Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

BÀI tập PHÂN TÍCH NGÀNH xuất khẩu gỗ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.38 KB, 20 trang )

BÀI TẬP PHÂN TÍCH NGÀNH
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH NGÀNH CHẾ BIẾN VÀ XUẤT KHẨU GỖ.
I. Phân tích môi trường vĩ mô
1. Môi trường kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế là một trong những nhân tố
quan trọng ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của hầu hết các ngành, lĩnh vực của
nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế nói chung sẽ làm tăng nhu cầu tiêu dùng xã hội,
thúc đẩy sự gia tăng sản lượng công nghiệp và giúp cho các doanh nghiệp mở rộng
thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình.
Việt Nam là nền kinh tế lớn thứ 6 ở Đông Nam Á và lớn thứ 52 trên thế
giới trong các nền kinh tế thành viên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế xét theo quy mô
tổng sản phẩm nội địa danh nghĩa năm 2011 và đứng thứ 128 xét theo tổng sản
phẩm nội địa danh nghĩa bình quân đầu người. Đây là nền kinh tế hỗn hợp, phụ
thuộc cao vào xuất khẩu thô và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong những năm gần
đây, quốc gia đã được tăng lên là một nước xuất khẩu nông nghiệp hàng đầu thế
giới và là một điểm đến hấp dẫn của đầu tư nước ngoài.
Năm 2008, 2009 Việt Nam bắt đầu chịu ảnh hưởng mạnh của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới làm cho tỷ lệ tăng trưởng kinh tế sụt giảm,nhưng kinh tế
nước ta dần phục hồi vào thời gian sau đó. Tốc độ tăng trưởng GDP trong giai
đoạn 2008 – 2010 biến động trong khoảng 5,32%- 6,88%/năm. Cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu năm 2008 đã có nhiều tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng
của nền kinh tế các nước.
(Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam)
Bước vào năm 2012, do tiếp tục chịu hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu và khủng hoảng nợ công kéo dài ở khu vực châu Âu nên kinh tế thế
giới diễn biến không thuận. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2012 theo giá
so sánh 1994 ước tính tăng 5,03% so với năm 2011, trong đó quý I tăng 4,64%;
quý II tăng 4,80%; quý III tăng 5,05%; quý IV tăng 5,44%. Mức tăng trưởng năm
nay tuy thấp hơn mức tăng 5,89% của năm 2011 nhưng trong bối cảnh kinh tế thế
giới gặp khó khăn, cả nước tập trung thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô thì mức tăng như vậy là hợp lý và thể hiện xu hướng


cải thiện qua từng quý, khẳng định tính kịp thời, đúng đắn và hiệu quả của các
biện pháp và giải pháp thực hiện của Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ.
Trong 5,03% tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản tăng 2,72%, đóng góp 0,44 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu
vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,52%, đóng góp 1,89 điểm phần trăm; khu vực
dịch vụ tăng 6,42%, đóng góp 2,7 điểm phần trăm. Trong tổng sản phẩm trong nước
năm 2012, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 22,13%; khu vực công
nghiệp và xây dựng chiếm 40,26%; khu vực dịch vụ chiếm 37,61%.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm rtrong nước theo giá so sánh năm 2004
ĐVT: %
(Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam)
Mức lãi suất:
Từ năm 2011 tới nay, mặt bằng lãi suất huy động đã giảm mạnh, giảm khoảng 7-
10%/năm so với thời điểm giữa năm 2011. Hiện nay, lãi suất huy động của các Tổ
chức tín dụng ( TCTD) phổ biến: không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng ở mức 1-
1.2%/năm, kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng ở mức 5-7%/năm, kỳ hạn từ 6
tháng đến dưới 12 tháng ở mức 6.5-7.5%/năm, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức
7.5-9%/năm, phù hợp với kỳ vọng lạm phát đến cuối năm 2013 và cả năm 2014.
Bên cạnh việc quy định lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số
lĩnh vực, ngành kinh tế và kêu gọi các TCTD giảm lãi suất các khoản vay cũ về
dưới 13%/năm thì việc lãi suất huy động giảm đã tạo điều kiện cho các TCTD tiếp
tục giảm mạnh lãi suất cho vay qua đó chia sẻ khó khăn đối với các doanh nghiệp.
Đến nay mặt bằng cho vay giảm khoảng 9-12%/năm so với thời điểm giữa năm
2011 và đã trở về mức lãi suất của giai đoạn 2005-2006, thấp hơn năm 2007, lãi
suất đã không còn là cản trở đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và người dân. Hiện lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên hiện ở mức
7-9%/năm, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh ở mức 9-11%/năm, trong đó, đối với
khách hàng tốt lãi suất cho vay chỉ từ 6,5-7%/năm.
Lạm phát:
Các rủi ro trong tài chính doanh nghiệp thường gắn liền với hiện tượng lạm phát

