Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.12 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
A.LỜI MỞ ĐẦU 2
I. CHỦ NGHĨA MLN BÀN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP 2
SƠ LƯỢC QUAN ĐIỂM CỦA MÁC, ĂNGGHEN, LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

2
DÂN TỘC LÀ VẤN ĐỀ RỘNG LỚN, BAO GỒM NHỮNG QUAN HỆ VỀ CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, LÃNH THỔ, PHÁP LÝ, TƯ
TƯỞNG VÀ VĂN HOÁ GIỮA CÁC DÂN TỘC, CÁC NHÓM DÂN TỘC VÀ BỘ TỘC.

2
VẤN ĐỀ DÂN TỘC THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LÀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC THUỘC ĐỊA:

3
+ ĐỘC LẬP CHO DÂN TỘC MÌNH VÀ CHO TẤT CẢ CÁC DÂN TỘC KHÁC.

8
2.VỀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP 8
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP LÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHIẾN LƯỢC, CƠ BẢN, LÂU DÀI
CỦA SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG NƯỚC TA. CÁC DÂN TỘC TRONG ĐẠI GIA ĐÌNH VIỆT NAM
BÌNH ĐẲNG, ĐOÀN KẾT, TÔN TRỌNG VÀ GIÚP NHAU CÙNG TIẾN BỘ; CHỐNG TƯ TƯỞNG
DÂN TỘC LỚN, DÂN TỘC CỰC ĐOAN VÀ KỲ THỊ, CHIA RẼ DÂN TỘC; KHẮC PHỤC TƯ TƯỞNG
TỰ TI, MẶC CẢM DÂN TỘC; CÙNG NHAU THỰC HIỆN THẮNG LỢI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA. THỰC HIỆN TỐT CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, CHĂM LO ĐỜI SỐNG
VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN, XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ.
QUY HOẠCH, SẮP XẾP LẠI DÂN CƯ, LÀM TỐT CÔNG TÁC ĐỊNH CANH ĐỊNH CƯ VÀ XÂY
DỰNG VÙNG KINH TẾ MỚI, GẮN PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI BẢO ĐẢM AN NINH, QUỐC
PHÒNG. NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ DÂN TRÍ, GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ, TIẾNG
NÓI, CHỮ VIẾT VÀ TRUYỀN THỐNG TỐT ĐẸP CỦA CÁC DÂN TỘC. THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ƯU TIÊN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG, SỬ DỤNG CÁN BỘ, TRÍ THỨC VÀ PHÁT HUY VAI TRÒ


CỦA NHỮNG NGƯỜI TIÊU BIỂU, CÓ UY TÍN TRONG CỘNG ĐỒNG; CỦNG CỐ VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ. LÀM
TỐT CÔNG TÁC DÂN VẬN THEO PHƯƠNG CHÂM “CHÂN THÀNH, TÍCH CỰC, THẬN TRỌNG,
KIÊN TRÌ, TẾ NHỊ, VỮNG CHẮC” VÀ PHONG CÁCH “TRỌNG DÂN, GẦN DÂN, HIỂU DÂN, HỌC
DÂN,CÓ TRÁCH NHIỆM VỚI DÂN”. MẶT KHÁC,MỘT XÃ HỘI BAO GIỜ CŨNG TỒN TẠI NHIỀU
GIAI CẤP, TRONG ĐÓ CÓ NHỮNG GIAI CẤP ĐỐI KHÁNG NHAU, DẪN ĐẾN HỆ QUẢ TẤT YẾU
LÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP. KHI HIỂU RÕ VỀ BẢN CHẤT CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP, CHẮC
CHẮN CON ĐƯỜNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ SẼ TRỞ NÊN RÕ RÀNG VÀ ĐÚNG ĐẮN HƠN 21
1
A.LỜI MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải
quyết vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện : khẳng định vai trò lịch sử của
giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá
trình cách mạng Việt Nam ; chủ trương đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên
minh công nhân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng ; sử dụng bạo
lực cách mạng của kẻ thù ; thiết lập chính quyền nhà nước của dân , do dân và vì
dân ; gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội
Chính vì chúng quan hệ chặt chẽ với nhau như vậy nên mọi hoạt động cách
mạng của Đảng đều đồng thời giải quyết cả vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp;
mọi biểu hiện tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc hoặc quá
nhấn mạnh vấn đề dân tộc mà xem nhẹ vấn đề giai cấp đều trái với quan điểm
của Hồ Chí Minh.
Để biết rõ hơn về mối quan hệ của chúng, chúng ta sẽ đi vào từng vấn đề một
để biết rõ hơn về quan niệm của Hồ Chí Minh về từng vấn đề như thế nào và tác
dụng ra sao và nó được đảng, nhà nước ta vận dụng trong giai đoạn hiện nay
như thế nào?
B.NỘI DUNG
I. Chủ nghĩa MLN bàn về vấn đề dân tộc và giai cấp.
1. Về vấn đề dân tộc.

