đại học quốc gia Hà Nội
trung tâm đào tạo & bồi dỡng
giảng viên lý luận chính trị
Luận văn thạc sĩ
t tởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ
giữa giai cấp với dân tộc và việc vận dụng
t tởng đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
Chuyên ngành:
triết học (cndvbc & cndvls)
Mã số:
5. 01. 02
Học viên: Nguyễn Quang Trung
Ngời hớng dẫn : ts. Vũ Thiện Vơng
Hà Nội - 2004
1
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài :
Mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc (gọi tắt là mối quan hệ giai cấp
dân tộc) là một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Hồ Chí
Minh là ngời đã vận dụng sáng tạo lý luận ấy vào quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, đa dân tộc Việt Nam từ một nớc thuộc địa nửa phong kiến trở thành
một nớc độc lập và tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Việc nhận thức đúng đắn quan điểm CNMLN và T tởng Hồ Chí Minh
(TTHCM) về mối quan hệ giai cấp dân tộc (QHGC-DT) và vận dụng nó vào
sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay là một đòi hỏi cấp bách. Chính vì vậy tôi
chọn đề tài : "T tởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và
việc vận dụng t tởng đó vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay" làm luận
văn tốt nghiệp thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu :
Xung quanh vấn đề quan điểm CNMLN và TTHCM về mối QHGC-DT đã
có nhiều công trình nghiên cứu (xem mục tài liệu tham khảo thứ 11, 13, 17, 36).
Tuy nhiên đây lại là vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ thêm. Đặc
biệt là việc vận dụng CNMLN và TTHCM về mối QHGC-DT trong điều kiện ở
nớc ta hiện nay đang là vấn đề cha đợc nghiên cứu một cách sâu sắc. Thực tiễn
của sự nghiệp đổi mới ở nớc ta hiện nay đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu
hơn những nội dung trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ :
Mục đích của luận văn là góp phần nhận thức TTHCM về mối QHGC-DT
trong cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở ấy vận dụng t tởng này vào sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ :
-Nghiên cứu cơ sở hình thành TTHCM về mối QHGC-DT ở Việt Nam.
-Nghiên cứu nội dung cơ bản của TTHCM về mối QHGC-DT trong cách
mạng Việt Nam.
-Vận dụng TTHCM về mối QHGC-DT vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
hiện nay.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu :
2
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã đi đến rất
nhiều nơi trên thế giới, biết rất nhiều thứ tiếng khác nhau, am hiểu sâu sắc văn
hoá Đông Tây, Kim Cổ. T tởng của ngời về mối QHGC-DT đợc hình
thành và phát triển trong quãng thời gian cũng hết sức phong phú. Nó đợc ghi
nhận, phản ánh qua nhiều nhân chứng, nhiều vật thể mang tính khác nhau. Nhng
trong luận văn này, chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu TTHCM về mối
QHGC-DT trong các bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh mà thôi. Các bài viết, bài
nói này tập trung trong bộ Hồ Chí Minh Toàn tập, gồm 12 tập, xuất bản lần
thứ hai, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội.
Trong khuôn khổ của phạm vi nh thế, đối tợng nghiên cứu của luận văn này
là :
-Thực chất của mối QHGC-DT theo quan điểm của CNMLN.
-Thực tiễn của mối QHGC-DT trên thế giới và ở Việt Nam vào đầu thế kỷ
XX.
-Những luận điểm cơ bản, thể hiện bản chất của mối QHGC-DT trong
TTHCM.
-Những phơng hớng, giải pháp nhằm tăng cờng mối QHGC-DT ở Việt Nam
hiện nay, dới ánh sáng TTHCM về mối QHGC-DT.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở lý luận của CNMLN, TTHCM và đờng lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam, luận văn sử dụng chủ yếu sử dụng các phơng pháp nghiên cứu sau :
-Phơng pháp quy nạp và diễn dịch :
Trong rất nhiều bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh, chúng tôi thấy rất nhiều
bài thể hiện t tởng của Ngời về mối QHGC-DT. Bằng phơng pháp quy nạp không
đầy đủ, chúng tôi đã khái quát lại thành những luận điểm thể hiện bản chất của
TTHCM về mối QHGC-DT. Những luận điểm này trở thành những đề mục lớn
cho chơng II của luận văn.
-Phơng pháp chứng minh luận đề :
Trong các bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh, có nhiều luận điểm nổi tiếng,
thể hiện t tởng sâu sắc của Ngời về một vấn đề nào đó. Bằng những dẫn chứng cụ
thể chúng tôi chứng minh rằng những luận đề này là kết quả của một quá trình
chng cất lâu dài về một vấn đề nào đó để hình thành nên TTHCM về vấn đề này.
-Phơng pháp loại suy và so sánh :
Lịch sử Việt Nam và thế giới thời cận hiện đại đã từng tồn tại nhiều giai
cấp, nhiều trào lu chính trị t tởng khác nhau. Bằng phơng pháp loại suy, chúng
tôi đã thấy đợc quá trình tìm kiếm, lựa chọn con đờng cách mạng và giai cấp
lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Đồng thời với sự so sánh các vấn đề "đồng dạng phối
3
cảnh" chúng tôi đã rút ra đợc bản chất của một số vấn đề của luận văn. Chẳng
hạn thực chất của QHGC-DT; QHGC-DT trong TTHCM và trong t tởng của
Đảng cộng sản Việt Nam ph ơng pháp này đợc sử dụng chủ yếu ở các mục
(1.2.2.), (2.1.1.4), (2.2.1)
-Phơng pháp lịch sử lôgic :
Để bảo đảm cho sự phán đoán, rút ra kết luận tránh đợc sự sai lầm tối đa,
những đoạn trích về Hồ Chí Minh thờng đợc chúng tôi đặt vào hoàn cảnh lịch sử
mà Hồ Chí Minh đã nói hay viết. Đó là phơng pháp lịch sử. Đồng thời trong mỗi
một chơng, mỗi một mục chúng tôi đều cố gắng luận giải vấn đề theo trình tự
lôgíc. Hơn nữa để cho luận văn mang tính hệ thống lôgíc chặt chẽ, qua mỗi ch-
ơng, mỗi mục, chúng tôi đều cố gắng trình bày sự kết nối giữa các chơng, mục
này theo trình tự lôgíc. Đó là phơng pháp t duy lôgíc.
Phơng pháp lịch sử lôgíc đợc sử dụng trong toàn luận văn.
Đồng thời trong mỗi phơng pháp nêu trên chúng tôi đều sử dụng phơng
pháp phân tích và tổng hợp làm công cụ thực hiện. Phân tích và tổng hợp là ph-
ơng pháp phổ biến cho mọi luận văn về khoa học xã hội nhân văn.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn.
-Góp phần làm sáng tỏ TTHCM về mối GHGC-DT trong cách mạng Việt
Nam.
7. Kết luận của luận văn :
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đợc
trình bày trong 3 chơng, 7 tiết.
Chơng I gồm 3 tiết, 2 tiết đầu, (1.1), (1.2), chúng tôi phân tích cơ sở hình
thành TTHCM về QHGC-DT. Tiết 1.3 là những phẩm chất vốn có ở Hồ Chí
Minh. Đó là yếu tố nội sinh của TTHCM về QHGC-DT.
Chơng II chính là sự kết hợp giữa tiết (1.3) và 2 tiết đầu của chơng I trong
thời gian. Kết quả của sự kết hợp này là luận điểm (2.1) và (2.2) của chơng.
Chơng III là sự vận dụng của chơng II, gồm luận điểm (2.1) và (2.2) vào
điều kiện Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở xem xét thực trạng QHGC-DT ở Việt
Nam hiện nay (tiết [3.1]). Chúng tôi đề xuất phơng pháp vận dụng các luận điểm
(2.1) và (2.2) của Hồ Chí minh. Phơng pháp vận dụng ấy là tiết 3.2 của luận văn
này.
Những chữ viết tắt
4
CNMLN : Chủ nghĩa Mác Lênin
CNTB : Chủ nghĩa t bản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
ĐLDT : Độc lập dân tộc
LCLN : Luận cơng của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa
QHGC-DT : Quan hệ giai cấp dân tộc.
TBCN : T bản chủ nghĩa
TTHCM : T tởng Hồ Chí Minh
TTTT : Trung tâm truyền tin
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
5
Chơng 1
Cơ sở hình thành t tởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ
giai cấp - dân tộc
1.1. Cơ sở thực tiễn:
1.1.1. Quan hệ giai cấp - dân tộc trên thế giới từ cuối thế kỷ XIX đến
đầu thế kỷ XX:
Tử nửa đầu thế kỷ XIX trở về trớc, ở châu Âu, sự phát triển của lực lợng sản
xuất T bản chủ nghĩa (TBCN) đang bị kìm hãm nặng nề bởi tình trạng cát cứ của
giai cấp phong kiến quý tộc. Trong tình hình ấy giai cấp t sản là ngời đi tiên
phong trong phong trào dân tộc.Lúc bấy giờ, lợi ích của giai cấp t sản và nhân
dân lao động trong xã hội châu Âu về cơ bản là thống nhất với nhau. Giai cấp t
sản đã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân, tập hợp xung quanh mình lực lợng to lớn
xóa bỏ tình trạng cát cứ phong kiến, thành lập các quốc gia - dân tộc. T bản chủ
nghĩa Quan hệ dân tộc - giai cấp trong điều kiện lịch sử ấy là quan hệ giữa lợi
ích của giai cấp t sản với dân tộc t sản. Giai cấp t sản đã đóng vai trò to lớn trong
việc thành lập các quốc gia dân tộc- t bản chủ nghĩa.