trong nền kinh tế. Lạm phát xảy ra do rất nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là từ
việc điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước và nguyên nhân khách quan từ thị
trường thế giới. Lạm phát ở Việt Nam xảy ra thường xuyên và biến động với biên
độ khá lớn qua các năm.
Giai đoạn 2004-2010: là thời kỳ lạm phát cao trở lại, gần như lặp đi lặp lại,
cứ 2 năm tăng cao mới có 1 năm tăng thấp hơn: năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005
tăng 8,4%, thì năm 2006 chỉ tăng 6,6%; năm 2007 tăng 12,63%, năm 2008 tăng
19,89%, năm 2009 chỉ tăng 6,9%; đến năm 2010 tăng 11,75%; năm 2011, tỷ lệ
lạm phát 18,13%.
Như vậy, từ năm 2007 đến nay, lạm phát có chiều hướng mất ổn định hơn
và biểu hiện tính chu kì. Chu kì này vào khoảng 3 năm khi tỷ lệ lạm phát đã lên
đến đỉnh điểm vào tháng 8/2008 (28,23%) và tháng 8/2011 (23,02%).
Tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan
trọng của mỗi quốc gia. Diễn biến của TGHĐ giữa USD với Euro, giữa USD/JPY
cũng như sự biến động tỷ giá giữa USD/VND trong thời gian qua cho thấy, tỷ giá
luôn là vấn đề thời sự, rất nhạy cảm. Ở Việt Nam, TGHĐ không chỉ tác động đến
xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp, gián
tiếp, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của dân chúng.
Trong năm 2007, biên độ tỷ giá giữa đồng USD và VND khá nhỏ (mức
0,5% và cuối năm tăng lên mức 0,75%), chính vì vậy tỷ giá USD/VND không có
nhiều biến động, dao động trong khoảng 15.975 VND/USD và 16.300 VND/USD.
Tuy nhiên, tỷ giá hối đoái lại có biến động rất lớn trong năm 2008 khi biên độ tỷ
giá từ 0,75% tăng lên 1% , tiếp đó là 3% vào ngày 25 tháng 12 năm 2008. Đầu
năm 2008, tỷ giá USD/VND chỉ ở mức 16.015 VND/USD, trong năm 2008, có
những thời điểm mức tỷ giá này đã tăng lên hơn 19.500 VND/USD. Sự biến động
thất thưởng của tỷ giá khiến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chịu rất nhiều khó
khăn tại thời điểm đó. Ngày 24 tháng 3 năm 2009, biên độ tỷ giá tiếp tục lại được
tăng lên mức 5% và kèm theo đó là sự tăng lên của tỷ giá.
Trong năm 2010, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã thực hiện nâng tỷ giá

liên ngân hàng lên 3% từ 17.941 VND/USD lên mức 18.554 VND/USD. Quyết
định này đã khiến tỷ giá tại trị trường tự do nhanh chóng tăng lên mức hơn 20.000
VND/USD nhưng sau đó lại giảm xuống dưới mức 19.000 VND/USD. Tỷ giá
cũng khá ổn định trong nửa đầu của năm 2010 khi quyết định của NHNN có tác
động khá tích cực.
Tuy nhiên, đầu năm 2011 , Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện tăng tỷ giá
USD với mức 9,3% so với trước đó để hạn chế nhập siêu. Động thái này của Ngân
hàng Nhà nước đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu và phần nào ảnh
hưởng tới thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, đứng trên góc độ dài hạn, quyết
định này được cho là sẽ đem lại nhiều hiệu quả tích cực hơn.
Từ những thông tin trên ta nhận Hiện tại thị trường xuất khẩu đồ gỗ của
Việt Nam khá rộng, có khoảng 120 nước. Đáng chú ý, từ cuối năm 2010 đến nay
xuất khẩu gỗ của Việt Nam có bốn thị trường chính đang bị giảm sút là Mỹ, Nhật,
EU và Trung Quốc. Riêng EU năm 2011 và 2012 sức mua giảm khá mạnh do ảnh
hưởng của khủng hoảng kinh tế khiến họ tiết kiệm. Còn thị trường Trung Quốc nổi
lên từ năm 2010, 2011 nhưng sang năm 2012 thì doanh số nhập khẩu giảm rất
mạnh. Khả năng tới đây ngành gỗ cũng gặp nhiều khó khăn do các nước sẽ dựng
không ít rào cản thuế quan
Ngoài ra, do tình hình chung khó khăn nên không ít DN còn chèn ép nhau
trong việc tìm kiếm đối tác, đơn hàng nên càng khiến cho bức tranh ngành gỗ ảm
đạm. Chưa hết, trong khi chi phí đầu vào tăng (do phải chứng minh nguồn gốc) đã
đẩy giá đầu ra lên, trong bối cảnh kinh tế suy thoái càng khiến cho thị trường đồ
gỗ không ít chông gai.
Tuy nhiên,hiện nay ngành xuất khẩu gỗ của Việt Nam đang đứng thứ 6 trên
thế giới về xuất khẩu, đứng thứ 2 ở châu Á (sau Trung Quốc) và đứng thứ nhất tại
Đông Nam Á. Mặc dù tình trạng suy thoái kinh tế đang còn làm ảnh hưởng khá
lớn, nhưng đây lại là “cơ hội hiếm có” nếu DN ngành gỗ biết nắm bắt tình hình.
Cụ thể, hiện nay Trung Quốc không còn khuyến khích chế biến gỗ ở vùng ven
biển mà đẩy vào sâu nội địa làm tăng giá thành sản phẩm, nên các nước nhập khẩu
đã chuyển sang Việt Nam với giá cạnh tranh hơn. Các nước trong khu vực Đông