Sơ lược quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về vấn đề dân tộc
Dân tộc là vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan hệ về chính trị, kinh tế,
lãnh thổ, pháp lý, tư tưởng và văn hoá giữa các dân tộc, các nhóm dân
tộc và bộ tộc.
- Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá
trình phát triển lâu dài của lịch sử.
2
+ Mác-Ăngghen đã đặt nền móng tư tưởng cho việc giải quyết vấn đề dân
tộc một cách khoa học.
Hình thức cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các dân tộc tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa
tư bản bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính
sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhỏ từ đó xuất hiện vấn
đề dân tộc thuộc địa. Mác và Ăngghen nêu lên quan điểm cơ bản có tính chất
Ăngghen nêu nên quan điểm có tính chất phương pháp luận để nhận thức và giải
quyết vấn đề nguồn gốc, bản chất của dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân
tộc, thái độ của giai cấp công nhân và Đảng của nó về vấn đề dân tộc.
+ Lênin đã phát triển quan điểm này thành hệ thống lý luận toàn diện và sâu sắc
về vấn đề dân tộc, làm cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các
Đảng Cộng sản về vấn đề dân tộc. Trong đó đáng chú ý là các vấn đề:
+ Dân tộc là một cộng đồng dân cư hình thành từ một bộ tộc hoặc từ sự liên kết
của tất cả các bộ tộc sống trên cùng một vùng lãnh thổ. Cũng như bộ tộc, dân tộc
là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp, có các thể chế
chính trị và nhà nước
Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa:
Khi các nước đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa để mở rộng thị trường, chúng
thực hiện sự áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hoá đối với
các nước bị xâm chiếm- thì vấn đề dân tộc trở thành vấn đề dân tộc thuộc địa.
Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc
thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xoá

bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập
nhà nước dân tộc độc lập.
2. Về vấn đề giai cấp.
Chủ nghĩa Mac- Lênin khẳng định bản chất giai cấp của nhà nước. Sự xuất hiện
của nhà nước là một tất yếu kinh tế - chính trị.
3
Nhà nước ra đời khi xã hội có sự phân chia giai cấp do mâu thuẫn không thể
điều hoà được giữa các giai cấp đối kháng thì nhà nước xuất hiện. Nhà nước
luôn mang bản chất của giai cấp nhât định, không có nhà nước siêu giai cấp.
II.Tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc và giai cấp.
1.Về vấn đề dân tộc.
Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại cách mạng vô sản đầu
thế kỷ XX có mấy luận điểm cơ bản sau:
• ) Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc.
+ Tất cả các dân tộc trên thế giới phải được độc lập hoàn toàn và thật sự. Độc
lập trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, toàn vẹn lãnh thổ.
Mọi vấn đề của chủ quyền quốc gia do dân tộc đó tự quyết định. Theo Hồ Chí
Minh độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa và theo
nguyên tắc: Nước Việt Nam là của người Việt Nam, do dân tộc Việt Nam quyết
định, nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài.
Trong nền độc lập đó mọi người dân đều ấm no, tự do, hạnh phúc, nếu không
độc lập chẳng có nghĩa gì. Hồ Chí Minh nói: “chúng ta đã hy sinh, đã giành
được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Tư
tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh.
Độc lập tự do là quyền tự nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá. Hồ
Chí Minh đã tiếp xúc với Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 và Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của Pháp 1791, Người đã khái quát chân lý: “Tất cả các dân
tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Trong hành trình tìm đường cứu nước
cho dân tộc khi còn ở Pháp Nguyễn Ái Quốc đấu tranh để đòi các quyền cho