Do sự phát triển của lực lợng sản xuất (LLSX), giai cấp t sản không những ra sức
bóc lột giai cấp công nhân, nhân dân lao động trong nớc mà còn bành
trớc sự bóc lột ấy ra nớc ngoài. Chính phủ t sản của các nớc đế quốc đã
dùng vũ lực và sức mạnh đi xâm lợc và đặt ách đô hộ lên giai cấp công
nhân và nhân dân lao động các nớc nhợc tiểu. Mâu thuẫn cơ bản của
thời đại đế quốc do đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và nhân
dân lao động với giai cấp t sản ở các nớc TBCN, và mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa. Từ chỗ thống nhất với lợi ích
dân tộc, đi tiên phong trong phong trào dân tộc, giai cấp t sản từ cuối
thế kỷ XIX đã đứng lên trên dân tộc, mợn danh công lý và chính nghĩa
của dân tộc t sản đi xâm lợc, đặt ách áp bức lên các dân tộc thuộc địa.
Nớc nào lạc hậu đều trở thành đối tợng xâm lợc của chủ nghĩa đế quốc.
Trong quá trình đua tranh xâm lợc thuộc địa, các nớc đế quốc đã mâu
thuẫn và dẫn đến xung đột lẫn nhau.Đỉnh cao của sự xung đột ấy vào
đầu thế kỷ XX là chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 - 1918. Chiến tranh
đã phơi bày tính chất phản động và thối nát của giai cấp t sản và chủ
nghĩa đế quốc. Bản chất kinh tế của giai cấp t sản và chủ nghĩa đế quốc
là thu đợc lợi nhuận tối đa cho dù có phạm phải tội ác đến mức độ nào.
Chủ nghĩa đế quốc đã tìm mọi cách, dùng mọi thủ đoạn để bóc lột và
kìm hãm nhân dân lao động của nớc thuộc địa. Chúng nh đám mây đen
khổng lồ bao phủ khắp thế giới. Vấn đề dân tộc - thuộc địa, vấn đề giải
6
phóng các nớc bị áp bức thoát khoải sự thống trị của đế quốc, thành lập
nhà nớc dân tộc độc lập, thực hiện quyền dân tộc tự quyết trở thành vấn
đề trung tâm của thời đại. Nhng những lực lợng cách mạng nào sẽ thực
hiện? Giai cấp, tầng lớp tiên phong nào sẽ đủ khả năng lãnh đạo nhân
dân thực hiện vấn đề ấy? Để trả lời cho câu hỏi ấy thì phải nhận diện
bạn, thù là những ai.
Hồ Chí Minh trong quá trình hoạt động tìm đờng cứu nớc đã nhận thức bản
chất của thực tiễn về quan hệ ta - bạn - thù, Về QHGC-DT. Ngời thấy rằng: "ở
đâu CNTB cũng tàn ác vô nhân đạo, ở đâu giai cấp công nhân và nhân dân lao
động cũng bị áp bức, lóc lột rất dã man, các dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù
không đội trời chung là bọn đế quốc, thực dân [5-19]. Ngời nhận rõ "giai cấp
công nhân và nhân dân lao động các nớc đều là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu
cũng là thù"[5-19]. Đó là bản chất của QHGC-DT, quan hệ giữa thống trị và bị
trị trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.
Ba mâu thuẫn cơ bản của thời đại:
Giai cấp t sản mâu thuẫn với giai cấp công nhân
Chủ nghĩa đế quốc mâu thuẫn với các dân tộc
Chủ nghĩa đế quốc mâu thuẫn với chủ nghĩa đế quốc
đợc biểu hiện về mặt xã hội bằng hiện tợng là đấu tranh giai cấp, đấu tranh
dân tộc, chiến tranh đế quốc. Ba trào lu đấu tranh ấy ngày càng xoắn xuýt lấy
nhau, làm tiền đề cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Chiến tranh đế quốc,
tạo điều kiện cho đấu tranh của giai cấp công nhân tại các nớc đế quốc tham
chiến có điều kiện phát triển. Đấu tranh giải phóng của các dân tộc thúc đấy sự
suy yếu của chủ nghĩa đế quốc và sự trởng thành lớn mạnh của giai cấp công
nhân. Đỉnh cao của ba phong trào đấu tranh ấy vào đầu thế kỷ XX là sự bùng nổ
và giành thắng lợi của Cách mạng tháng Mời Nga năm 1917. Đó là thắng lợi của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga nói riêng và thế giới nói chung; là
sự khẳng định vai trò đầu tầu lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại mới.
Xét trên một ý nghĩa khái quát, Cách mạng Nga trở thành Trung tâm truyền
tin(TTTT) những lý tởng cách mạng đi khắp thế giới. Nó đã đem những nguyên
lý cơ bản của CNMLN, kinh nghiệm Cách mạng Nga vào phong trào công nhân
và phong trào yêu nớc của các nớc; thúc đẩy nhân dân nơi đây nổi dậy chống đế
quốc, phong kiến mạnh mẽ hơn. Từ đó các tổ chức chính trị đầu tiên của giai cấp
công nhân ra đời, làm cơ sở tiến tới thành lập các Đảng Cộng sản. Những lý tởng
cách mạng của TTTT trở thành con đờng cách mạng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động các nớc bị áp bức. Chính vì thế, Cách mạng tháng Mời Nga
đã khơi nguồn và thúc đẩy sự ra đời của 3 trào lu cách mạng trong thế kỷ XX và
7
còn có thể kéo dài đến rất nhiều thế kỷ sau. Đó là phong trào giải phóng dân tộc,
phong trào xây dựng XHCN ở Liên Xô, phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế .
Trớc hết là phong trào giải phóng dân tộc:
Ngày 4/5/1919, một phong trào lớn mạnh chống chủ nghĩa đế quốc đã nổ ra
ở Trung Quốc, mở đầu cuộc cách mạng dân chủ mới tiếp diễn trong suốt 30 năm
sau đó.
Trong những năm 1918 - 1922, nhân dân ấn Độ đã tiến hành cuộc đấu tranh
giải phóng rộng rãi và gian khổ, chống sự thống trị của đế quốc Anh.
Tháng 3, 4 năm 1919, nhân dân Triều Tiên khởi nghĩa chống đế quốc Nhật.
Năm 1919, nhân dân Apganixtăng thu đợc thắng lợi trong chiến tranh giải
phóng dân tộc, buộc đế quốc Anh phải công nhận nền độc lập của Apganixtăng.
Cùng trong năm 1919, nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ đã phát động đấu tranh vũ
trang chống bọn đế quốc can thiệp và giữ vững đợc độc lập.
Năm 1921, cách mạng của nhân dân Mông Cổ thắng lợi, nớc dân chủ nhân
dân đầu tiên xuất hiện ở trung tâm châu á.
Năm 1919 và năm 1921, nhân dân Ai Cập đã hai lần vùng lên khởi nghĩa,
buộc đế quốc Anh phải thừa nhận về hình thức nền độc lập của Ai Cập.
Phong trào giải phóng dân tộc nh là cái hiện tợng, cái trực quan sinh động
để căn cứ vào đó, Hồ Chí Minh thấy đợc cái bản chất bên trong là mâu thuẫn
giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc; thấy đợc ý nhĩa khơi nguồn và thúc đẩy
của Cách mạng tháng Mời Nga; và một cách gián tiếp thấy đợc vai trò đầu tàu
lịch sử của giai cấp công nhân. Ngời Viết: "Cách mạng tháng Mời Nga thành
công đã đánh tan một bộ phận lực lợng của CNTB và mở đờng giải phóng cho
giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới"[1-10-7].
"Cách mạng tháng Mời Nga đã mở đờng cho phong trào cách mạng vô sản
toàn thế giới tiến lên và đã khuyến khích giúp đỡ những cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc phát triển mạnh và thành công to lớn"[1-9-258].
Thứ hai là phong trào công nhân và cộng sản quốc tế:
Sau Cách mạng tháng Mời Nga, hàng loạt Đảng cộng sản và đảng của giai
cấp lao động trên thế giới đợc thành lập. Nếu nh năm 1918 trên thế giới có 10
Đảng cộng sản thì cho đến năm 1921 con số đó đã lên tới 48. Sự lan rộng của
CNMLN và sự ra đời của nhiều đảng cộng sản nh vậy đã tạo cơ sở thực tiễn, tạo
địa bàn, tạo môi trờng cho sự ra đời của Quốc tế III, quốc tế cộng sản vào năm
1919. Trong thời gian tồn tại của mình (1919 - 1943), Quốc tế III đã cắm nhánh
đợc ở rất nhiều nơi. Nhờ hệ thống chi nhánh này CNMLN và kinh nghiệm Cách
8
mạng Nga truyền đi các nớc ngày càng thuận lợi hơn, thờng xuyên hơn, sâu rộng
hơn. Nhờ đó mà Hồ Chí Minh ở ngay tại Pari thủ đô nớc Pháp, một nớc đế quốc
đã tìm đọc đợc luận cơng của Lê nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tạo cơ sở
hình thành t tởng Hồ Chí Minh về quan hệ dân tộc - giai cấp.
