dịch
47
Bảng 2.4 Kết quả hoạt động tín dụng của Sở giao dịch từ 2009 – 2011
48
Bảng 2.5 Tỉ trọng cho vay của SGD
49
Bảng 2.6 Doanh số cho vay DNVVN phân theo loại hình doanh nghiệp
56
Bảng 2.7 Tình hình dư nợ doanh nghiệp vừa và nhỏ
57

Bảng 2.8 Dư nợ doanh nghiệp vừa và nhỏ phân theo thời hạn
58
Bảng 2.9 Dự nợ tín dụng DNNVV theo loại hình doanh nghiệp
60
Bảng 2.10 Tỷ lệ thu nợ tại SGD từ năm 2009 - 2011
61
Bảng 2.11 Tỷ lệ nợ xấu giai đoạn 2009-2011
62
Bảng 2.12 Vòng quay vốn tín dụng
64
Biểu đồ 1
Tỷ trọng dư nợ DNVVN phân theo thời hạn
58
Biểu đồ 2 Doanh số thu nợ tại SGD từ năm 2009 - 2011
61
Biểu đồ 3
Tỷ lệ nợ xấu phân theo loại hình doanh nghiệp trong thời
gian 2009 -2011
63
Biểu đồ 4 Tỷ lệ thu lãi từ các hoạt dộng trên tổng doanh thu
65
Sơ đồ 1 Tổ Chức Bộ Máy tại SGD Ngân Hàng TMCP Ngoại Thương
29
iv
- -
LỜI MỞ ĐẦU
Với bất cứ một quốc gia nào, bất cứ một nền kinh tế nào thì vốn luôn là yếu tố
hàng đầu quyết định sự tăng trưởng kinh tế.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, qua gần 20 năm
đổi mới Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên, bước đầu khẳng định được uy tín,

chinh phục được mọi thị trường, chiếm lĩnh thị trường lớn, ổn định góp phần nâng cao
vị thế của mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay với cơ chế mở cửa, các thành phần
kinh tế hoạt động một cách bình đẳng theo pháp luật. Nhiều loại hình doanh nghiệp ra
đời và phát triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp
trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới công
nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất.
Với xu thế phát triển của nền kinh tế, hệ thống các doanh nghiệp nhỏ và vừa
ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng đóng góp không nhỏ vào sự phát triển
chung của toàn bộ nền kinh tế.Với quy mô không lớn các doanh nghiệp và nhỏ có ưu
điểm so với các doanh nghiệp có quy mô lớn, đó là dễ dàng thực hiện những thay đổi,
cải cách nhằm phù hợp với điều kiện thị trường trong điều kiện thị trường có sự biến
động. Điều này đã giúp ích rất nhiều cho chính các doanh nghiệp này tồn tại và phát
triển, nhờ đó góp phần giúp giảm bớt sự bất ổn trong điều kiện nền kinh tế có nhiều
biến động. Tuy nhiên,chính hạn chế về quy mô,đặc biệt là về vốn cũng khiến cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp phải khó khăn trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay
gắt. Hiểu rõ vai trò cũng như những khó khăn mà các DNVVN gặp phải, Đảng và Nhà
Nước ta đã đưa ra nhiều biện pháp hỗ trợ tích cực nhăm giúp cho sự tồn tại và phát
triển của loại hình doanh nghiệp này.
Các ngân hàng ở nước ta hiện nay đã nhận thức rõ phân khúc khách hàng là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa là phân khúc thị trường tiềm năng, có thể đem về cho ngân
hàng lợi nhuận lớn. Do đó, đã từng bước nghiên cứu phát triển nhiều loại hình dịch vụ
nhằm đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp này, đặc biệt là nhu cầu về vốn trong điều
kiện các doanh nghiệp để tồn tại được cần liên tục đổi mới về công nghệ. Tuy nhiên
1
- -
trong những năm qua, vấn đề tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp không
ít những khó khăn và tồn tại như: sự an toàn, chất lượng, hiệu quả đặc biệt là vấn đề
chất lượng của các khoản tín dụng. Đây là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng
trong đó có Sở giao dịch ngân hàng ngoại thương. Nâng cao chất lượng tín dụng luôn
là một vấn đề cấp thiết và quan trọng đối với các ngân hàng, vì chất lượng tín dụng liên