nhân dân An Nam:
Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông
Dương như đối với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng
chế độ đạo luật.
4
Hai là, luận, tự đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, tự do ngôn
do báo chí, hội họp, tự do cư trú Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt
những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Véc-xây bản yêu
sách của nhân dân An-nam đòi quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Bản yêu
sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc rút ra bài học: Muốn bình đẳng
thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân tộc- làm cách mạng, muốn giải phóng
dân tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào lực lượng của bản thân mình.
Điều này thể hiện ở mục tiêu của cách mạng Việt Nam là: Đánh đổ Đế quốc
Pháp và phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách mạng
Tháng 8 thành công, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng
định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”.
+ Hoà bình chân chính trong nền độc lập dân tộc để nhân dân xây dựng cuộc
sống ấm no hạnh phúc cũng là quyền cơ bản của dân tộc. Hoà bình không thể
tách rời độc lập dân tộc, và muốn có hoà bình thật sự thì phải có độc lập thật sự.
Hồ Chí Minh đã nêu: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hoà bình.
Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc
lập và chủ quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập
cho đất nước”. Chân lý có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc
lập, tự do”.
+ Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
• ) Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực to lớn của
đất nước:
Do kinh tế lạc hậu, sự phân hoá giai cấp chưa triệt để, vì thế “cuộc đấu tranh

giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây”, điều này có ý nghĩa đối với
các dân tộc phương Đông: có sự tương đồng lớn, dù là ai, cũng đều là nô lệ mất
nước. Chủ nghĩa dân tộc bản xứ là chủ nghĩa yêu
5
• ) Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
Dưới ánh sáng của CNMLN khi Hồ Chí Minh bàn đến vấn đề dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc thì độc lập dân tộc phải gắn với CNXH, mối quan
hệ dân tộc và giai cấp được đặt ra.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường của
một giai cấp nhất định. Theo quan điểm của CNMLN, chỉ trên lập trường của
giai cấp vô sản, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc.
Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, Mác-Ăngghen đã đề cập mối quan hệ dân tộc
và giai cấp: cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai
cấp tư sản, ở giai đoạn đầu của nó là mang tính chất dân tộc. Mác kêu gọi “giai
cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên
thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành giai cấp dân tộc, không phải
theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Cũng theo Mác –Ăngghen, chỉ có giai
cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích dân tộc- lợi ích của mình với các lợi ích
của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ có xoá bỏ áp bức, bóc lột giai cấp
thì mới xoá bỏ áp bức dân tộc, đem lại độc lập thật sự cho dân tộc mình và cho
dân tộc khác. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen không đi sâu nghiên cứu vấn đề dân
tộc vì ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản, đối
với Mác, vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai cấp.
Thời đại Lênin, khi CNĐQ đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng giải
phóng dân tộc trở thành bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin mới phát triển
vấn đề dân tộc thành học thuyết về cách mạng thuộc địa. Lênin cho rằng, cách
mạng vô sản ở chính quốc không thể giành thắng lợi nếu không liên minh với
cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Khẩu hiệu của Mác được
bổ sung: “vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại.” Lênin đã

thực sự “đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước
thuộc địa.”
6
Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với CNMLN, đã nhận thức được
mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, lựa chọn cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường
cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh nêu, các nước thuộc địa phương Đông không
phải làm ngay cách mạng vô sản, mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có độc lập
dân tộc rồi mới bàn đến cách mạng XHCN. Từ thực tiễn của đấu tranh cách
mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán quan điểm của các đảng cộng sản Tây Âu
không đánh giá đúng vai trò, vị trí, tương lai của cách mạng thuộc địa, và
Nguyễn Ái Quốc đi đến luận điểm: “Các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức
mình là chính, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản
và nhân dân lao động thế giới để phải đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, từ
cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng XHCN.” Tư tưởng Hồ
Chí Minh về kết hợp dân tộc với giai cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc
với CNXH thể hiện một số điểm sau:
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh thấy rõ mối
quan hệ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp của
giai cấp vô sản. “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của CNCS
và của cách mạng thế giới”.
Năm 1930, trong chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác
định con đường của cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm “tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Năm 1960, Hồ Chí Minh xác định “chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa
phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại
cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải
phóng dân tộc với các mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải

phóng con người. Do đó “giành được độc lập rồi phải tiến lên CNXH, vì mục
7
tiêu của CNXH là “làm sao cho dân giàu, nước mạnh”, “là mọi người được ăn
no, mặc ấm, sung
+ Độc lập cho dân tộc mình và cho tất cả các dân tộc khác.
Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập dân tộc mình mà còn đấu tranh
cho tất cả các dân tộc bị áp bức. “Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của
các dân tộc khác như là đấu tranh cho dân tộc ta vậy”. Chủ nghĩa dân tộc thống
nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh nêu cao tinh thần tự quyết
của dân tộc, song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình trong việc giúp
đỡ các đảng cộng sản ở một
2.Về vấn đề giai cấp
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mac - Lênin, trong khi nhấn mạnh tới
tính chất dân chủ nhân dân của nước ta, HCM cũng luôn khẳng định dứt khoát
bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta, điều đó được thể hiện trước hết ở
chỗ: Nhà nước ta do ĐCS, Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Người khẳng
định: " Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh
công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo". Nhà nước ta được tổ chức hoạt
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. HCM nhấn mạnh: " Nhà nước ta phát
huy dân chủ đến cao độ Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên
được tất cả lực lượng của nhân dân đưa CM tiến lên. Đồng thời phải tập trung
đến cao độ hệ thống lãnh đạo nhân dân xây dựng Chủ nghĩa xã hội".
Trong mối quan hệ với dân chủ, Người cũng không ngại nói đến chuyên
chính: “ chế độ nào cũng có chuyên chính. Vấn đề là ai chuyên chính với ai?
Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khoá, cái cửa để
đề phòng kẻ phá hoại Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ
gìn lấy dân chủ”.
Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của nhà nước, HCM cũng đồng thời
khẳng định sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và
tính dân tộc của nhà nước. Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu

dài gian khổ của bao thế hệ những người yêu nước.
8
Nhà nước dân chủ nhân dân của ta là một nhà nước thống nhất của khối đại
đoàn kết dân tộc. Cơ sở của nhà nước không bó hẹp trong phạm vi một giai cấp,
tầng lớp mà nó mang tính quảng đại quần chúng, được sự ủng hộ của mọi giai
cấp tầng lớp trong xã hội. Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với
tinh thần nhân dân và tính dân tộc còn biểu hiện ở chỗmục đích hoạt động của
nhà nước là đem lại lợi ích cho đại bộ phận nhân dân, nó bảo vệ lợi ích của nhân
dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng. Chính phủ do HCM đứng đầu luôn là
chính phủ của khối đại đoàn kết dân tộc.
Nhà nước ta quản lý đất nước bằng pháp luật. Pháp luật đó không chỉ đại diện
cho ý chí nguyện vọng của giai cấp công nhân mà còn đại diện cho ý chí nguyện
vọng của quảng đại quần chúng.
Như vậy, tư tưởng HCM là sự thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, giữa chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa đế quốc, giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Điều đó cũng được thể hiện rõ trong tư tưởng của Người về một nhà nước kiểu
mới.
III.Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc với vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của
cách mạng Việt Nam, một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào
kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ
Chí Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ
những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước
khi học thuyết Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu
nước của người Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục
đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại
chính là do bế tắc về đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào
yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng do họ
không nhận thức được xu thế của thời đại, nên không thấy được giai cấp trung

9
tâm của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho một
phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới
của những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và
thời đại, nên không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển
của xã hội Việt Nam.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước,
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường
cứu nước. ''Công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách mạng Việt
Nam là đã tìm ra con đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc
và các dân tộc bị áp bức trên thế giới''.
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước
trên các châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút
ra nhận xét: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ
của công nhân, nông dân lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở thuộc địa.
Nghiên cứu các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789),
Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'',
''bình đẳng'', nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao
động. Người viết: Tiếng là cộng hoà, dân chủ kì thực trong thì nó bóc lột công
nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Tuy khâm phục các cuộc cách mạng ấy,
nhưng Nguyên Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi. Vì thế, Nguyễn
Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng
của các dân tộc bị áp bức, phong trào giải phóng giai cấp công nhân ở các nước
tư bản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng Tháng
Mười Nga, đến với V.I. Lênin; như một tất yếu lịch sử. Cách mạng Tháng Mười
Nga thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt
động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc ''Sơ thảo
lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin, Nguyễn Ái
Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua.
Người khẳng định: ''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng

10
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ''; rằng: ''Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản''. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự
khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp
hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước
trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách
mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng. Vì vậy,
con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển
thành cách mạng XHCN. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân tộc phải
phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn
toàn''.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu
tranh và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp, bền bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc
địa, đã phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt
động trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn
cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động ''chính quốc'' với giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thuộc địa. Đó là chủ nghĩa sô-vanh nước lớn
của các dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị
thống trị.
Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc
đã kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa và
lên án phái nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, theo đuổi bọn
thực dân phản động, từ chối yêu cầu giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Trong
nhiều tham luận tại các Đại hội quốc tế và các bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã bảo
vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, phê bình một cách kiên quyết và chân thành những
sai lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng sản chính quốc. Các Đảng Cộng sản
này, tuy thừa nhận 21 điều kiện của Quốc tế cộng sản, trong đó Điều 8 quy định

11
các Đảng Cộng sản ở chính quốc phải ủng hộ và hoạt động một cách thiết thực
giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc; nhưng trên thực tế hoạt động rất ít, do
không nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính
cương vắn tắt'' do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản''.
Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh,
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc
cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải
phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi
ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp
công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực
lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam
không phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu
dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt
Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước
chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp
ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách
mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc
mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ vững
được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự.
Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước
truyền thống Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi
vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư
tưởng dân tộc chân chính đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân
chính. Sự phát triển tự tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn

12
cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức
giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là
động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu
quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và
cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng
sản Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu
tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là
chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển
sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo
kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng
tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách
mạng Nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua.Bởi lẽ,
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành
công triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của
cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân,
nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp
công nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, mà theo
Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành
lực lượng vô địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc
(mâu thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc
đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc
xâm lược. Ở giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân
tộc lên trên hết. ''Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc
13

lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi
kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi
lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải
giải phóng dân tộc''. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái
dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu phải là “hy
sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng minh.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc như
''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính
quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều
vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên giành
thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ
cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và
sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh
không được một số người, trong đó có một vài người của Quốc tế cộng sản cũng
không thừa nhận.
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ
thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước
quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình
hình và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức, bước
đi, biện pháp của nước khác.
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện
nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ
biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai
các nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ
quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc
trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến
lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức
14

mạnh dân tộc không được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất.
Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương
điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này.
Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng:
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó, còn
ở Việt Nam vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng
chi phối, khi nào Đảng nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ
đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn
đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, hạ thấp ý nghĩa quan trọng, bức thiết của vấn đề
giai cấp, không lấy quan điểm giai cấp làm quan điểm cơ sở lập trường để xem
xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên đề ra và giải
quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Mục tiêu ''dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh'' được họ đồng tình,
thưng giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không nhất thiết phải theo
định hướng XHCN. Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải quyết vấn đề dân tộc
theo lập trường của giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi ngược với con
đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng là
không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó đã
chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều
phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp công
nhân Việt Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn minh
và hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong sự
nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậy, ngay
từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ: đổi
mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về
CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức; bước đi và biện pháp
15
phù hợp. Nói cách khác, giữ vững định hướng XHCN là nguyên tắc cơ bản của

quá trình đổi mới.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến
nay, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện,
mà thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp
trong công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta.
Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ
giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội
bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ
quốc được sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi
ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội”.
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển
mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng
tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn
trong những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư
tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các
dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu
chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những
nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp.
Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán
triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới,
làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách,
vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
16
IV.Đảng và nhà nước ta giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp trong giai
đoạn hiện nay.