Sự ra đời của quốc tế cộng sản và nhiều đảng cộng sản trên thế giới, xét về
bản chất là phản ánh sự phát triển về số lợng của giai cấp công nhân và phong
trào công nhân.Đồng thời nó tạo điều kiện thúc đẩy cho giai cấp công nhân và
phong trào công nhân ngày càng phát triển sâu rộng trên toàn thế giới. Cao trào
cách mạng 1918 - 1923 ở châu Âu dẫn đến sự hình thành các Xô Viết công nông
ở một số nớc là hành động dũng cảm của giai cấp công nhân. Qua cao trào này,
vai trò đầu tàu lịch sử của giai cấp công nhân tiếp tục đợc khẳng định trên thế
giới. Vấn đề dân tộc kể từ đây thuộc về tay giai cấp công nhân.
Thứ ba là phong trào xây dựng CNXH ở Liên Xô.
Sau Cách mạng tháng Mời Nga và Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Liên Xô bắt
tay vào công cuộc xây dựng CNXH. Công cuộc này đã giành đợc nhiều thành
tựu nổi bật thể hiện bản chất nhân đậo, nhân văn và tính u việt của chế độ XHCN
so với các chế độ xã hội trớc đây.
Hồ Chí Minh trong thời gian ở Liên Xô đã Nghiên cứu chế độ Xô Viết
Nga. Ngời chú ý nhất đến chế độ xã hội của nớc này. ở đây mọi ngời ra sức
học tập nghiên cứu để tiến bộ - Chính phủ thì giúp đỡ khuyến khich nhân dân
học tập. ở đâu cũng thấy trờng học về pháp luật ruộng đất là của nhà n ớc, nh-
ng thực tế do nông dân sử dụng. Chính phủ cho những nông trờng tập thể mợn
máy cày. Trong nông trờng tập thể, mọi ngời làm chung và chia sản phẩm theo
công làm của mỗi ngời Những ng ời đau ốm đợc chăm sóc không mất tiền"[16-
56,57]. Sự u việt của chế độ XHCN ở nớc Nga Xô Viết do giai cấp công nhân
lãnh đạo là cơ sở để Hồ Chí Minh gắn ĐLDT với CNXH; cơ sở để Ngời "đi tới
xã hội cộng sản" và lựa chọn mô hình CNXH cho Việt Nam sau này.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mời Nga và sự ra đời của Nhà nớc Xô Viết
Nga đã làm cho mâu thuẫn cơ bản của thế giới tăng lên. Nếu nh trớc 1917 có 3
mâu thuẫn cơ bản thì sau 1917 xuất hiện nhiều mâu thuẫn mới là mâu thuẫn giữa
nớc Nga Xô Viết với chủ nghĩa đế quốc. Bốn mâu thuẫn cơ bản ấy quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau thể hiện về mặt xã hội thành 3 trào lu cách
mạng và chiến tranh đế quốc. Nó vận động đi lên, quy định bản chất và xu hớng
của thời đại ngày nay.
Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đờng cứu nớc, gặp gỡ với Cách mạng
tháng Mời Nga chứng kiến nhiều cuộc chiến tranh đế quốc và ba trào lu cách
mạng này đã nhận diện đợc bản chất mới của thời đại mới do Cách mạng tháng
Mời Nga mở ra. Ngời viết: Cách mạng tháng Mời Nga mở ra con đờng giải
9
phóng cho các dân tộc và cả loài ngời, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử,
thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên thế giới . Thời kỳ quá độ ấy diễn ra và
đợc thể hiện ở những nớc riêng biệt có thể có nhiều hình thức khác nhau, với
những mốc thời điểm khác nhau, nhng bản chất của nó chỉ có thể là một: Chuyên
chính Vô sản.
Nh thế bản chất của thời đại ngày nay đợc xác định bởi bản chất giai cấp
công nhân - Ngời đứng ở trung tâm của thời đại và trở thành đầu tầu của lịch sử:
Đó là thời đại cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản; thời đại các dân tộc bị
áp bức thức tỉnh và đứng lên tự giải phóng mình; thời đại mà vấn đề dân tộc, ng-
ời đi tiên phong trong phong trào dân tộc thuộc về tay giai cấp công nhân.
Bản chất ấy của thời đại, với quan hệ dân tộc - giai cấp nh vậy là cơ sở để
Hồ Chí Minh xác đinh: giai cấp công nhân là ngời lãnh đạo cách mạng, làm t
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Nhng những lý tởng cách mạng của TTTT cũng chỉ có thể truyền đi và cộng
hởng có hiểu quả ngay sau đó đối với những nớc có điều kiện cơ cấu xã hội giai
cấp, quan hệ dân tộc - giai cấp cùng tần số với TTTT. Bởi vì trong cùng điều kiện
lịch sử nửa đầu thế kỷ XX, cùng thời với Hồ Chí Minh, mà các lãnh tụ Nê Ru
(ấn Độ); Xu Cac Nô (Inđônêxia) lại lựa chọn con đờng cách mạng t sản? Do giai
cấp t sản lãnh đạo? Họ không lựa chọn con đờng cách mạng vô sản do giai cấp
công nhân lãnh đạo nh Hồ Chí Minh? Sở dĩ nh vậy là vì t tởng Hồ Chí Minh về
quan hệ dân tộc - giai cấp đợc hình thành trong điều kiện cơ cấu xã hội giai cấp,
quan hệ dân tộc - giai cấp ở Việt Nam. Những điều kiện này có cùng tần số và
do đó có thể cộng hởng đợc với những lý tởng cách mạng củaTTTT.
1.1.2. Quan hệ giai cấp - dân tộc từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
ở Việt Nam:
Cơ cấu xã hội giai cấp Việt Nam trớc khi thực dân Pháp xâm lợc là một xã
hội phong kiến đang suy tàn trong đó có hai giai cấp đối kháng chủ yếu. Một
bên là giai cấp địa chủ mà đại diện là vua quan nhà Nguyễn lạc hậu và cực kỳ
phản động. Một bên là giai cấp nông dân nghèo khổ, bị áp bức bóc lột thậm tệ.
Chính sách quốc gia dân tộc của triều đình nhà Nguyễn là một chính sách
cực kỳ bảo thủ, phản động. Về đối nội, triều Nguyễn tăng cờng bóc lột, vơ vét
nặng nề và đàn áp khốc liệt đối với nhân dân; cự tuyệt mọi đề án của cải cách.
Còn về đối ngoại thì thi hành chính sách bế quan toả cảng. Những thành quả và
lợi ích thu đợc từ các chủ trơng, chính sách của triều đình đều rơi vào trong giai
cấp địa chủ, đội ngũ quan lại, cờng hào. Càng về sau triều Nguyễn càng mất hết
khả năng mở mang kinh tế và phát huy tiềm lực nhân dân trong xây dựng đất n-
ớc.
10
Do chính sách quốc gia dân tộc nh vậy, một chính sách hủy hoại sinh lực
của dân tộc và nhân dân, triều đình nhà Nguyễn, dựa trên nền tảng giai cấp địa
chủ, cờng hào, bị nhân dân rất rất căm ghét. Mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ và
nông dân là mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội Việt Nam. Biểu hiện về mặt xã hội
của mâu thuẫn ấy là các cuộc nổi dậy của nông dân chống lại địa chủ, cờng hào
và triều Nguyễn. Thời Gia Long có 73 cuộc, thời Minh Mạng có 234 cuộc, thời
Thiện Trị có 58 cuộc. Khoảng cách giữa nhân dân và triều đình ngày càng phình
to ra, khối đoàn kết dân tộc vô cùng lỏng lẻo, suy yếu. Triều Nguyễn lúc bấy giờ
chỉ là cái u ăn bám của xã hội. Nó chỉ đại diện cho chính bản thân nó, không còn
là kẻ đại diện cho xã hội và dân tộc. Đây là một triều đại mà, nói nh Phan Bội
Châu năm 1906, "Vua không biết tý gì về dân, quan cũng thế. Dân chỉ biết đến
dân, họ coi thờng vua, quan"[18-152].
Trong kết cấu xã hội giai cấp nh vậy, một kết cấu rệu rã, lỏng lẻo, xộc xệch,
thì quan hệ giữa giai cấp địa chủ và các tầng lớp nhân dân (chủ yếu là nông dân),
quan hệ giữa triều đình và nhân dân, tóm lại là quan hệ dân tộc - giai cấp ở Việt
Nam lúc này đang khủng hoảng. Giai cấp địa chủ, quan lại cờng hào đã mất hết
tính tiên phong của nó trong việc đại diện cho xu thế đi lên của dân tộc mà trớc
đây nó đã từng đảm nhiệm.
Hậu quả của sự khủng hoảng ấy là nớc Việt Nam mất độc lập (1884) sau 27
năm kể từ khi thực dân Pháp xâm lợc 1858. Dới chính sách cai trị tàn bạo và khai
thác thuộc địa vắt kiệt của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam tiếp tục phân hóa sâu
hơn. Qua hai lần khai thác của Pháp, xã hội Việt Nam xuất hiện thêm 3 giai cấp,
tầng lớp xã hội mới: T sản, tiểu t sản và công nhân. Tùy theo địa vị kinh tế - xã
hội, đặc điểm truyền thống mà mỗi một giai cấp, tầng lớp có thái độ chính trị,
vai trò, vị trí nhất định trong khuynh hớng dân tộc, phong trào dân tộc.