Nam Á đang khan hiếm lao động ngành gỗ và nhân công cao nên VN vẫn là đối
tác lớn, tin cậy của bạn hàng và đây là lý do để DN giành thị phần. Nhật Bản đang
xây dựng sau thảm họa sóng thần nên nhu cầu sử dụng đồ gỗ là rất lớn. Từ đầu
năm tới đây kim ngạch xuất khẩu qua thị trường này đã tăng tới hơn 30% và dự
báo còn tăng hơn nữa. Bên cạnh đó kim ngạch xuất khẩu qua thị trường Úc, New
Zealand và nhiều thị trường tiềm năng khác đều tăng.
2. Môi trường chính trị, pháp luật:
Việt Nam với một nền chính trị ổn định, được bạn bè quốc tế khen ngợi và
được xem là điểm đến đầu tư ổn định, an toàn trong khu vực và trên thế giới. Đây
là một lợi thế to lớn, thuận lợi cho doanh nghiệp trong cũng như ngoài nước đầu tư
vào sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu sản phẩm gỗ.
Về lĩnh vực quan hệ quốc tế, Việt Nam được bầu làm thành viên của tổ
chức Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008 – 2009. Đây là một trong những thuận lợi,
góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Mặt hàng đồ gỗ xuất khẩu hiện đã vươn lên đứng thứ 5 trong nhóm các mặt
hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn của Việt Nam, sau dầu thô, dệt may, giày dép và
thủy sản và sẽ là một trong những ngành xuất khẩu trọng điểm trong những năm
tới. Ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ ra thị trường nước ngoài luôn
được sự quan tâm, khuyến khích từ phía Chính phủ. Điều này được thể hiện thông
qua các chính sách của Chính phủ sau đây:
- Chính phủ có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến gỗ bằng việc
bãi bỏ giấy phép nhập khẩu gỗ, hạ mức thuế nhập khẩu gỗ xuống 0%, giảm thuế
VAT xuống 5% cho mặt hàng gỗ có nguồn gốc từ rừng tự nhiên.
- Quỹ hỗ trợ phát triển, một tổ chức tài chính nhà nước được thành lập
nhằm cho vay, bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các dự án xuất
khẩu trong đó có các dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, chế biến mặt hàng gỗ
xuất khẩu.
- Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 19/2004/CT-TTg ngày 01/06/2004 đã
đặt ra một số giải pháp phát triển ngành chế biến gỗ và xuất khẩu sản phẩm gỗ, và
các văn bản của Bộ, ngành trong việc phát triển ngành xuất khẩu gỗ Việt Nam.

- Chính sách thưởng kim ngạch xuất khẩu.
3. Môi trường khoa học, công nghệ:
Tốc độ thay đổi công nghệ của ngành chế biến và xuất khẩu gỗ biến đổi
không nhiều, chủ yếu thay đổi về phần cứng, máy móc thiết bị để sản xuất. Đây là
một thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành vì vòng đời của công
nghệ sản xuất dài – khả năng tụt hậu do công nghệ biến đổi thấp. Yếu tố kiểu
dáng, mẫu mã thiết kế đối với các sản phẩm của ngành là rất quan trọng nên chi
phí cho R & D của ngành ngày càng cao. Chi phí R&D trong ngành có xu hướng
dịch chuyển về phía nhà sản xuất vì nó trở thành một tiêu chí quan trọng để các
nhà sản xuất bán được hàng.
Sau gần bảy năm gia nhập WTO, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu
đồ gỗ Việt Nam càng có nhiều cơ hội tiếp cận nhiều công nghệ mới, máy móc chế
biến gỗ tương đối được đầu tư mới, nhiều máy móc thiết bị và công nghệ mới
được chuyển giao từ các nước công nghiệp phát triển như: Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đài Loan…
Nhìn chung trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đến từ Đài
Loan, Hàn Quốc, Mỹ…và các doanh nghiệp trong nước đã khẳng định mình ở thị
trường trong nước và quốc tế như: Công ty Khải Vy, Công ty Savimex…còn lại đa
phần doanh nghiệp vừa và nhỏ khác có tốc độ đổi mới máy móc, công nghệ và
trang thiết bị cho sản xuất, chế biến diễn ra chậm, đầu tư máy móc chưa đồng đều,
mức đầu tư còn thấp, đầu tư chưa theo một định hướng phát triển rõ rệt mà chỉ đầu
tư theo đơn hàng.
Sự hạn chế và yếu kém về công nghệ sản xuất do thiếu vốn để đầu tư đổi
mới máy móc ít nhiều cũng làm khó khăn trong việc tạo ra sản phẩm có chất
lượng và có độ bền cao, làm hạn chế khả năng cạnh tranh so với các sản phẩm
cùng loại của Trung Quốc, Đài Loan…
4. Môi trường tự nhiên:
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới ẩm, thích hợp cho việc trồng rừng và phát
triển rừng nguyên liệu gỗ cho sản xuất. Trong những năm qua, mặc dù các ngành,
các cấp đã có nhiều nỗ lực trong việc trồng rừng, đã thực hiện chương trình “ 5