quan trực tiếp đến quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Chính vì lý do đó mà em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch Ngân hàng Thương
mại Cổ Phần Ngoại Thương. "
Mục đích của chuyên đề:
Em muốn đánh giá một cách khách quan thực trạng chất lượng tín dụng đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ của để từ đó, đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm
góp phần nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh
Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Ngoại Thương .
Phạm vi của chuyên đề:
Khóa luận tập trung nghiên cứu thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch NHTMCP NT từ các số liệu thống kê trong 3 năm
gần đây (2009 - 2011) .
Bài viết được chia làm 3 phần:
Chương I : Cơ sở lý luận tín dụng ngân hàng
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Sở giao dịch NHTMCP NT
Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại Sở giao dịch NHTMCP NT
Để hoàn thành chuyên đề này, trước hết em xin gửi lời cám ơn chân thành đến
giảng viên hướng dẫn - ThS. Phạm Thị Lý, đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em
trong quá trình thực hiện đề tài. Em cũng xin gửi lời cám ơn đến ban lãnh đạo SGD và
các cán bộ phòng tín dụng DNVVN SGD Ngân hàng TMCP NT đã cung cấp số liệu
2
- -
và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Do phạm vi đề tài rộng, thời gian thực tập có hạn, nhất là trình độ lý luận và sự
hiểu biết còn chưa nhiều nên bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu sót.
Em rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý của các thầy cô giáo và các cán bộ ngân
hàng.

3
- -
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1 Khái quát chung về ngân hàng thương mại :
1.1.1 Khái niệm :
Ngân hàng thương mại(NHTM) là tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng có vị trí
quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường ở các nước. Có nhiều khái niệm khác
nhau về ngân hàng thương mại:
 Ở Mỹ: NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài
chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
 Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp và cơ sở nào thường xuyên nhận của
công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho
chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
 Ở Ấn Độ: NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay tài trợ
đầu tư.
Theo Pháp lệnh Ngân hàng năm 1990 của Việt Nam: Ngân hàng thương mại
là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà nghiệp vụ thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền
gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, chiết
khấu và làm phương tiện thanh toán.
 Nghị định của Chính phủ số 49/20001NĐ-CP ngày 12/9/2000 định nghĩa:
“Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận,góp
phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của nhà nước ".
 Ở Việt Nam: theo Luật tổ chức tín dụng khoản 1 và khoản 7 Điều 20 xác
định: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ
ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp
các dịch vụ thanh toán” và trong các loại hình tổ chức tín dụng thì “NHTM là một tổ
chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của
4
- -

khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các
nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
 Tóm lại NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực
tiền tệ với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ
thanh toán. Ngoài ra NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thỏa mãn
tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội .
1.1.2 Chức năng của NHTM :
1.1.2.1 Chức năng trung gian tín dụng :
Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đóng vai
trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này,
ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho
vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay
và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay:
Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi dưới
hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa ngân hàng còn đảm bảo cho
họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi.
Đối với người đi vay, họ sẽ thỏa mãn được nhu cầu vốn kinh doanh tiện lợi,
chắc chắn và hợp pháp, chi tiêu, thanh toán mà không chi phí nhiều về sức lực thời
gian cho việc tìm kiếm những nơi cung ứng vốn riêng lẻ.
Đặc biệt là đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản
xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy mô sản xuất.
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
ngân hàng thương mại.
1.1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán:
Ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và
cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài
5
- -
khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản

tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khác thu khác theo lệnh của họ.
Việc ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý
nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, các ngân hàng thương
mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm
chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng,…Tùy theo nhu cầu, khách
hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp.
Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để
gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một
phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ
tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng
này mô hình chung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc
độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. Đồng thời việc thanh toán
không dùng tiền mặt qua ngân hàng đã giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, dẫn
đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt như chi phí in ấn, đếm nhận, bảo quản,…
1.1.2.3 Chức năng tạo tiền :
Chức năng tạo tiền không giới hạn trong hành động in thêm tiền và phát hành
tiền mới của Ngân hàng Nhà nước. Bản thân các ngân hàng thương mại trong quá
trình thực hiện các chức năng của mình vẫn có khả năng tạo ra tiền tín dụng (hay tiền
ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại ngân hàng
thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao
dịch.
Từ khoản tích trữ ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ
thống ngân hàng thương mại có khả năng tạo nên số tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp
nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở
rộng tiền gửi. Hệ số này đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của công
chúng.
6
- -
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của Ngân hàng