Trớc hết là giai cấp địa chủ, nền tảng của triều đình nhà Nguyễn, kẻ dâng
nộp Tổ quốc ta cho thực dân Pháp, kẻ đặt lợi ích giai cấp họ lên trên lợi ích dân
tộc, đã đợc thực dân Pháp sử dụng làm công cụ tay sai. Đợc sự giúp đỡ và dung
dỡng của Pháp, địa chủ ngày càng có u thế về kinh tế và chính trị. Họ cũng có
nhiều loại khác nhau: Địa chủ Pháp, địa chủ Nhà Chung, địa chủ quan lại, địa
chủ thờng, địa chủ kiêm công thơng. Họ tìm mọi cách chiếm đoạt ruộng đất của
nông dân. Ruộng đất ngày càng tập trung vào tay họ, ruộng công ngày càng ít đi.
Đồng thời do nắm các địa vị chủ chốt trong bộ máy thống trị của thôn xã, giai
cấp địa chủ ở khu vực này, mà đại diện là bọn tổng lý, kỳ hào đã tìm đủ mọi
cách để chiếm đoạt hoặc lũng đoạn ruộng công. Cho đến năm 1930, ruộng công
trong cả nớc chỉ còn lại 10% diện tích canh tác.
Tính chung trong cả nớc, giai cấp địa chủ chỉ chiếm 9% tổng số chủ ruộng,
nhng lại tập trung trong tay trên 50% diện tích canh tác. Đợc thực dân Pháp giúp
11
đỡ, ách áp bức bóc lột của địa chủ đối với nông dân không từ một thủ đoạn nào:
Địa tô (tô điền, tô hiện vật, tô lao dịch ), cho vay nặng lãi. Mức độ của địa tô
chiếm từ 50 - 75%, thậm chí 80% hoa lợi thu đợc.
Sự cấu kết giữa đế quốc (thực dân Pháp) với phong kiến (địa chủ) là đặc tr-
ng nổi bật của chế độ thuộc địa. Địa chủ phong kiến là tay sai của đế quốc, là kẻ
thù không đội trời chung của nông dân. Do đó mâu thuẫn giữa nông dân với địa
chủ là mẫu thuẫn vốn có từ trớc đến nay càng trở nên sâu sắc hơn, và là mẫu
thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam.
Mặt đối lập của giai cấp địa chủ là giai cấp nông dân.
ách áp bức bóc lột nặng nề của đế quốc và phong kiến đã đa đến sự phá sản
và bần cùng hóa của giai cấp nông dân Việt Nam. Kinh tế tiểu nông lạc hậu, kết
hợp với tiểu thủ công nghiệp có tính chất nghề phụ gia đình của nông dân là điều
kiện thuận lợi cho sự vơ vét su thuế, bóc lột nhân công của thực dân phong kiến.
Nó đa đến sự phân hóa không thế tránh khỏi ở nông thôn. Nông dân phân hóa
theo thời gian thành cố nông, bần nông, trung nông, phú nông.
Việc mở rộng đồn điền, hầm mỏ và xí nghiệp của t bản Pháp luôn luôn đi
kèm với việc cớp đoạt, lấn chiếm ruộng đất của nông dân. "Ruộng đất bình quân
của những hộ tiểu nông - cả bần nông và trung nông ở Việt Nam thuộc vào loại
thấp nhất của thế giới [37-2-179]. Bên cạnh đó chính sách độc quyền kinh tế,
hệ thống thuế khóa nặng nề, su cao của chế độ thực dân, chế độ bóc lột địa tô
cao và cho vay nặng lãi của giai cấp địa chủ đều trút tai họa lên vai, lên đầu, lên
cổ nông dân Việt Nam, chiếm hơn 90% dân số cả nớc. Ngoài thuế đinh và thuế
điền, ngời nông dân còn phải đóng hàng chục thứ thuế ngoại thu và thuế bất th-
ờng của tổng, huyện, tỉnh.
Sau khi nộp các khoản địa tô cho địa chủ, tá điền chẳng còn đợc mấy hạt
thóc trong nhà. "treo hái là treo niêu". Đã thế chính sách độc quyền thơng mại,
độc chiếm thị trờng, tăng giá hàng công nghiệp, hạ giá hàng nông sản của thực
dân Pháp đã làm cho hàng loạt ngành thủ công ở nông thôn bị bóp chết. Lợi
dụng đục nớc để béo cò, bộ phận t sản mại bản và t sản hoa kiều cũng tăng giá
bán và hạ giá mua của nông dân, dồn họ đến tận cùng của bể khổ.
Tình trạng thất nghiệp, nửa thất nghiệp, nạn nhân khẩu thừa ngày càng tăng
ở nông thôn. Nhng nền công nghiệp yếu ớt, què quặt ở thuộc địa không thu dùng
đợc hết. Một bộ phận đợc thu dùng đã không chịu đợc cuộc sống bi thảm ở đồn
điền đành phải quay về địa phơng sống vất vởng với vài thớc đất ruộng công của
làng, hoặc kiếm ăn bằng cách cày thuê cuốc mớn. Tính chất tù đọng và nạn nhân
khẩu thừa trong nông thôn Việt Nam ngày càng trầm trọng.
12
Su thuế, địa tô, cho vay nặng lãi, mua bán ép giá, cớp đoạt ruộng đất đã dồn
nông dân Việt Nam lâm vào một cổ ba tròng, chịu 3 tầng áp bức bóc lột nặng nề
của đế quốc, phong kiến, t sản. Tất cả các tầng lớp ăn bám trong xã hội xông vào
xâu xé nông dân. Nông dân có 3 kẻ thù, hình thành 3 mâu thuẫn bộ phận:
Nông dân mâu thuẫn với địa chủ
Nông dân mâu thuẫn với đế quốc
Nông dân mâu thuẫn với t sản
Nhng địa vị kinh tế xã hội của nông dân là ngời t hữu nhỏ, lực lợng sản xuất
phân tán, nên nông dân không đại diện cho lực lợng sản xuất tiến bộ của xã hội,
nông dân không có sự cố kết chặt chẽ cả về kinh tế lẫn t tởng và tổ chức nên
không có hệ t tởng riêng. Chính vì thế dù bị áp bức bóc lột nặng nề nông dân vẫn
không có khả năng tự giải phóng mình, càng không thể là giai cấp lãnh đạo, đi
tiên phong trong phong trào dân tộc. Tuy nhiên họ là thành phần tập trung nhiều
truyền thống lịch sử dân tộc, chiếm đa số trong dân c, nên là lực lợng cách mạng
rất quan trọng.
Cùng với sự phát triển của đô thị, tầng lớp tiểu t sản cũng từng bớc hình
thành và ngày càng đông. Họ bao gồm: Trí thức (học sinh, sinh viên, công chức,
giáo viên ), tiểu th ởng, tiểu chủ, thợ thủ công, dân nghèo thành thị, những ngời
làm các nghề tự do Họ không phải là giai cấp mà là một tầng lớp xã hội.
Đời sống của tiểu t sản trong những năm 20 của thế kỷ XX ngày một khó
khăn do su thuế chồng chất và giá cả đắt đỏ. Chính sách độc quyền kinh tế của
Pháp đã làm phá sản giới thợ thủ công. Chính sách đối xử phân biệt và văn hóa
giáo dục ngu dân đã làm cho tầng lớp trí thức thấy chua chát, bị miệt thị. Họ cảm
thấy nền văn hóa dân tộc bị bọn thống trị nớc ngoài coi rẻ và chà đạp. Cảnh phồn
hoa bề ngoài của đô thị không che lấp đợc nỗi khổ của họ, những ngời dân mất
nớc không có quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, học hành, đi lại và nhiều
quyền tự do sơ đẳng khác.
Trí thức có thể bị đuổi học, đuổi việc, giam cầm; tiểu thơng, tiểu chủ, thợ
thủ công có thể bị phá sản, bị thất nghiệp do thuế má nặng nề của đế quốc và sự
cạnh tranh của t sản. Bị áp bức về chính trị, chèn ép về chuyên môn, bóc lột về
kinh tế nên tiểu t sản có tinh thần yêu nớc, căm thù đế quốc khá cao. Xã hội Việt
Nam trong quan hệ với tiểu t sản có 2 mâu thuẫn:
Tiểu t sản mâu thuẫn với đế quốc
Tiểu t sản mâu thuẫn với địa chủ.
Những ngời tiểu t sản trí thức thờng đóng vai trò truyền bá những t tởng tiến
bộ vào nhân dân và là ngòi pháo nổ cho phong trào cách mạng ở các đô thị.
13
Nhng thành phần của tiểu t sản không thuần nhất, địa vị kinh tế - xã hội
không ổn định, đã làm cho họ có lập trờng chính trị không vững vàng. Họ thờng
hay dao động nghiêng ngả trớc sự đàn áp của thực dân Pháp. Họ hăng hái tham
gia cách mạng nhng không có can đảm. Họ dám nghĩ mà không dám làm.
Thành phần và địa vị kinh tế - xã hội của tiểu t sản cho thấy rằng, họ không
địa diện cho lực lợng sản xuất tiến bộ của xã hội, không có hệ t tởng chính trị
riêng nên không thể là ngời đại diện cho xu thế tiến hóa của dân tôc, không thể
đi tiên phong trong phong trào chống đế quốc và phong kiến. Họ chỉ có thể đi
theo cách mạng với t cách nh là một lực lợng cách mạng khá quan trọng mà thôi.