triệu hecta rừng trồng” và bảo vệ rừng nên diện tích rừng trồng ngày càng được
gia tăng, diện tích rừng bị chặt phá, bị cháy đã giảm dần qua các năm. Tuy nhiên,
sản lượng gỗ khai thác vẫn chưa đủ đáp ứng cho sản xuất và vẫn phải tiếp tục nhập
khẩu. Diện tích rừng sản xuất có khả năng cung cấp cho chế biến gỗ chỉ còn
khoảng 5 triệu ha, sản lượng gỗ có thể khai thác hàng năm khoảng 1 triệu mét
khối. Nguồn nguyên liệu gỗ khai thác từ rừng tự nhiên chỉ đáp ứng khoảng 15%
công suất chế biến của toàn ngành gỗ Việt Nam.
5. Môi trường nhân khẩu học
Việt Nam có dân số trên 80 triệu dân, và có tỷ lệ tăng tự nhiên hiện ở mức
1,2%, cao thứ 8 ở Đông Nam Á, cao thứ 32 ở châu Á và đứng thứ 114 trên thế
giới.
Hiện tại Việt Nam đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng”, thời kỳ mà nhóm
dân số trong độ tuổi lao động cao gần gấp đôi nhóm dân số trong độ tuổi phụ
thuộc( với 66% dân số trong độ tuổi 15-59). Ngoài ra do đặc điểm lao động của
Việt Nam rẻ nên tạo điều kiện cho các công ty trong ngành tận dụng được nguồn
lao động dồi dào và có năng lực để phát triển.
6. Môi trường toàn cầu
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa, hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn
thế giới. Bất cứ quốc gia nào cũng đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để
tìm kiếm cơ hội phát triển nền kinh tế quốc gia và nâng cao vị thế của mình trên
trường quốc tế. Và chủ trương của nhà nước Việt Nam cũng vậy, Việt Nam đã hội
nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới với hàng loạt cam kết đã bắt đầu được
thực hiện. Chính điều này dẫn đến mức độ cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt
hơn đối với tất cả các doanh nghiệp trong nước. Họ không chỉ cạnh tranh với các
công ty trong nước mà phải đối mặt với sự tranh đua của các doanh nghiệp quốc tế
đang tiến dần vào Việt Nam.
Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, hội nhập kinh tế là tất yếu và mở
rộng ra hầu hết các lĩnh vực, tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều
yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn thách thức lớn cho các quốc gia. Cạnh tranh
kinh tế - thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường,