1. Về vấn đề dân tộc:
Nước ta là một trong những quốc gia đa dân tộc, trải qua mấy nghìn năm dựng
nước và giữ nước, các dân tộc luôn kề vai sát cánh gắn bó máu thịt bên nhau
trong đấu tranh chống ngoại xâm, chống thiên tai địch hoạ và dựng xây đất
nước. Các dân tộc nước ta là một cộng đồng thống nhất trong đa dạng; cư trú
xen kẽ và phân tán trên mọi vùng miền với cơ cấu dân số và trình độ phát triển
kinh tế - xã hội không đồng đều; bản sắc văn hoá từng dân tộc tạo nên sự đa
dạng, phong phú của nền văn hiến Việt Nam. Bình đẳng, đoàn kết các dân tộc là
đường lối của Đảng ta đã xác định ngay từ khi mới thành lập và trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng. Dựa trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đề ra các chủ trương, chính sách dân tộc với
những nội dung cơ bản:“Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát
triển”.
Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội X của Đảng về vấn đề dân tộc, trong
mục XII “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tiếp tục đổi mới phương thức
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân” đã ghi:
“Đoàn kết các dân tộc là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách
mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần, xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực
hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới; làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế
17
mới. Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với bảo
đảm an ninh, quốc phòng. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở
cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân sĩ, trí thức của đồng bào dân tộc thiểu số. Cán bộ

công tác ở vùng dân tộc và miền núi thực hiện “cùng ăn, cùng ở, cùng làm,
cùng nói tiếng nói của đồng bào”, làm tốt công tác dân vận. Chống kỳ thị, hẹp
hòi, chia rẽ dân tộc”.
Dự thảo lần này có sửa đổi, bổ sung rõ, cụ thể và đầy đủ hơn về vấn đề dân tộc
và định hướng chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, một số câu chữ và trình tự của các vấn đề đặt ra,
chúng tôi có vài ý kiến tham gia như sau:
- Vấn đề “Đại đoàn kết toàn dân tộc” đã được xác định ở đầu mục XII, do đó
trong đoạn này cần nhấn mạnh “Vấn đề dân tộc” như đã ghi tại Văn kiện Đại hội
IX. Nay tiếp tục khẳng định “Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết các dân tộc là vấn
đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta”.
- Nội dung mang tính nguyên tắc của đường lối, chủ trương, chính sách dân tộc
của Đảng, xác định tiếp theo “Vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài” là “Chống tư
tưởng dân tộc lớn, dân tộc cực đoan và kỳ thị, chia rẽ dân tộc; khắc phục tư
tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc” cùng với cụm từ “Các dân tộc trong đại gia đình
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ”.
- Thay từ “Tôn trọng” cho từ “Tương trợ” trước đây là hợp lý; tránh cách hiểu
“Tương trợ” theo một chiều: “Vùng mạnh giúp vùng yếu, người giàu giúp người
nghèo” khi hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc, dễ dẫn đến lối
suy nghĩ theo kiểu “Ban ơn, chiếu cố” của cơ chế “Xin - cho” trong xử lý ở tầm
vĩ mô và nảy sinh tư tưởng “ỷ lại, chờ trên rót xuống” ở địa phương, cơ sở.
Không thấy rõ trách nhiệm và tác động qua lại giữa các vùng thuận lợi hơn và
những vùng khó khăn hơn, thực hiện thắng lợi công cuộc xoá đói giảm nghèo
18
trên phạm vi cả nước, mà trước hết là vùng đặc biệt khó khăn ở miền núi, vùng
cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới - nơi có đại bộ phận đồng bào dân tộc
thiểu số sinh sống. Vì lợi ích chung, đồng bào các dân tộc sẵn sàng di dời nơi ở
gắn liền với phong tục tập quán truyền thống từ nhiều đời nay, chuyển đến nơi
tái định cư để xây dựng các công trình quốc gia… “Tôn trọng lẫn nhau, giúp đỡ
lẫn nhau cùng tiến bộ” thể hiện rõ và đầy đủ hơn mối quan hệ tương hỗ trong