Đô thị và công nghiệp phát triển thì giai cấp t sản theo đó cũng từng bớc
xuất hiện. Họ xuất thân từ địa chủ, quan lại, tiểu t sản Chính sách bảo thủ,
phản động về kinh tế, không chủ trơng phát triển công nghiệp ở thuộc địa và
chính sách chuyên chế về chính trị của thực dân Pháp đã làm cho giai cấp t sản
Việt Nam ra đời khá muộn, què quặt. Chỉ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, gắn
liền với công tác thuộc địa thứ hai của Pháp, giai cấp t sản Việt Nam mới hình
thành. Họ có mặt ở hầu hết khắp các ngành (Bông vải sợi, nhuộm, đồ gốm, máy
xay, máy in, làm sơn, ép dầu, làm đờng, xà phòng, nớc mắm, sửa chữa ô tô ).
Sau thời gian phát triển, giai cấp t sản phân hóa thành 2 bộ phận: T sản mại bản
và t sản dân tộc.
T sản mại bản có quyền lợi gắn liền với quyền lợi kinh tế của t bản lũng
đoạn Pháp. Họ là những chủ thầu khoán lớn, những chủ hãng đại lý lớn, đợc thực
dân Pháp cho hởng một đặc quyền nào đó, hoặc có chung một phần hùn vốn với
thực dân Pháp. Chính vì thế bộ phận t sản này cực kỳ phản động. Họ là tay sai và
đồng lõa của thực dân Pháp. Họ là kẻ thù của nhân dân, và đơng nhiên không thể
là ngời lãnh đạo dân tộc.
T sản dân tộc bị các công ty t bản độc quyền của Pháp chèn ép, kìm hãm
gắt gao, họ chỉ nắm đợc những ngành phụ thuộc và phần đông không thoát khỏi
con đờng t sản kiêm địa chủ. Họ còn bị thực dân Pháp ngăn cấm hoạt động chính
trị. Xét một cách đại thể, địa vị kinh tế - xã hội của t sản dân tộc rất yếu. Đứng
bên cạnh thực dân Pháp, t sản dân tộc Việt Nam nh một trẻ em suy dinh dỡng
đứng bên cạnh một gã đàn ông to béo. Địa vị kinh tế - xã hội ấy và chính sách
mua chuộc của Pháp làm cho t sản dân tộc có bản chất hai mặt. Một mặt do có
mâu thuẫn nhất định về kinh tế và chính trị với thực dân Pháp do cơ sở kinh tế
yếu kém và bị lệ thuộc t bản nớc ngoài nên họ có tinh thần dân tộc dân chủ khá
cao. Mặt khác, do bản chất giai cấp và ít nhiều dính líu với phong kiến (t sản
kiêm địa chủ), lại đợc thực dân Pháp mua chuộc dụ dỗ, nên họ thờng đi vào con
đờng thỏa hiệp với đế quốc và phong kiến để bảo vệ quyền lợi của họ. Kinh tế
yếu nên tinh thần của t sản dân tộc rất bạc nhợc, không tạo ra đợc hệ t tởng chính
14
trị độc lập. Chính vì vậy, trong điều kiện chèn ép nặng nề của thực dân Pháp, t
sản dân tộc Việt Nam phải khom lng mà đi nên họ không đủ sức chi phối các
giai cấp tầng lớp trong xã hội. Chủ nghĩa t bản do đó cũng không thể phát triển
đợc ở Việt Nam. Do đó t sản dân tộc không thể là ngời đi tiên phong trong phong
trào dân tộc. Xã hội Việt Nam trong quan hệ với t sản dân tộc có mâu thuẫn là:
Đế quốc mâu thuẫn với T sản dân tộc
Sự du nhập của phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa vào Việt Nam và sự
phát triển của công thơng nghiệp thuộc địa đã dẫn đến sự ra đời của giai cấp
công nhân. Là sản phẩm của quá trình xâm lợc và khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trớc giai cấp t sản. Về thành phần,
công nhân xuất thân từ những ngời thợ thủ công, những ngời tiểu thủ công
nghiệp phá sản, nhng chủ yếu là từ những ngời nông dân bị bần cùng hóa. Song
công nghiệp Việt Nam cha phát triển cho nên công nhân cha thoát ly hoàn toàn
khỏi nông dân. Họ là những công nhân theo mùa vụ, theo hợp đồng với chủ x-
ởng. Khi hết mùa vụ họ có thể trở lại địa phơng, với gia đình và trở về số phận
của nông dân. Điều đó làm cho công nhân và nông dân Việt Nam dễ gần gũi và
thông cảm sâu sắc về những nỗi đau khổ cùng cực của nhau. Do đó công nhân là
bạn đồng minh tự nhiên của nông dân. Đó là điều kiện thuận lợi cho việc xây
dựng khối liên minh công nông.
Đế quốc, phong kiến và t sản ra sức bóc lột công nhân vô cùng thậm tệ theo
3 thủ đoạn: Chế độ lao động tự do, chế độ lao động theo giao kèo, chế độ lao
động cỡng bức. Bọn t sản thực dân thẳng tay đàn áp bóc lột công nhân, tớc đoạt
mọi quyền dân chủ, quyền làm ngời của họ. Chúng là kẻ thù cớp đoạt ruộng đất
của nông dân, thợ thủ công, rồi dồn họ vào đội quân công nghiệp để rút tỉa xơng
thịt của họ. Đế quốc vì vậy là kẻ thù của giai cấp công nhân đồng thời cũng là kẻ
thù của toàn thể nhân dân Việt Nam. Địa chủ phong kiến đồng lõa với đế quốc
thi hành chế độ lao dịch để cung cấp và trói buộc công nhân vào đội quân công
nghiệp, đồng thời bắt công nhân phải nộp su, nộp thuế để nuôi béo chúng. Giai
cấp t sản bản xứ, đặc biệt là t sản mại bản đã kết hợp lối bóc lột t bản chủ nghĩa
hiện đại với lối bóc lột hết sức ty tiện, tàn ác thời kỳ tiền t bản chủ nghĩa để hút
máu, lột da công nhân. Đế quốc, phong kiến, t bản là 3 kẻ thù, 3 tầng áp bức bóc
lột đối với công nhân. Trong quan hệ với công nhân, xã hội Việt Nam có ba mâu
thuẫn.
Công nhân mâu thuẫn với đế quốc
Công nhân mâu thuẫn với phong kiến
Công nhân mâu thuẫn với t sản bản xứ.
15
Chính sách bóc lột ấy của đế quốc tự bản thân nó làm cho giai cấp công
nhân có tinh thần đoàn kết cao. Trong hàng ngũ công nhân Việt Nam không có
công nhân quý tộc. Điều kiện làm việc tập trung càng làm cho tinh thần đoàn kết
ấy ngày càng đợc củng cố.
Giai cấp công nhân Việt Nam ngoài những đặc điểm chung của giai cấp
công nhân thế giới còn có những đặc điểm riêng của mình (ra đời trớc giai cấp t
sản, quan hệ đồng minh tự nhiên với nông dân, chịu 3 tầng áp bức bóc lột, nội bộ
đoàn kết). Vì vậy kẻ thù giai cấp của họ cũng là kẻ thù của dân tộc. Đối với giai
cấp công nhân, kẻ thù giai cấp và kẻ thù dân tộc là một. Do thành phần xuất
thân, công nhân Việt Nam đã kế thừa đợc truyền thống bất khuất của dân tộc.
Nằm trong mạch máu kinh tế của xã hội, vừa mới ra đời, tuy số lợng còn ít, nhng
những đặc điểm chung và riêng của công nhân Việt Nam cho thấy rằng, họ vừa
là ngời lao động đau khổ, vừa là ngời tiên tiến cho nên công nhân là ngời đại
biểu xuất sắc nhất cho tất cả các giai cấp tầng lớp bị áp bức ở Việt Nam. Họ có
đầy đủ khả năng để tập hợp và lôi cuốn các tầng lớp nhân dân vào phong trào
chống đế quốc và phong kiến, giành độc lập tự do. Song khi cha có lý luận tiên
phong và đảng Cộng sản, họ vẫn cha thể biến khả năng của mình thành hiện
thực.
Nhìn chung, xã hội Việt Nam dới ách cai trị của thực dân Pháp đã phân hóa
thành 5 giai cấp tầng lớp khác nhau: Địa chủ, nông dân, tiểu t sản, t sản, công
nhân. Và cơ cấu xã hội giai cấp, quan hệ giai cấp có 9 mâu thuẫn bộ phận, chồng
chéo lên nhau:
Đế quốc mâu thuẫn với Nông dân
Phong kiến mâu thuẫn với Nông dân
T sản mâu thuẫn với Nông dân
Đế quốc mâu thuẫn với Tiểu t sản
Phong kiến mâu thuẫn với Tiểu t sản
Đế quốc mâu thuẫn với T sản dân tộc
Đế quốc mâu thuẫn với Công nhân
Phong kiến mâu thuẫn với Công nhân
T sản mâu thuẫn với Công nhân
Chín mâu thuẫn bộ phận ấy có thể quy về thành 2 mâu thuẫn cơ bản:
- Mâu thuẫn dân tộc: Đế quốc mâu thuẫn với Công nhân, nông dân, tiểu t
sản, t sản dân tộc.