thương mại là chức năng tín dụng vgà chức năng thanh toán. Thông qua chức năng
trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho
vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số
dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của
tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức
năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán
trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng khái niệm
về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do NHTM phát hành mà còn bao gồm
một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng thương mại tạo
ra. Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông tiền
tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả năng
tạo tiền của ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
1.1.3 Vai trò của NHTM đối với sự phát triển nền kinh tế :
1.1.3.1 Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế :
Ngân hàng thương mại ra đời là tất yếu của nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất
hàng hoá phát triển, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng, trong xã hội xuất hiện
người thì có vốn nhàn rỗi, ngượi thì cần vốn để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Điều này giải quyết bằng cách nào? NH thương mại ra đời là chìa khoá giúp
cho người cần vốn có được vốn và người có vốn tạm thời nhàn rỗi có thể kiếm được
lãi từ vốn. Các ngân hàng cũng cân đối được vốn trong nền kinh tế giúp cho các thành
phần kinh tế cùng nhau phát triển. Các ngân hàng đứng ra huy động vốn tạm thời nhàn
rỗi từ các doanh nghiệp, các cá nhân sau đó sẽ cung ứng lại cho nơi cần vốn để tiến
hành tái sản xuất với trang thiết bị hiện đại hơn, tạo ra sản phẩm tốt hơn. có lợi nhuận
cao hơn. Xã hội càng phát triển nhu cầu vốn cần cho nền kinh tế càng tăng , không
một tổ chức nào có thể đáp ứng được. Chỉ có ngân hàng - một tổ chức trung gian tài
chính mới có thể đứng ra điều hoà, phân phối vốn giúp cho tất cả các thành phần kinh
tế cùng nhau phát triển nhịp nhàng, cân đối .
7
- -
1.1.3.2 Ngân hàng là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường :

Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp không phải là cứ sản xuất bất cứ
cái gì mà phải luôn trả lời được 3 câu hỏi: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào ? và
sản xuất cho ai? Có nghĩa là sản xuất theo tín hiệu của thị trường. Thị trường yêu cầu
các doanh nghiệp phải sản xuất ra các sản phẩm với chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp
hơn, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Để được như vậy các doanh nghiệp
phải được đầu tư bằng dây truyền công nghệ hiện đại, trình độ cán bộ, công nhân lao
động phải đượcnâng cao Những hoạt động này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một
lượng vốn đầu tư lớn và để đáp ứng được thì chỉ có các ngân hàng. Ngân hàng sẽ giúp
cho các doanh nghiệp thực hiện được các cải tiến của mình, có được các sản phẩm có
chất lượng, giá thành rẻ, nâng cao năng lực cạnh tranh.
1.1.3.3 NHTM là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước :
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM với tư cách là trung tâm tiền tệ của toàn
bộ nền kinh tế, đảm bảo sự phát tiển hài hoà cho tất cả các thành phần kinh tế khi
tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, có thể nói mỗi sự giao động của Ngân hàng
đều gây ảnh hưởng ít nhiều đến các thành phần kinh tế khác. Do vậy sự hoạt động có
hiệu quả của NHTM thông qua cácnghiệp vụ kinh doanh của nó thực sự là công cụ tốt
để Nhà nứơc tiến hành điều tiết vĩ mô nền kinh tế.Thông qua hoạt động tín dụng và
thanh toán giữa các Ngân hàng trong hệ thống, NHTM đã trực tiếp góp phần mở rộng
khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Mặt khác với việc cho các thành phần trong
nền kinh tế vay vốn, NHTM đã thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân
chiavốn của thị trường, điều kiển chúng một cách có hiệu quả, bảo đảm cung cấp đầy
đủ kịp thời nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất cũng như thực thi vaitrò điều tiết
gián tiếp vĩ mô nền kinh tế.
1.1.3.4 Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính
quốc tế :
Ngày nay, trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới với việc hình
thành hàng loạt các tổ chức kinh tế, các khu vực mậu dịch tự do, làm cho các mối
8
- -
quan hệ thương mại, lưu thông hàng hoá giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng

được mở rộng và trở nên cần thiết, cấp bách. Nền tài chính của một quốc gia cần phải
hoà nhập với nền tài chính thế giới. Các ngân hàng thương mại là trung gian, cầu nối
để tiến hành hội nhập. Ngày nay, đầu tư ra nước ngoài là một hướng đầu tư quan trọng
và mang lại nhiều lợi nhuận. Đồng thời các nước cần xuất khẩu những mặt hàng mà
mình có lợi thế so sánh và nhập khẩu những mặt hàng mà mình thiếu. Các ngân hàng
thương mại với những nghiệp vụ kinh doanh như : nhận tiền gửi, cho vay, bảo
lãnh và đặc biệt là các nghiệp vụ thanh toán quốc tế, đã góp phần tạo điều kiện, thúc
đẩy ngoại thương không ngừng được mở rộng và phát triển.
1.1.4 Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM :
NHTM hiện đại hoạt động với ba nghiệp vụ chính đó là: nghiệp vụ huy động
vốn, nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ trung gian khác. Ba nghiệp vụ này có
quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển, tạo nên uy tín và thế
mạnh cạnh tranh cho các NHTM, các nghiệp vụ này đan xem lẫn nhau trong quá trình
hoạt động của Ngân hàng, tạo nên một chỉnh thể thống nhất trong quá trình hoạt động
kinh doanh của NHTM.
1.1.4.1 Nghiệp vụ huy động vốn:
Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinhdoanh của
NHTM, cụ thể bao gồm các nghiệp vụ sau:
* Nghiệp vụ tiền gửi: Đây là nghiệp vụ phản ánh hoạt động Ngân hàng nhận
các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp vào để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản
tài sản mà từ đó NHTM có thể huy động được. Ngoài ra NHTM cũng có thể huy động
các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay các hộ gia đình được gửi vàongân hàng với
mục đích bảo quản hoặc hưởng lãi trên số tiền gửi.
* Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Các NHTM phần lớn sử dụng nghiệp vụ
này để thu hút các khoản vốn có tính thời hạn tương đối dài và ổn định, nhằm đảm
bảo khả năng đầu tư, khả năng cung cấp đủ các khoản tín dụng mang tính trung và dài
9
- -
hạn vào nền kinh tế. Hơn nữa, nghiệp vụ này còn giúp các NHTM giảm thiểu rủi ro và
tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh.

* Nghiệp vụ đi vay: Nghiệp vụ đi vay được các NHTM sử dụng thường xuyên
nhằm mụcđích tạo vốn kinh doanh cho mình bằng việc vay các tổ chức tín dụng trên
thị trường tiền tệ và vay Ngân hàng nhà nước dưới các hình thức tái chiết khấu hay
vay có đảm bảo Trong đó các khoản vay từ Ngân hàng nhà nước chủ yếu nhằm tạo
sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân NHTM khi mà nó không tự cân đối được
nguồn vốn trên cơ sở khai thác tại chỗ.
* Nghiệp vụ huy động vốn khác: Ngoài ba nghiệp vụ huy động vốn cơ bản kể
trên, NHTM còn có thể tạo vốn kinh doanh cho mình thông qua việc nhận làm đại lý
hay uỷ thác vốn cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Đây là khoản vốn huy
động thông thường xuyên của NHTM, thường để nhận được khoản vốn này đòihỏi
các Ngân hàng phải lập ra các dự án cho từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng phù
hợp với đối tượng các khoản vay.
* Vốn chủ sở hữu của NHTM :Đây là vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM.
Lượng vốn này chiếm tỷtrọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, song lại là
điều kiện pháp lý bắt buộc khi bắt đầu thành lập ngân hàng. Do tính chất thường
xuyên ổn định,ngân hàng có thể sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như trang bị
cơ sở vật chất, nhà xưởng, mua sắm tài sản cố định phục vụ cho bản thân ngân hàng,
cho vay, đặc biệt là tham gia đầu tư góp vốn liên doanh. Trong thực tế khoản vốn này
không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt động kinhdoanh của bản thân Ngân hàng
mang lại.
1.1.4.2 Nghiệp vụ sử dụng vốn:
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn của NHTM vào các mục đích
khác nhau nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi nhuận. Nghiệp vụ
tài sản có bao gồm các nghiệp vụ cụ thể sau:
* Nghiệp vụ ngân quỹ: Nghiệp vụ này phản ánh các khoản vốn của NHTM
được dùng vào với mục đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán hiện thời
10
- -
cũng như khả năng thanh toán nhanh của NHTM và thực hiện quy định về dự trữ
bắt buộc do Ngân hàng Nhà nước đề ra.

* Nghiệp vụ cho vay: Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của Ngân hàng
thương mại. NH thương mại đi vay để cho vay, do đó có cho vay được hay không là
vấn đề mà mọi NH thương mại đều phải tìm cách giải quyết. Thông thường lợinhuận
từ hoạt động cho vay này chiếm tới 65- 70% trong tổng lợi nhuận của ngân hàng.
Nghiệp vụ cho vay có thể được phân loại bằng nhiều cách: theo thời gian có cho vay
ngắn hạn, cho vay trung hạn và dài hạn, theo hình thức đảm bảo có cho vay có đảm
bảo, cho vay không có đảm bảo, theo mục đích có cho vay bất động sản, cho vay
thương mại, cho vay cá nhân, cho vay nông nghiệp, cho vay thuê mua
* Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, các NHTM còn
dùng số vốn huy động được từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế - xã hội để đầu tư vào
nền kinh tế dưới các hình thức như : hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên
thị trường và trực tiếp thu lợi nhuận trên các khoản đầu tư đó.
* Nghiệp vụ khác: Ngân hàng thương mại thực hiện các hoạt động
king doanh như: kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và kim khí, đá quý; thực hiện các
dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ; nghiệp vụ uỷ thác và đại lý; kinh doanh và dịch vụ
bảo hiểm
1.1.4.3 Nghiệp vụ trung gian khác:
Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản trên ngân hàng còn thực hiện một số nghiệp vụ
khác như:
* Dich vụ trong thanh toán: Có thể nói ngân hàng là thủ quỹ của nền kinh tế.
Các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế sẽ không phải mất thời gian sau khi mua hoặc bán
hàng hoá và dịch vụ bởi việc thanh toán sẽ được ngân hàng thực hiện một cách nhanh
chóng và chính xác.
* Dịch vụ tư vấn, môi giới: Ngân hàng đứng ra làm trung gian mua bán chứng
khoán, tư vấn cho người đầu tư mua bán chứng khoán, bất động sản
11
- -
* Các dịch vụ khác: Ngân hàng đứng ra quản lý hộ tài sản; giữ hộ vàng,
tiền;cho thuê két sắt, bảo mật
1.2 Hoạt động tín dụng của NHTM:

1.2.1 Khái niệm :
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và
người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Hay
nói một cách khác: Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà
trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị
hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về
thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Vậy tín dụng ngân hàng là gì?
“ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân
hàng- một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả
các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi
vay, vừa là người cho vay”.
Với tư cách là người đi vay: ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức cá
nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội
Với tư cách là người cho vay: Ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động
sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, ngân hàng đã thực hiện chức năng
phân phối lại vốn, tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội.
Cơ sở khách quan để hình thành chức năng phân phối lại vốn tiền tệ của tín
dụng ngân hàng là do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất xã hội đã
thường xuyên xuất hiện hiện tượng tạm thời thừa vốn ở các tổ chức, cá nhân này,
trong khi các tổ chức, cá nhân khác lại có nhu cầu thiếu vốn. Hiện tượng thừa thiếu
vốn phát sinh do có sự chênh lệch về thời gian, số lượng giữa các khoản thu nhập và
chi tiêu ở tất cả các tổ chức, cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được tiến
hành liên tục. Tín dụng thương mại đã không giải quyết được vấn đề này, chỉ có ngân
12
- -
hàng là tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó
khi ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.

Có ba loại quan hệ chủ yếu trong quan hệ tín dụng ngân hàng, bao gồm:
+ Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp.
+ Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với dân cư.
+ Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các TCTD khác trong và ngoài
nước.
Ngày nay, tín dụng ngân hàng đã và đang là nhân tố thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển, điều tiết và di chuyển vốn, tăng thêm tính hiệu quả của vốn tiền tệ
trong nền kinh tế thị trường.
1.2.2 Các hình thức tín dụng ngân hàng :
Người ta có thể dựa vào rất nhiều tiêu thức để phân loại các hình thức và sản
phẩm cho vay. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học nhằm mục đích giúp cho các
ngân hàng có thể thiết lập các quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả của
công tác quản trị rủi ro tín dụng. Phân loại cho vay dựa và các căn cứ sau đây:
1.2.2.1 Thời hạn cho vay:
Theo tiêu thức này, người ta chia cho vay thành 03 loại:
Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng
để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của các nhân.
Cho vay trung hạn: Là các món vay có thời hạn trên 12 tháng đến 60 tháng.
Cho vay trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến
hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án
mới có quy mô nhỏ và thời hạn thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố
định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các
doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập.
Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn vay trên 05 năm và thời hạn tối đa
có thể lên tới 20 – 30 năm. Cho vay dài hạn được sử dụng để thực hiện các dự án đầu
13
- -
tư mới, mở rộng sản xuất, đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà ở, mua sắm, đầu tư phương
tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp, dây chuyền, nhà máy sản xuất.

1.2.2.2 Mục đích cho vay:
Dựa vào mục đích cho vay, người ta thường phân chia cho vay thành các loại
sau:
Cho vay bất động sản: Loại cho vay này liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại: Đây là loại cho vay ngắn hạn của ngân
hàng cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch
vụ nhằm để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp này.
Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay phục vụ cho mục đích trang trải các chi
phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động,
nhiên liệu…
Cho vay các định chế tài chính: Bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công
ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định
chế tài chính khác.
Cho vay tiêu dùng: Là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua
sắm các vật dụng đắt tiền và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường
của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
1.2.2.3 Mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
Theo tiêu thức phân loại này, cho vay được chia thành hai loại:
Cho vay không bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp hoặc cầm
cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản
thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, có uy tín cao, có khả năng tài chính
vững mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của
khách hàng mà không cần một nguồn thu thứ hai bổ sung.
14
- -
Cho vay có tài sản bảo đảm: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như
thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với khách hàng
không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo

đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ sung cho
nguồn thu nợ thứ nhất thiếu tính chắc chắn.
1.2.2.4 Phương pháp cho vay:
Dựa vào tiêu thức này, cho vay của NHTM được chia thành các loại sau đây:
Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay nhiều lần cách biệt nhau đối
với khách hàng không có nhu cầu thường xuyên và chỉ vay trong trường hợp cần thiết
vốn để ngân hàng tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh
doanh. Khi cần vay vốn, khách hàng làm đơn yêu cầu và trình phương án sử dụng vốn
vay gửi đến Ngân hàng. Ngân hàng sẽ phân tích, đánh giá khách hàng và ký hợp đồng
cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu
câu bảo đảm nếu cần.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Đây là hình thức cho vay mà theo đó ngân
hàng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một
khoảng thời gian nhất định. Hạn mức tín dụng này được xác định dựa trên kế hoạch
sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Hạn mức tín
dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Mỗi lần khách hàng vay chỉ cần trình bày
phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoá dịch vụ
và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ vay,
ngân hàng sẽ phát tiền vay cho khách hàng.
Cho vay trả góp: Là hình thức cho vay mà ngân hàng cho phép khách hàng trả
góp làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường được
áp dụng đối với các khoản cho vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc
hàng tiêu dùng lâu bền. Số tiền mỗi lần trả được tính toán sao cho phù hợp với khả
năng trả nợ.
15
- -
Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá, áp
dụng đối với doanh nghiệp thương mại hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ
ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. Doanh nghiệp khi mua
hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng hoá và sẽ thu nợ khi

doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý, người vay phải làm đơn xin vay luân
chuyển. Ngân hàng cùng với khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức cho
vay, hạn mức tín dụng và các nguồn cung cấp hàng hoá cũng như khả năng tiêu thụ.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số
tiền cần vay, Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Các khoản phải thu và cả hàng
hoá trong kho trở thành vật bảo đảm cho khoản vay tại Ngân hàng.
Cho vay thấu chi: Là việc cho vay mà Ngân hàng thoả thuận bằng văn bản chấp
thuận cho khách hàng chi vượt quá số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách
hàng đến một giới hạn nhất định (gọi là hạn mức thấu chi). Để được vay thấu chi,
khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi. Trong thời
gian thấu chi, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi…vượt quá số dư tiền gửi để
chi trả nhưng không được vượt quá hạn mức thấu chi. Khi khách hàng có tiền nhập về
tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Nếu khách hàng chi vượt quá hạn
mức thấu chi thì sẽ bị phạt và đình chỉ sử dụng hình thức này.
1.3 Chất lượng tín dụng ngân hàng :
1.3.1 Khái niệm :
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng, phù hợp
với sự phát triển kinh tế xã hội, phù hợp với khả năng của ngân hàng, và số vốn vay
này được khách hàng đứa vào quá trình sản xuất, kinh doanh tạo ra số tiền lớn hơn,
đảm bảo khả năng trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng đủ và đúng hạn, đồng thời, khách
hàng vay có thể trang trải đủ chi phí và có lợi nhuận, khối lượng sản phẩm hàng hóa
hữu ích cung cấp cho xã hội tăng.
Như vậy, khi xem xét chất lượng tín dụng của ngân hàng nói chung và đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng, cần tính đến ba nhân tố: ngân hàng thương mại,
khách hàng và nền kinh tế.
16
- -
Xét từ góc độ ngân hàng thương mại: chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi,
mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực
của bản thân ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo

nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động tín dụng phải thể hiện ở
chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ ngày càng tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn
đảm bảo đúng quy định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu nguồn vốn giữa ngắn hạn, trung và
dài hạn trong nền kinh tế.
Xét từ góc độ khách hàng: thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am
hiểu khách hàng sẽ làm cho ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của ngân hàng, đảm
bảo thỏa mãn nhu cầu hợp lý về vốn cho họ. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, chất
lượng là yêu cầu hàng đầu, vì vậy, chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý
của khách hàng, lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản không phiền hà, thu hút được khách
hàng nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín dụng phù hợp với tốc
độ phát triển của xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, góp phần làm
lành mạnh tài chính khách hàng.
Xét từ góc độ nền kinh tế: hoạt động tín dụng trong những năm gần đây phản
ánh rõ nét sự năng động của nền kinh tế khi chuyển sang cơ chế mới với nhiều khái
niệm mới, nội dung mới để đạt được sự thống nhất về nhận thức và tạo điều kiện nâng
cao chất lượng hoạt động tín dụng. Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc
làm cho người lao động, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế
và khai thác khả năng tiềm ẩn trong nền kinh tế, thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi
trong nước, tranh thủ vay vốn nước ngoài có lợi cho nền kinh tế phát triển.
Như vậy, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, phản ảnh mức độ thích
nghi của ngân hàng thương mại với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiến
sức mạnhc ủa một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Chất lượng tín
dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được khách hàng tốt, thủ tục đơn giản,
thuận tiện, mức độ an toàn của vốn tín dụng, chi phí tổng thể về sản xuất, chi phí
nghiệp vụ…
1.3.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng ngân hàng :
17
- -
1.3.2.1 Chỉ tiêu định tính :
Cảm giác an tâm của khách hàng khi đến giao dịch với Ngân hàng nếu Ngân