nguồn vốn, công nghệ giữa các nước ngày càng gay gắt. Khoa học và công nghệ,
đặc biệt là công nghệ thông tin, tiếp tục phát triển nhảy vọt, thúc đẩy sự hình thành
nền kinh tế tri thức đã tác động nhiều mặt và làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực về
đời sống xã hội của tất cả các quốc gia;
Hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế chung trong khu vực và quốc tế.
Những vấn đề toàn cầu như dân số; môi trường; an ninh tài chính, lương thực;
bệnh tật… trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Nhu cầu hợp tác phát triển tăng lên, chi
phối ngay từ đầu sự lựa chọn chiến lược phát triển của tất cả các ngành kinh tế kỹ
thuật trong nước, trong đó bao gồm công nghiệp chế biến gỗ. Việc xây dựng tuyến
giao thông xuyên Á và hành lang kinh tế nối vùng Bắc Việt Nam với Tây Nam
Trung Quốc sẽ tạo nhiều cơ hội cho phát triển sản xuất, chế biến và thương mại
nông lâm thủy sản.
Sự suy thoái sinh thái ngày càng gia tăng cộng với thiệt hại về những xung
đột chính trị đã khiến môi trường toàn cầu đang gặp nhiều thách thức. Nếu như
tình hình này không được cải thiện thì thiệt hại khủng khiếp về môi trường sống
cũng như nền kinh tế toàn cầu trong năm nay là không thể tránh khỏi.
Những xu thế phát triển này của thế giới và khu vực sẽ có tác động mạnh mẽ
đến tình hình trong nước. Đây là những cơ hội để tạo ra bước tiến mới trong phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và công nghiệp chế biến gỗ nói riêng. Chính vì vậy
mà các công ty hoạt động trong ngành này đang có xu hướng đầu tư, mở rộng hơn
nữa các cơ sở sản xuất của nó để có thể đạt được lợi nhuận đáng kể. Và tại Việt
Nam thì điều này đang diễn ra một cách mạnh mẽ hơn.
II. Giới thiệu và mô tả đặc điểm ngành chế biến và xuất khẩu gỗ Việt Nam:
Định nghĩa ngành:
Ngành chế biến và xuất khẩu gỗ là ngành bao gồm các công ty, doanh
nghiệp chuyên chế biến các sản phẩm từ gỗ và xuất khẩu ra nước ngoài.
Mô tả ngành:
Việt Nam vốn là đất nước có nhiều làng nghề truyền thống được hình thành
và phát triển từ nhiều đời nay. Trải qua hàng trăm, hàng ngàn năm có rất nhiều
làng nghề đã ra đời, tồn tại và phát triển như một phần không thể tách rời của lịch

sử dân tộc như: làng nghề dệt vải, gốm sứ…Trong đó chúng ta không thể không
kể đến làng nghề làm đồ gỗ truyền thống đã gắn bó với bao thế hệ người dân Việt
Nam. Những sản phẩm của nghề này không chỉ đáp ứng nhu cầu hàng ngày mà
còn là những sản phẩm văn hóa phục vụ cho đời sống tinh thần của người dân
Việt.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, ngành nghề
truyền thống này đã phát triển thành ngành công nghiệp sản xuất và chế biến gỗ.
Sản phẩm của ngành là mặt hàng xuất khẩu mang nhiều nét đặc trưng độc đáo của
nền văn hóa dân tộc, do vậy nó cũng là thông điệp giới thiệu cho bạn bè quốc tế về
đất nước, thiên nhiên và con người Việt Nam. Bên cạnh đó các sản phẩm gỗ xuất
khẩu còn đem lại giá trị ngoại tệ rất lớn.
Bên cạnh những đóng góp cho xã hội về mặt sản phẩm, tạo ra nguồn thu
nhập ngoại tệ cho nền kinh tế của đất nước, các cơ sở chế biến sản phẩm gỗ xuất
khẩu đang tạo việc làm cho lao động ở các vùng nông thôn của Việt Nam. Theo số
liệu thống kê của Hiệp hội gỗ và lâm sản thì có trên 250 nghìn lao động đang làm
việc cho các cơ sở chế biến sản phẩm gỗ xuấthẩu. Mặt khác, sự phát triển công
nghiệp chế biến gỗ còn có tác dụng thúc đẩy hàng triệu hộ gia đình nông dân
nghèo ở vùng nông thôn miền núi của Việt Nam phát triển trồng rừng để cải thiện
thu nhập
1. Mô hình năm lực lượng cạnh tranh
1.1. Các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng
Đối thủ cạnh tranh tiềm tàng là các công ty hiện không cạnh tranh trong
ngành nhưng nhưng có thể ảnh hưởng tới ngành trong tương lai. Nhận diện các đối
thủ mới có thể thâm nhập vào ngành là một điều quan trọng, bởi họ có thể đe dọa
đến thị phần của các công ty hiện có trong ngành. Để gia nhập ngành thì bất cứ
công ty nào cũng đều đối mặt với rào cản nhập cuộc đặc trưng của ngành. Và đối
với ngành sản xuất chế biến và xuất khẩu gỗ thì có một số rào cản như:
 Lợi thế chi phí tuyệt đối
Với ngành chế biến và xuất khẩu gỗ thì chi phí đầu tư cho dây chuyền sản
xuất cũng như các máy móc, nhà xưởng ở mức trung bình là tương đối thấp. Tuy