- Mâu thuẫn giai cấp: Địa chủ mâu thuẫn với Công nhân, nông dân.
16
Trong 2 mâu thuẫn ấy thì mâu thuẫn dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu. Có áp bức thì
có đấu tranh, có mâu thuẫn thì sẽ có sự bùng nổ của mâu thuẫn. Nhng
trong 5 giai cấp tầng lớp ấy cha có giai cấp nào về mặt hiện thực, thực
tiễn đủ sức lãnh đạo, đi tiên phong trong phong trào dân tộc, dân chủ.
Còn giai cấp công nhân thì đang trong quá trình lớn lên, cha có hệ t t-
ởng riêng. Xã hội Việt Nam, dân tộc Việt Nam với một kết cấu giai cấp
nh vậy đang vận động xộc xệch. Nó nh một tổ ong bị chiếc gậy tàn bạo
của thực dân Pháp đập vỡ. Ong chúa bị đánh chết, đàn ong tản ra nhiều
phía, mất phơng hớng. Nhìn chung, dới ánh thống trị của thực dân pháp,
xã hội Việt Nam nổi lên 9 mẫu thuẫn, 5 giai cấp. Đó là một xã hội có
kết cấu lỏng lẻo, xộc xệch và mất hết sinh lực. Chính vì thế xã hội Việt
Nam, dân tộc Việt Nam mất phơng hớng vận động. Đó chính là sự
khủng hoảng trầm trọng của một kết cấu xã hội giai cấp trong thời kỳ
cha xuất hiện vai trò đầu tầu của giai cấp tiên phong, khủng hoảng trầm
trọng của quan hệ dân tộc - giai cấp. Thực chất là sự khủng hoảng trầm
trọng về vai trò lãnh đạo của một giai cấp đối với xã hội. Biểu hiện về
mặt hiện tợng xã hội của sự khủng hoảng ấy là kết cục thất bại liên tiếp
của các phong trào dân tộc, dân chủ theo ý thức hệ phong kiến và ý thức
hệ t sản.
Nhận thức của con ngời là đi từ cái hiện tợng đến bản chất, từ trực quan sinh
động đến t duy trừu tợng. Hồ Chí Minh, trên cơ sở nghiên cứu các
phong trào này, dựa vào công cụ lý luận Mác Lê nin, đã rút ra đợc kết
cấu xã hội giai cấp, quan hệ dân tộc - giai cấp ở Việt Nam (Xem chơng
II, mục 2.1.1.4) do đó mà t tởng của Ngời về quan hệ dân tộc - giai cấp
đợc hình thành . Nội dung chính của t tởng này : Cách mạng là sự
nghiệp của toàn dân do giai cấp công nhân lãnh đạo.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Chủ nghĩa yêu nớc Việt Nam truyền thống.
Yêu nớc là giá trị tinh thần của con ngời và cộng đồng ngời đợc hình thành
trong quá trình đấu tranh dựng nớc, giữ nớc và xây dựng đất nớc. Đúng nh Lê
nin cho rằng, chủ nghĩa yêu nớc "là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, đã
đợc củng cố qua hàng nghìn năm tồn tại của các Tổ quốc biệt lập"[3-37-226].
Từ điển Triết học, do Nhà xuất bản tiến bộ Matxcơva, ấn hành năm 1975,
trang 712, viết về chủ nghĩa yêu nớc là: "Chủ nghĩa yêu nớc, nguyên tắc đạo đức
chính trị, một tình cảm xã hội mà nội dung là tình yêu và lòng trung thành với tổ
quốc, là lòng tự hào về quá khứ và hiện tại của tổ quốc, ý chí bảo vệ những lợi
ích của tổ quốc".
17
Tình yêu và lòng trung thành với tổ quốc có thể nói là những nội dung
chính của chủ nghĩa yêu nớc. Đó là giá trị tinh thần phổ quát của nhân loại.
Nhng tổ quốc có môi trờng kinh tế - xã hội, chính trị thay đổi theo lịch sử,
cho nên chủ nghĩa yêu nớc ở những thời đại khác nhau, mang tính lịch sử và giai
cấp khác nhau. Nó là bộ phận không thể tách rời của ý thức xã hội. Trong xã hội
có giai cấp, nội dung của chủ nghĩa yêu nớc trở nên có tính giai cấp, vì mỗi giai
cấp biểu hiện thái độ của mình đối với tổ quốc thông qua những lợi ích riêng vốn
có của giai cấp đó.
Lịch sử Việt Nam từ thuở các vua Hùng dựng nớc cho đến cuối thế kỷ XIX
khi bị thực dân Pháp xâm lợc, về cơ bản là lịch sử chống ngoại xâm. Trong chiều
dài lịch sử ấy, cha bao giờ dân tộc Việt Nam sống nổi trong độc lập, hòa bình
quá 300 năm. Thế nhng dân tộc Việt Nam vẫn trờng tồn!
Theo các nhà nghiên cứu thế giới (các nhà Việt Nam học), thì lịch sử Việt
Nam có 3 sự kiện nổi bật. Thứ nhất, nằm dới ách thống trị suốt hàng nghìn năm
của chế độ phong kiến phơng Bắc mà không bị đồng hóa. Thứ hai, nhà nớc
phong kiến Việt Nam vừa mới đợc củng cố đã 3 lần đánh thắng quân xâm lợc
Nguyên - Mông, một thế lực bành trớng mạnh nhất lúc bấy giờ. Thứ ba, một đất
nớc vừa mới giành đợc độc lập với điểm xuất phát ban đầu rất thấp (trên nhiều
lĩnh vực), đã làm một cuộc chiến tranh 30 năm (1945-1975), đánh bại 2 đế quốc
thuộc vào loại mạnh nhất thế giới trong thế kỷ XX.
Cái gì đã làm cho dân tộc Việt Nam có một sức sống trờng tồn và mãnh liệt
nh vậy? Trong khi đó đã có nhiều dân tộc bị đồng hóa, bị sáp nhập vào các nớc
đế quốc?
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Tồn tại xã hội nào thì quyết định ý
thức xã hội ấy. Trong các cuộc kháng chiến, chống ngoại xâm của dân tộc Việt
Nam trớc đây, lợi ích của giai cấp nông dân và giai cấp địa chủ; lợi ích của nhân
dân lao động và của triều đình; lợi ích của nhà Vua và của thờng dân về cơ bản
thống nhất với nhau trong lợi ích chung của cả dân tộc. Đất nớc mất độc lập thì
không có ai đợc tự do (trừ những kẻ làm tay sai cho giặc ngoại xâm).
Chính vì vậy dân tộc Việt Nam đất không rộng, ngời không đông, điều kiện
thiên nhiên khắc nghiệt, để chống lại các thế lực phơng Bắc mạnh hơn gấp nhiều
lần thì không có vũ khí nào khác hơn ngoài đoàn kết. Có đoàn kết mới làm nên
sức mạnh, đoàn kết trở thành nhu cầu tất yếu của dân tộc Việt Nam. Nó đi vào
tâm thức của mỗi một ngời dân mất nớc hình thành nên chủ nghĩa yêu nớc.
Chủ nghĩa yêu nớc ấy đợc hình thành trong kháng chiến chống ngoại xâm,
có thể khái quát thành những nội dung sau:
18
- Yêu nớc là ý thức khẳng định cơng vực chủ quyền quốc gia, quyền bất
khả xâm phạm của dân tộc:
"Sông núi nớc Nam Vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời".
(Lý Thờng Kiệt)
- Yêu nớc là ý thức đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc nhằm tạo nên sức
mạnh cho công cuộc kháng chiến:
"Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nớc nhà góp sức nên sức giặc tự bị
bắt có thu đ ợc quân lính một lòng nh cha với con thì mới dùng đợc, vả lại
khoan th sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thợng sách để giữ nớc" [38-
186].
Hoặc là:
Nhiễu điều phủ lấy giá gơng
Ngời trong một nớc phải thơng nhau cùng
Bầu ơi thơng lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhng chung một giàn.
(ca dao)
- Yêu nớc là ý thức bảo tồn củng cố bản sắc dân tộc, không để bị sáp nhập
đồng hóa bởi bất cứ thế lực ngoại xâm nào, cho dù đó là thế lực mạnh nhất thế
giới, với một nền văn hóa cao hơn văn hóa Việt Nam:
Nh nớc Đại Việt ta từ trớc
Vốn xng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đờng, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phơng
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
(Nguyễn Trái - Bình Ngô Đại Cáo)
19
- Yêu nớc là ý chí sắt đá, quyết tâm cao độ nhằm đánh đuổi ngoại xâm, giữ
gìn phong tục, khẳng định chủ quyền quốc gia dân tộc:
"Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri nam quốc anh hùng chi hữu chủ"[37-1-353]
Chính chủ nghĩa yêu nớc truyền thống ấy là động lực tinh thần thôi thúc
cả dân tộc Việt Nam đứng lên chiến đấu bảo vệ giang sơn đất nớc. Nó đã hun
đúc lên các vị anh hùng dân tộc nổi tiếng. Nó đã tạo nên sức sống trờng tồn cho
dân tộc Việt Nam. Chính vì thế nó đã làm nên 3 sự kiện nổi bật nh các nhà
nghiên cứu thế giới đã nhận xét ở trên.