hàng có bảo vệ, có bãi gửi xe, có nhân viên trông xe không thu lệ phí thì Ngân hàng sẽ
tạo được một ấn tượng đầu tiên rất tốt đẹp trong lòng khách hàng.
Nếu ngân hàng có sơ đồ làm việc của các phòng ban sẽ giúp khách hàng không
bị bỡ ngỡ và đỡ tốn thời gian. Từ đó khách hàng sẽ có ấn tượng tốt về Ngân hàng.
Cách bố trí sắp sếp trong phòng làm việc của ngân hàng, trang phục của nhân viên,
đặc biệt là thái độ của cán bộ tín dụng ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng của
ngân hàng. Ngân hàng có được một đội ngũ cán bộ lành nghề, hăng say với công việc
cũng là một trong những yêu cầu cấp thiết để nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng.
Do đó, ngân hàng không thể bằng lòng với khả năng phục vụ hiện tại mà phải thường
xuyên củng cố phong cách làm việc, đào tạo cán bộ xây dựng cơ sở vật chất phục vụ.
Nếu chất lượng tín dụng cao thì chắc chắn Ngân hàng sẽ có nhiều khách hàng mới.
Uy tín, thương hiệu của ngân hàng cũng góp phần làm nên chất lượng tín dụng
của Ngân hàng.
Như vậy, dựa vào các chỉ tiêu định tính có thể đánh giá được phần nào chất
lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại.
1.3.2.2 Chỉ tiêu định lượng :
Các chỉ tiêu về an toàn tín dụng và mức độ rủi ro:
- Tỷ lệ nợ xấu:
Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ban hành ngày 22/04/2005 của Ngân
hàng Nhà nước, nợ xấu (hay nợ có vấn đề, nợ không lành mạnh, nợ khó đòi, nợ không
thể đòi,…) được định nghĩa là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5 quy định tại điều 6
hoặc điều 7 của Quy định này.
Nợ xấu mang các đặc trưng sau:
Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết
này đã hết hạn.
Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có khả
năng ngân hàng không thu hồi được cả gốc lẫn lãi.
Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị phát mãi
không đủ trang trải nợ gốc và lãi.
Thông thường về thời gian là các khoản nợ quá hạn ít nhất là 90 ngày.

Cụ thể, các khoản nợ xấu bao gồm:
18
- -
- Nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3)
- Nợ nghi ngờ (nợ nhóm 4)
- Nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5)
Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ phần trăm giữa nợ xấu và tổng dư nợ của ngân hàng
thương mại tại một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Chỉ
tiêu này được tính như sau:
Tỷ lệ nợ xấu =
Dư nợ xấu
X 100%
Tổng dư nợ cho vay
Cũng theo quy định này, các ngân hàng có thể chọn phân loại nợ theo phương
pháp định lượng hay phương pháp định tính với các cách xếp loại khác nhau như sau:
Theo Quyết định 493 phân loại nợ thành năm nhóm, bao gồm:
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng
thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như
các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán
Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại thời
hạn trả nợ
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 180 ngày đến 360 ngày và nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
Theo phương pháp này, mặc dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để
phân loại nợ như trên nhưng tổ chức tín dụng vẫn có quyền chủ động tự quyết định
phân loại bất kỳ khoản nợ nào vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ

rủi ro cao nếu đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm.
- Tỷ lệ nợ quá hạn:
Bên cạnh tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ nợ quá hạn cũng góp phần phản ánh chất lượng tín
dụng ngân hàng, tuy với mức độ thấp hơn.
Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá
hạn. Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả đúng
hạn, không được phép và không đủ điều kiện gia hạn nợ. Các khoản nợ quá hạn bao
gồm:
19
- -
- Nợ cần chú ý
- Nợ dưới tiêu chuẩn.
- Nợ nghi ngờ
- Nợ có khả năng mất vốn
Chỉ tiêu này được tính như sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Dư nợ quá hạn
x 100%
Tổng dư nợ cho vay
Chỉ tiêu này cho biết việc khách hàng không thực hiện được việc trả nợ đúng
hạn theo cam kết. Cũng như tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ nợ quá hạn cao phản ánh tình hình tín
dụng của ngân hàng có chất lượng thấp. Một tỷ lệ nợ quá hạn được coi là chấp nhận
được là dưới 3%.
Các khoản nợ quá hạn phát sinh có thể do nhiều nguyên nhân chủ quan (trình độ
quản lý của doanh nghiệp còn yếu kém, công nghệ sản xuất lạc hâu, doanh nghiệp
không thích nghi được với thị trường, doanh nghiệp bị đình trệ sản xuất…) và nguyên
nhân khách quan (rủi ro trong kinh doanh do thiên tai, chiến tranh, có các khoản nợ do
bị chậm thanh toán tiền hàng…). Trong thực tế, rủi ro trong hoạt động kinh doanh là
không thể tránh khỏi, do đó, các ngân hàng thương mại phải tùy thuộc vào đối tượng
khách hàng của mình mà thiết lập mức giới hạn tỷ lệ nợ quá hạn nhất định.

Các chỉ tiêu về sử dụng vốn:
- Tỷ lệ cho vay trên tổng vốn dư nợ :
Tổng dư nợ đến kỳ hạn
Tỷ lệ cho vay =
Tổng lượng vốn huy động tích lũy
Tỷ lệ này cho biết khả năng ngân hàng tận dụng nguồn vốn huy động
trong hoạt động tín dụng.
- Hệ số thu nợ :
Tỷ lệ thu nợ (%) =
Doanh số thu nợ
x 100%
Doanh số cho vay
Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả tín dụng trong việc thu nợ của NH. Nó phản ánh
trong 1 thời kỳ nào đó, với doanh số cho vay nhất định thì ngân hàng sẽ thu về được
bao nhiêu đồng vốn. Tỷ lệ này càng cao càng tốt.
20
- -
- Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng:
Chỉ tiêu này đo lường tốc độ luân chuyển vốn tín dụng của ngân hàng trong
một thời gian nhất định (thường là một năm), phản ánh thời gian thu hồi nợ của ngân
hàng là nhanh hay chậm và được xác định như sau:
Vòng quay vốn tín dụng =
Doanh số thu nợ
Dư nợ bình quân
Chỉ tiêu này càng tăng thì tính tổ chức, quản lý tín dụng càng tốt, chất lượng tín
dụng càng cao. Tuy nhiên, chỉ tiêu này chỉ phản ánh một cách tương đối, vì lượng vốn
do các doanh nghiệp sản xuất vay chiếm tỷ trọng lớn dư nợ thì chỉ tiêu này của ngân
hàng sẽ thấp hơn (vốn quay vòng chậm hơn) so với lượng vốn do các doanh nghiệp
thương mại vay chiếm tỷ trọng lớn dư nợ. Do vậy, để có sự chính xác trong xem xét
chất lượng tín dụng thông qua chỉ tiêu này thì các tiêu thức tính toán phải thống nhất,

vòng quay vốn tín dụng phải tính toán cho từng loại vay, thời hạn vay và từng đối
tượng vay cụ thể.
- Hiệu suất sử dụng vốn:
Đây là chỉ tiêu dùng để so sánh khả năng cho vay của ngân hàng với khả năng
huy động vốn của ngân hàng đó tại một thời điểm, đồng thời, xác định hiệu quả của
một đồng vốn huy động. Chỉ tiêu này được tính như sau:
Hiệu suất sử dụng vốn =
Tổng dư nợ
x 100%
Tổng vốn huy động
Thông thường, nếu nhìn vào cách tính, ta sẽ thấy chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ
ngân hàng sử dụng nhiều vốn huy động và hoạt động của ngân hàng sẽ hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, điều này chưa chắc đã đúng. Thực ra, ta chưa thể khẳng định được hiệu
suất sử dụng vốn cao thì chất lượng tín dụng cùa ngân hàng là tốt và ngược lại, bởi tỷ
lệ dư nợ trên vốn huy động lớn song có thể tỷ lệ nợ đủ tiêu chuẩn vẫn ở tỷ lệ thấp, làm
ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. Ngoài ra, ta có thể thấy rằng ngân hàng
có hiệu suất sử dụng vốn cao chưa hẳn đã tốt hoặc ngược lại, do nếu chỉ tiêu này có
giá trị lớn (càng lớn hơn 1, tức tổng số tiền huy động ít hơn tổng số tiền cho vay) thì
ngân hàng phải tìm kiếm nguồn vốn khác có chi phí cao hơn; đồng thời, nếu hiệu suất
21

×