nhiên các chi phí khác như: lãi suất vay ngân hàng cao, thuế cao, chi phí đầu vào
như nguyên liệu và lương công nhân tăng cao. Mặc dù vậy, ngành chế biến và
xuất khẩu gỗ vẫn được xem là một ngành đầy lợi nhuận và đã thu hút thêm nhiều
đối thủ gia nhập ngành trong những năm trở lại đây.
 Các qui định của chính phủ
Ngành chế biến và xuất khẩu gỗ không chịu nhiều qui định quá nghiêm ngặt
từ chính phủ Việt Nam. Ngược lại còn được sự hỗ trợ rất nhiều từ phía Chính phủ
để có thể thuận lợi trong việc tìm kiếm nguyên liệu và thị trường xuất khẩu. Tất cả
các doanh nghiệp muốn tham gia kinh doanh trong ngành này đều nào cũng có thể
truy cập và hiểu rõ được các qui phạm pháp luật của ngành từ nhà nước.
 Tính kinh tế theo quy mô:
Đa phần các công ty trong ngành đặc biệt là các công ty lớn đã có chỗ đứng
hay thị phần ổn định của mình và tất nhiên không muốn bị san sẻ thị phần cho đối
thủ. Và những công ty này có những có lợi thế hơn hẳn với thị phần có được, chi
phí cố định lớn như máy móc, dây chuyền sản xuất vì việc khấu hao tài sản đối với
những doanh nghiệp mới cũng khó khăn hơn khi hầu hết thị phần đã bị các công ty
trong ngành nằm giữ
 Qua những phân tích trên cho thấy rào cản nhập cuộc đối với ngành sản
xuất nước khoáng, nước tinh khiết đóng chai là thấp. Chính vì vậy, sự đe dọa nhập
cuộc từ các đối thủ tiềm tàng là cao
1.2. Cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành
Các doanh nghiệp trong một ngành cùng lệ thuộc lẫn nhau, các hành động
của một công ty thường kéo theo các hành động đáp trả của các công ty khác.
Với những lợi thế về nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ… châu Á
hiện đang nổi lên là các nhà cung cấp các sản phẩm gỗ chế biến xuất khẩu ngày
càng quan trọng đối với thị trường thế giới. Điều này cũng làm tăng sự cạnh tranh
vốn đã gay gắt giữa các nước xuất khẩu khu vực châu Á. Nổi lên trong số đó là
các nước như Trung Quốc, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Đài Loan… Vì vậy có
thể thấy, các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ trong khu vực châu Á là những đối thủ
cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam.

Có thể điểm qua một số đối thủ cạnh tranh với ngành gỗ xuất khẩu của Việt
Nam:
- Trung Quốc: xuất khẩu rất nhiều mặt hàng được chế biến từ gỗ sang thị
trường các nước, đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gỗ. Mỹ là thị trường lớn
nhất cho ngành xuất khẩu đồ gỗ của Trung Quốc ( chiếm hơn 50% tổng sản lượng
xuất khẩu).
- Đài Loan: đứng hàng thứ 19 trên thế giới về xuất khẩu các sản phẩm chế
biến từ gỗ. Mặt hàng chủ yếu là sản phẩm bằng gỗ và kim loại với chất lượng tốt,
kiểu dáng đa dạng.
- Indonesia: đứng thứ 12 trên thế giới về xuất khẩu gỗ. Mặt hàng gỗ tập trung
vào hàng gia dụng bằng mây tre đan và xuất khẩu gỗ nguyên liệu. Hiện nay
Indonesia có khoảng 115 doanh nghiệp chế biến gỗ qui mô lớn với khoảng 4 triệu
nhân công nhưng chỉ có khoảng 30% trong số các doanh nghiệp có thể hoạt động
tốt.
- Malaysia: đứng hàng thứ 10 trên thế giới về xuất khẩu gỗ. Mỹ là thị trường
lớn nhất cho ngành xuất khẩu đồ gỗ ngành gỗ Malaysia.
- Thái Lan: đứng hàng thứ 25 trên thế giới về xuất khẩu gỗ. Mặt hàng gỗ
xuất khẩu chủ yếu là đồ nội thất từ gỗ cao su.
Hiện nay khu vực Châu Á có Trung Quốc, Malaysia, Việt Nam là những
đối thủ lớn trong xuất khẩu gỗ vào thị trường thế giới, các mặt hàng xuất khẩu
cũng gần giống nhau về chủng loại.
 Kết luận: mức độ cạnh tranh trong ngành là cao
1.3. Năng lực thương lượng của người mua
Đồ gỗ Việt Nam hiện có mặt trên thị trường của 120 nước trên thế giới,
trong đó Mỹ được đánh giá là thị trường số 1 với giá trị nhập khẩu hơn 30% tổng
giá trị đồ gỗ và lâm sản xuất khẩu của Việt Nam, khối EU là nhà nhập khẩu lớn
thư hai với giá trị nhập khẩu gần 30%, Nhật Bản đứng thứ ba (27%). Theo một số
đánh giá Việt Nam sẽ hoàn toàn có khả năng nâng cao giá trị xuất khẩu lâm sản
với 3 thị trường chính là Mỹ, EU và Nhật Bản lên 4,5 tỷ USD/năm trong khoảng
từ 3- 5 năm tới.

(Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam)
Xuất khẩu gỗ của Việt Nam chủ yếu vào hai thị trường chính là Hoa Kỳ và
EU, nhưng chính hai thị trường đã đặt ra những khắt khe mới. Luật Lacey của Hoa
Kỳ đã áp dụng cho hàng gỗ của Việt Nam từ 1/10/2010 có nhiều quy định khắt
khe về nguồn gốc, xuất xứ của gỗ và các sản phẩm gỗ và Quy chế mới của EU về
tính hợp pháp của gỗ có hiệu lực vào tháng 3/2013. Điều này gây khó với cả hai
nguồn nguyên liệu. Gỗ nội địa khó đáp ứng yêu cầu về chứng chỉ quản lý rừng của
Hội đồng rừng quốc tế. Ngoài ra, gỗ nhập khẩu cũng khó kiểm soát nguồn gốc,
nên khi xuất khẩu sản phẩm dễ gặp phải rào cản và khó khăn.
 Kết luận: khả năng thương lượng của người mua là cao.
1.4. Năng lực thương lượng của nhà cung cấp
Trong sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu, chi phí nguyên vật liệu chiếm tới 60-
70% giá thành của sản phẩm. Vì vậy, sức ép từ phía nhà cung ứng nguyên vật đầu
vào là rất lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ .Hơn 80% nguồn nguyên
liệu phải nhập khẩu từ các nước như: Malaysia, Myanma,Campuchia, Philippines,
Châu Phi, Newzeland…với kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu năm 2012 Việt
Nam đã nhập khẩu 132,3 triệu USD gỗ và sản phẩm tăng 35,25% so với năm
2011. (nguồn: Tổng cục Hải Quan Việt Nam).
Kim ngạch nhập khẩu gỗ nguyên liệu tăng không chỉ do các doanh nghiệp
tăng lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu mà còn do giá nhập khẩu nhiều chủng loại
gỗ nguyên liệu tăng so với cùng kỳ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng đã chủ
động mở rộng tìm thêm các nhà cung cấp khác như:Canada, Nam Phi, Mỹ, Nga,
Brazil…
Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam phải mua số lượng rất lớn và giá
nguyên liệu gỗ của các nước này rất cao vì có chứng nhận FSC. Mặt khác, cước
phí vận chuyển cao, thời gian nhận hàng chậm đã làm giảm sự chủ động của
doanh nghiệp trong kế hoạch sản xuất.
Do có sự phụ thuộc về nguyên vật liệu vào nguồn nhập khẩu, nên doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc kiểm soát chi phí sản xuất, cạnh tranh về giá
với đối thủ là hết sức khó khăn. Hơn nữa, nguồn vật liệu của ngành sản xuất đồ gỗ

nội thất là gỗ rừng tự nhiên, mà diện tích rừng ngày nay ngày càng bị thu hẹp, một
số các điểu luật về bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái hiện nay chỉ cho phép
khai thác gỗ ở những khu rừng già, lâu năm và phải có chiến lược phát triển trong
dài hạn nên nguồn nguyên liệu ngày càng khan hiếm. Chính vì vậy, doanh nghiệp
ngày càng chịu áp lực từ phía nhà cung cấp.
Đứng đầu về kim ngạch nhập khẩu là thị trường Hoa Kỳ, tới trên 43 triệu
USD, tăng 52,72% so với cùng kỳ năm trước. Tính riêng tháng 3/2012, thì nhập
khẩu gỗ và sản phẩm từ thị trường Hoa kỳ lại giảm nhẹ so với tháng trước đó,
giảm 7,66%, tuy nhiên lại tăng 29,99% so với tháng 3/2011.
Đứng thứ hai sau Hoa Kỳ là thị trường Trung Quốc với kim ngạch nhập
trong tháng là 17,1 triệu USD, tăng 90,97% so với tháng liền kề trước đó và tăng
50,59% so với tháng 3/2011, nâng kim ngạch nhập khẩu gỗ và sản phẩm từ thị
trường này quí I/2012 lên 39,6 triệu USD, tăng 44,23% so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài hai thị trường chính kể trên, Việt Nam còn nhập khẩu gỗ và sản
phẩm từ các thị trường khác như: Malaixia, Thái Lan, Niuzilan, Cămpuchia…
 Kết luận: khả năng thương lượng của nhà cung cấp là cao.
1.5. Các sản phẩm thay thế
Sản phẩm và dịch vụ thay thế là những sản phẩm, dịch vụ có thể thỏa mãn
nhu cầu tương đương với các sản phẩm dịch vụ trong ngành.
Với nhu cầu nhập khẩu sản phẩm gỗ ngày càng tăng của các thị trường . Đặc
biệt, trong xã hội công nghiệp với mức độ rất cao như hiện nay, người dân ngày
càng có nhu cầu sử dụng đồ vật bằng chất liệu gỗ thay thế các vật liệu sắt,
nhôm…. Bên cạnh đó, sản phẩm gỗ nói chung và mặt hàng đồ gỗ nội thất nói
riêng càng làm tô thêm vẻ đẹp cho không gian sống, học tập, làm việc và xu
hướng đang lên của người tiêu dùng là muốn gần gũi với thiên nhiên. Chính vì
vậy, sản phẩm đồ gỗ ngày càng trở nên rất cần thiết cho cuộc sống, lao động, học
tập của họ. Do đó, sản phẩm thay thế ít có khả năng tác động nhiều đến sản phẩm
gỗ.
Tuy nhiên, do đặc điểm nguồn nguyên liệu gỗ ngày càng khan hiếm, ý thức
về bảo vệ môi trường của khách hàng ngày càng tăng nên bên cạnh việc sử dụng