Song chủ nghĩa yêu nớc Việt Nam truyền thống (mà ngời đại diện là giai
cấp địa chủ và các triều đại phong kiến) mang tính giai cấp, tuy rất mờ nhạt. Yêu
nớc là trung quân (Sông núi nớc Nam Vua Nam ở); là sự khẳng định và thừa
nhận thể chế quân chủ (Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập;Cùng
Hán, Đờng, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phơng)
Cho đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa yêu nớc truyền thống
đã tỏ ra bất lực trớc các nhiệm vụ lịch sử.
ý thức xã hội có tính độc lập tơng đối so với tồn tại xã hội. Trên một khía
cạnh nhất định, sự độc lập tơng đối ấy thể hiện sự bảo thủ lạc hậu của ý thức xã
hội đối với tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội ở Việt Nam vào thời kỳ này với một kết
cấu xã hội giai cấp, quan hệ dân tộc - giai cấp nh vậy (xem mục 1.1.2) thì chủ
nghĩa yêu nớc truyền thống, trung quân ái quốc không còn phù hợp. Nó đã bị tồn
tại xã hội vợt qua. Sự thất bại của các phong trào dân tộc, dân chủ (phong trào
Cần Vơng, phong trào Duy Tân, phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục)
là sự thất bại,(xét về mặt ý thức xã hội), của chủ nghĩa yêu nớc truyền thống trớc
các thế lực ngoại xâm mới với một ý thức hệ mới, ý thức hệ đế quốc chủ nghĩa.
Chủ nghĩa yêu nớc Việt Nam truyền thống, với những đặc trng nh trên đã
bao phủ và in dấu đậm nét lên tâm hồn Hồ Chí Minh, góp phần hình thành t tởng
của Ngời về QHGC-DT. Sự hình thành t tởng này ở Hồ Chí Minh đợc nhận biết
nh thế nào chúng ta hãy xem mục 2.1.1.2
1.2.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về quan hệ giai cấp- dân tộc:
1.2.2.1. giai cấp và Dân tộc:
20
Chủ nghĩa Mác cho rằng: nguồn gốc sâu xa của sự ra đời của các giai cấp
trong xã hội là sự phát triển của lực lợng sản xuất, còn nguồn gốc trực tiếp của
nó là chế độ t hữu. Sự xuất hiện của chế độ t hữu cũng là một tất yếu khách quan
do mâu thuẫn giữa nhu cầu vật chất mỗi khi đã có của d tơng đối với khả năng
sản xuất cuối thời đại công xã nguyên thủy không đủ đáp ứng nhu cầu ấy cho
mọi thành viên của xã hội.
Lực lợng sản xuất phát triển từng bớc, năng xuất lao động tăng lên, ở con
ngời xuất hiện khả năng lao động mới và nhu cầu vật chất mới. Từng cá nhân
dân dần thấy rõ khả năng lao động của mình. Sự phân công lao động xuất hiện
và lao động theo gia đình tỏ ra có hiệu quả hơn trớc, của cải tăng lên và của d
xuất hiện. Mỗi gia đình đều tìm cách duy trì và tăng thêm của cải cho mình. Chế
độ của riêng dần dần nảy sinh. Lúc đầu sự chênh lệch về sức lực và kinh nghiệm
đã đẻ ra kẻ giàu và ngời nghèo. Rồi của cải trở thành hấp dẫn. Làm giàu trở
thành mục tiêu; mọi biện pháp làm giàu đợc sử dụng. Một số ngời có chức, có
quyền trong thị tộc hay bộ tộc lợi dụng quyền hành để chiếm hữu tài sản chung
của công xã làm của riêng. Những tù binh bắt đợc trong chiến tranh giữa các bộ
lạc, bộ tộc đợc sử dụng làm nô lệ phục vụ sản xuất. Những ngời nghèo đói ngày
càng bị khinh rẻ và cuối cùng nợ nần chồng chất, không trả đợc cũng rơi vào số
phận nh các tù binh. Xã hội cộng sản nguyên thủy tan vỡ dần. Hậu quả của sự
tan rã này là đã xuất hiện xã hội có giai cấp đối kháng.
Lê-nin trên cơ sở tổng kết những t tởng của Mác và Ăng-ghen về những đặc
trng căn bản phân chia các giai cấp trong xã hội đã đa ra định nghĩa nổi tiếng về
giai cấp.
Ngời ta gọi là giai cấp những tập đoàn to lớn gồm những ngời khác nhau
về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất nhất định trong lịch sử, khác nhau
về quan hệ của họ (thờng thòng thì những quan hệ này đợc pháp luật quy định
và thừa nhận) đối với t liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức, lao động
xã hội và nh vậy là khác nhau về cách thức hởng thụ và về phần của cải xã hội ít
hoặc nhiều mà họ đợc hởng. Giai cấp là những tập đoàn ngời mà tập đoàn này
thì có thể chiêm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có
địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định[3-39-17,18]. Nh
vậy chủ nghĩa Mác Lênin xác định các giai cấp trên các phơng thức sản xuất
nhất định trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử . Trong
các phơng thức ấy các giai cấp khác nhau về quan hệ sở hữu, về tổ chức quản lý
sản xuất, về cách thức và số lợng sản phẩm đợc hởng thụ.
Phơng thức sản xuất thay đổi đã dẫn đến sự thay đổi của các hình thức cộng
đồng ngời trong lịch sử. Từ thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, xã hội loại ngời chuyển lên
thành các dân tộc. Tùy theo đặc điểm không gian, thời gian mà sự hình thành
21
dân tộc ở mỗi nơi gắn với một phơng thức sản xuất, một chế độ xã hội nhất định,
khác nhau.
Dân tộc ở châu Âu ra đời gắn với phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa. Mác
và Ăng-ghen đã chỉ rõ, sự hình thành dân tộc, nhìn chung, gắn với thắng lợi của
phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa đối với phơng thức sản xuất phong kiến.
Giai cấp t sản ngày càng xóa bỏ tình trạng phân tán của t liệu sản xuất,
của tài sản & của dân c. Nó tụ tập dân c, tập trung các t liệu sản xuất và tích tụ
tài sản vào trong tay một số ít ngời.
Kết quả tất nhiên của những thay đổi ấy là sự tập trung về Chính trị.
Những địa phơng độc lập, liên hệ với nhau hầu nh chỉ bởi những quan hệ liên
minh và những lợi ích, luật lệ, chính phủ, thuế quan khác nhau, thì đã đợc tâp
hợp lại thành một dân tộc thống nhất, có một chính phủ thống nhất, một luật
pháp thống nhất có tính chất giai cấp và một thuế quan thống nhất[2-1-
546,547] Quá trình hình thành của dân tộc cho thấy rằng, dân tộc là cộng đồng
ngời gắn với xã hội có giai cấp, có nhà nớc và có các thể chế chính trị. Nhng
khác với các hình thức cộng đồng ngời trớc đó. Những mối liên hệ dân tộc chặt
chẽ hơn, bền vững hơn, một mặt do chúng đợc hình thành trong quá trình lịch sử
rất lâu dài, đã trải qua nhiều thử thách, mặt khác, do chúng đợc hình thành và
củng cố trên cơ sở mới là quan hệ trong một địa bàn, hoặc một thị trờng thống
nhất. Dân tộc là cộng đồng xã hội - tộc ngời ổn định, bền vững đợc thành lập
trong lịch sử, bao gồm những thành viên có quan hệ cộng đồng về mặt lãnh thổ,
ngôn ngữ sinh hoạt, kinh tế, có quan hệ cộng đồng trực tiếp về mặt nhà nớc và
pháp luật, có quan hệ cộng đồng về sắc thái tâm lý, tính cách, bản sắc văn hóa,
có chung một lịch sử dựng nớc và giữ nớc. Do những quan hệ nói trên, các thành
viên trong dân tộc cùng chia sẻ những lợi ích dân tộc chính đáng[36-13]. Các
thành viên của dân tộc gồm nhiều giai cấp, tầng lớp có những lợi ích chung và
riêng và có quan hệ với lợi ích dân tộc ở những mức độ khác nhau. Trong các
quan hệ ấy, quan hệ giai cấp - dân tộc là quan hệ chi phối.
2.2.2. Quan hệ giai cấp - dân tộc:
Quan hệ giai cấp với t cách là sản phẩm của một phơng thức sản xuất nhất
là nhân tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành dân tộc, tính chất dân
tộc, xu hớng phát triển của dân tộc. Trong kết cấu giai cấp của xã hội, giai cấp
nào mạnh nhất (xét một cách toàn diện) thì sẽ giữ vai trò thống trị đối với dân
tộc. Tính chất giai cấp của giai cấp thống trị quy định tính chất của phơng thức
sản xuất và quy định tính chất của dân tộc. áp bức giai cấp sẽ sinh ra áp bức dân
tộc: hãy xóa bỏ nạn ngời bóc lột ngời thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác
cũng sẽ bị xóa bỏ khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc
không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng mất [2-1-565].