việc “Tương trợ giúp nhau cùng phát triển” giữa các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam.
- Việc “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân sĩ, trí thức của đồng bào dân tộc thiểu
số” là hết sức quan trọng, là một trong hai nội dung cơ bản nhất của chính sách
dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta: “Văn hoá và Cán bộ”. Tuy nhiên, ở đây
nên bỏ từ “Nhân sĩ” vì không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay. Mặt khác, cần
tiếp tục khẳng định việc “Động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu,
có uy tín trong cộng đồng bà con dân tộc thiểu số” tham gia các hoạt động quản
lí xã hội ở địa phương và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Về công tác dân vận, không chỉ là “Cán bộ công tác ở vùng dân tộc và miền
núi thực hiện cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng của đồng bào”, mà nên
tổng quát: “Làm tốt công tác dân vận theo phương châm: Chân thành, tích cực,
thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc” và phong cách: “Trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân, có trách nhiệm với dân”, như đã xác định tại Nghị quyết số 24-
NQ-TW ngày 12/3/2003 Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Khoá IX
về công tác dân tộc.
- Thống nhất sử dụng cụm từ “Vùng đồng bào dân tộc thiểu số” trong các cụm
từ “Vùng dân tộc”, “Vùng đồng bào dân tộc”, “Vùng dân tộc và miền núi” hoặc
“Vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới”. Vùng đồng bào dân tộc thiểu số, được
hiểu một cách tổng quát chung là vùng các dân tộc sinh sống ở miền núi, đồng
bằng, miền biển, biên giới (kể cả hải đảo) và vùng sâu, vùng xa. Để nhấn mạnh
19
rõ hơn tính chất và trình độ phát triển còn khó khăn, có thể thêm cụm từ “Vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”, song nên thống nhất chung là
“Vùng đồng bào dân tộc thiểu số”.
- Sắp xếp các mệnh đề, các cụm từ để thể hiện rõ: Những vấn đề có tính nguyên
tắc của đường lối, chủ trương, chính sách dân tộc, “Đoàn kết các dân tộc là vấn
đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng” và “Chống tư tưởng
dân tộc lớn, dân tộc cực đoan và kỳ thị, chia rẽ dân tộc; khắc phục tư tưởng tự ti,
mặc cảm dân tộc”. Tiếp theo là mục tiêu của chủ trương, chính sách dân tộc

“Cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Nội dung cơ
bản của chính sách dân tộc là “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ”. Sau cùng là những vấn đề,
lĩnh vực cụ thể về phát triển kinh tế; về quy hoạch vùng gắn với an ninh, quốc
phòng; về văn hoá và nâng cao trình độ dân trí; về công tác cán bộ; về hệ thống
chính trị ở cơ sở; về công tác dân vận.
2. Về vấn đề giai cấp:
Hiện nay Đảng,nhà nước ta về cơ bản đã giải quyết tốt vấn đề giai cấp.Sự
phân biệt giai cấp tuy vẫn còn nhưng là tỷ lệ không lớn.Nước ta đã và đang
đẩy mạnh công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước;từng bước phát triển kinh tế
cũng như tăng cường vị thế trên trường quốc tế.Cùng với đó là sự phát triển
về giáo dục,an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.Do đó,sự phân biệt về giai
cấp,tầng lớp là hạn chế rất nhiều.Chúng ta đã thực hiện tăng cường giai lưu
lẫn nhau và mở rộng các mối quan hệ xã hội,hạn chế sự phân chia giai cấp.
C.KẾT LUẬN:
20
Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là những vấn đề chiến lược, cơ bản,
lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ; chống
tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc cực đoan và kỳ thị, chia rẽ dân tộc; khắc phục
tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói giảm nghèo vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Quy hoạch, sắp xếp lại dân cư, làm tốt công tác định canh
định cư và xây dựng vùng kinh tế mới, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm
an ninh, quốc phòng. Nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực
hiện chính sách ưu tiên về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, trí thức và

phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng; củng
cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Làm tốt công tác dân vận theo phương châm “chân thành, tích
cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc” và phong cách “trọng dân, gần
dân, hiểu dân, học dân,có trách nhiệm với dân”. Mặt khác,Một xã hội bao giờ
cũng tồn tại nhiều giai cấp, trong đó có những giai cấp đối kháng nhau, dẫn đến
hệ quả tất yếu là đấu tranh giai cấp. Khi hiểu rõ về bản chất của đấu tranh giai
cấp, chắc chắn con đường giải quyết vấn đề sẽ trở nên rõ ràng và đúng đắn hơn.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tạp chí Đảng Cộng Sản của nxb Chính Trị
Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
Báo thanh niên
Giáo trình những nguyên lý chủ nghĩa MLN
22

×