22
Đồng thời chủ nghĩa Mác Lênin hoàn toàn xa lạ với quan điểm tuyệt đối
hóa nhân tố giai cấp, coi nhẹ vai trò của nhân tố dân tộc. Bởi vì kể từ khi có dân
tộc thì cộng đồng xã hội dân tộc là địa bàn trực tiếp của các quá trình kinh tế xã
hội, các cuộc đấu tranh giai cấp, các biến cố chính trị, các cuộc cách mạng xã
hội. Không có một nớc nào mà giai cấp t sản có thể nắm quyền thống trị mà lại
không có độc lập dân tộc không khôi phục lại độc lập thống nhất cho từng
dân tộc thì về phơng diện quốc tế, không thể thực hiện đợc sự đoàn kết giai cấp
vô sản và sự hợp tác hòa bình và tự giác giữa các dân tộc đó để đạt tới những
mục đích chung [2-1-534]
Dân tộc là địa bàn trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công
nhân. Sự nghiệp cách mạng của giai cấp này trong mỗi nớc là sự nghiệp có tính
chất dân tộc sâu sắc: Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp t
sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhng lúc
đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc. Đơng nhiên là trớc hết, giai cấp vô
sản mỗi nớc phải thanh toán xong giai cấp t sản nớc mình đã [2-1-555].
áp bức giai cấp sinh ra áp bức dân tộc. Công nhân trong điều kiện ấy không
có quyền dân tộc nh Mác đã nói: Công nhân không có tổ quốc. Ngời ta không
thể cớp đi của họ cái mà họ không có. Vì giai cấp vô sản mỗi nớc trớc hết phải
dành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình
trở thành dân tộc [2-1-565]
Là đại biểu chân chính của lợi ích và truyền thống dân tộc, giai cấp công
nhân có khả năng đoàn kết mọi lực lợng yêu nớc và cách mạng xây dựng mặt
trận dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa và
đấu tranh giai cấp ở chính quốc có quan hệ, tác động lẫn nhau hết sức
mật thiết. Đấu tranh dân tộc chứa đựng những nội dung giai cấp sâu sắc.
Nó không chỉ là kết quả mà còn là nguyên nhân làm cho đấu tranh giai
cấp phát triển cả bề rộng, bề sâu và có bớc nhảy vọt về chất : Trong "sơ
thảo lần thứ nhất những luận cơng về vấn đề dân tộc và thuộc địa",
gồm 12 điểm, Lênin đã chỉ ra con đờng giải quyết vấn đề dân tộc.
Trong đó có các điểm đáng chú ý sau :
Điểm 2 : Lê nin đã chỉ ra quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề
dân tộc.
Điểm 4 : Lê nin đề ra chính sách đoàn kết quốc tế :
"Chính sách của quốc tế cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa là phải làm cho vô sản và quần chúng lao động của tất cả
các dân tộc và tất cả các nớc gần gũi nhau để tiến hành cuộc đấu tranh
cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp t sản". [341-
199].
23
Điểm 6 : Lênin đề ra chính sách liên minh quốc tế giữa các phong trào
dân tộc và liên minh giữa các phong trào này với nớc Nga Xô Viết :
"Thực hiện sự liên minh chặt chẽ nhất của tất cả các phong trào
giải phóng dân tộc và thuộc địa với nớc Nga Xô Viết, bằng cách đem lại
cho sự liên minh ấy những hình thức phù hợp với trình độ phát triển
của phong trào cộng sản trong nội bộ giai cấp vô sản mỗi nớc, hay của
phong trào giải phóng dân chủ t sản của công nhân và nông dân ở các
nớc chậm tiến hay ỏ các dân tộc chậm tiến" [3-41-200].
Điểm 11 : Lênin đòi hỏi thực hiện sự liên minh giữa giai cấp vô sản Tây
Âu với phong trào nông dân phơng Đông:
"Phải ra sức làm cho phong trào nông dân có đợc tính chất cách
mạng nhất, bằng cách thực hiện sự liên minh chặt chẽ nhất giữa giai
cấp vô sản cộng sản Tây Âu với phong traò cách mạng nông dân ở các n-
ớc phơng Đông, ở các thuộc địa và nói chung ở các nớc chậm tiến".
Điểm 12 : Lênin khẳng định sự cần thiết phải đoàn kết giai cấp và đoàn
kết quốc tế :
"Không có sự cố gắng tự nguyện tiến tới sự liên minh và sự thống
nhất của giai cấp vô sản, rồi sau nữa của toàn thể quần chúng cần lao
thuộc tất cả các nớc và các dân tộc trên toàn thế giới, thì không thể
chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa t bản đợc". [3-41-206].
Những quan điểm nêu trên chủ Lênin chính là sự phát triển và cụ
thể hoá khẩu hiệu "Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại" từ thời kỳ CNTB
sang thời kỳ chủ nghĩa đế quốc. Cốt lõi của các quan điểm nêu trên đợc
đúc kết trong khẩu hiệu nổi tiếng của Lênin : "Vô sản tất cả các nớc và
các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại".
Những vấn đề dân tộc trong LCLN là vấn đề dân tộc thuộc địa. Nội
dung vấn đề dân tộc thuộc địa là :
-Thủ tiêu sự thống trị của nớc ngoài, các nớc đế quốc.
-Giành độc lập cho dân tộc.
-Thành lập Nhà nớc dân tộc độc lập, thực hiện quyền dân tộc tự
quyết.
Còn vấn đề giai cấp ở trong LCLN là : Việc giải quyết vấn đề dân
tộc thuộc địa sẽ do giai cấp nào đảm nhiệm.
Chính vì thế nội dung của QHGC-DT trong LCLN là quan hệ giữa
giai cấp tiên phong, giai cấp lãnh đạo của dân tộc với toàn thể dân tộc
đó.
Tóm lại, Chủ nghĩa Mác Mác Lênin khẳng định rằng, vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp quan hệ biện chứng với nhau không thể tách rời. Việc giải quyết vấn
đề giai cấp có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc. Ngợc lại
24
bất cứ ở đâu và khi nào thì sự hình thành và phát triển của dân tộc, việc giải
quyết vấn đề dân tộc đều gắn liền với lợi ích giai cấp, đợc chỉ đạo bởi quan điểm
của giai cấp nhất định. Tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể mà việc giải
quyết vấn đề dân tộc hay vấn đề giai cấp trở thành nhiệm vụ chủ yếu trong từng
giai đoạn cách mạng. Và mối QGGC-DT theo CNMLN nh là quan hệ giữa cái bộ
phận với cái toàn thể. Nh là quan hệ giữa phần tử chính, chủ yếu của hệ thống
với hệ thống đó. Khi mà phần tử này giữ vai trò chỉ đạo, chi phối các phần tử
khác, và phù hợp ở một mức độ nhất định đối với toàn hệ thống thì phần tử này
sẽ giữ vai trò thống trị. Nhng một khi vai trò chủ đạo ấy mất đi thì nhất định một
phần tử chính, chủ yếu khác của hệ thống sẽ xuất hiện và thay thế. Sự xuất hiện
và trởng thành của giai cấp công nhân trong các dân tộc và trên thế giới cùng t-
ơng tự nh vậy. Chủ nghĩa Mác Lênin kết luận rằng: trong thời đại ngày nay, dân
tộc gắn liền với giai cấp công nhân và để làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, giai
cấp công nhân phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc.
Những quan điểm trên đây của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã đợc
Hồ Chí Minh đánh giá cao. Ngời viết: Lênin đã nhận thấy rằng muốn cho công
tác trong các nớc thuộc địa thành công tốt đẹp thì cần phải triệt để lợi dụng
phong trào giải phóng dân tộc trong các nớc đó, rằng giai cấp vô sản trên thế
giới, bằng việc ủng hộ phong trào ấy thì sẽ có nhiều bạn đồng minh mới hùng
mạnh trong cuộc đấu tranh của mình cho cách mạng xã hội [1-2-219]. Theo
Lênin, cách mạng ở phơng tây muốn thắng lợi thì nó phải liên hệ chặt chẽ với
phong trào giải phóng chống đế quốc ở các nớc thuộc địa và các nớc bị nô dịch
và vấn đề dân tộc, nh Lênin đã dạy chúng ta, chỉ là một bộ phận của vấn đề
chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản [1-1-277]. Lênin là ng ời
đầu tiên đã hiểu và đánh giá hết tầm quan trọng lớn lao của việc lôi cuốn nhân
dân các nớc thuộc địa vào phong trào cách mạng. Lênin là ngời đầu tiên đã chỉ
rõ rằng, nếu không có sự tham gia của các dân tộc thuộc địa, thì cách mạng xã
hội không thể có đợc Trong con mắt của các dân tộc thuộc địa, trong lịch sử
cuộc đời đau khổ và bị mất quyền của các dân tộc thuộc địa, Lênin là ngời sáng
tạo ra cuộc đời mới, là ngọn hải đăng chỉ dẫn con đờng đi tới giải phóng cho
toàn thể nhân loại bị áp bức [1-2-136,137]
Từ LCLN, Hồ Chí Minh tiếp tục nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa Mác.
T tởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ dân tộc, giai cấp vì thế thuộc hệ t tởng Mác
Lênin
*
. Nội dung cơ bản của t tởng ấy của Hồ Chí Minh là: Cách mạng
là sự nghiệp của toàn dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Việc Hồ Chí
Minh có đợc quan điểm này nh thế nào từ chỗ nghiên cứu CNMLN về
QHGC-DT ? Xin mời xem phần sau, mục 2.1.1.1.Song cũng trong điều
kiện lịch sử nh nhau mà nhiều ngời khác ở Việt Nam không tìm đợc con
*
25