đồ gỗ thuần túy thì một xu hướng đang gia tăng là sử dụng đồ gỗ có kết hợp những
chi tiết bằng vật liệu khác như: Kim loại, kính, nhựa, da, vải … Việc kết hợp giữa
nguyên liệu gỗ và các vật liệu khác vừa làm tăng tính hấp dẫn cho sản phẩm, vừa
làm tăng giá trị cho sản phẩm, đồng thời đáp ứng cho nhu cầu ngày càng đa dạng
của khách hàng đối với sản phẩm gỗ đang là xu hướng ngày càng tăng. Đây là
điểm cần lưu ý đối với các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm đồ gỗ Việt Nam trong
việc kết hợp nhiều nguyên phụ liệu, vật liệu khác nhau trên cùng một sản phẩm,
vừa tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp phụ trợ phát triển, tận dụng các
nguyên phụ liệu rẻ tiền, dồi dào trong nước như: Mây, tre, đay…, vừa góp phần
nâng cao giá trị cho sản phẩm xuất khẩu.
Ngoài ra, nhiều loại sản phẩm mới ra đời để thay thế các sản phẩm từ gỗ tự
nhiên như gỗ nhân tạo, tre ép khối, inox,…. Những sản phẩm này có những đặc
tính nổi trội để có thể cạnh tranh được với sản phẩm làm từ gỗ tự nhiên. Tre ép
khối được làm bằng cách loại bỏ lớp vỏ xanh của cây tre, chẻ mỏng, sấy khô,
nhúng keo và ép dưới áp suất cực lớn làm biến dạng cấu trúc của nguyên liệu
thành các khối sản phẩm giống gỗ. Đặc tính nổi bật nhất của loại vật liệu này là
độ cứng cao và độ ổn định kích thước lớn. Tre ép khối cứng hơn một số loại gỗ
thông dụng như gỗ óc chó đen, sồi đỏ, sồi trắng. Độ ổn định kích thước lớn hơn gỗ
Tếch hay Anh đào. Hơn nữa, sản phẩm này còn tận dụng được nguồn nguyên liệu
nhiều và rẻ ở Việt Nam, thành phẩm cho lợi nhuận cao và có tính chất bền vững
trong sản xuất. Hay sản phẩm nội thất từ inox có độ bền cao, không bị mối mọt,
kiểu dáng đa dạng phong phú, giá thành rẻ
 Sự đe dọa của các sản phẩm thay thế là cao.
2. Chu kì ngành
Ngành chế biến và xuất khẩu gỗ phát triển mạnh từ những năm 90 và từ đây
tốc độ tăng trưởng hàng năm của ngành luôn ở mức hai con số là 26% và nhu cầu
tiêu dùng luôn tăng theo cấp số nhân trong vòng 10-15 năm trở lại đây. Nhu cầu
nhập khẩu của các thị trường chính của ngành chế biến và xuất khẩu gỗ Việt Nam
là Mỹ, EU, Nhật Bản vẫn tiếp tục gia tăng.
Ngành chế biên và xuất khẩu gỗ Việt Nam hiện đang có lợi thế hơn hẳn so

với các doanh nghiệp Trung Quốc ở nhiều thị trường trọng điểm như: Mỹ, Nhật
Bản bởi lợi thế giá nhân công và nguyên liệu cạnh tranh hơn. Ngoài ra, làn sóng
chuyển hướng làm ăn sang Việt Nam của nhiều nhà đầu tư nước ngoài mà trước
đây chủ yếu đặt hàng từ các doanh nghiệp Trung Quốc, cũng tạo cơ hội cho doanh
nghiệp Việt Nam đón nhận thêm được nhiều hợp đồng mới. Theo khảo sát của
Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam cho thấy, năm 2013 những doanh nghiệp xuất
khẩu gỗ có đơn hàng tăng cao so với cùng kỳ năm 2012 như: Công ty Tavico tăng
khoảng 50%, Công ty Đăng Long tăng hơn 30%
Ngoài ra còn có sự hỗ trợ giúp đỡ nhiều mặt của chính phủ trong việc tạo
nguồn nguyên liệu, tìm kiếm thị trường, các chính sách xuất khẩu làm giảm rào
cản nhập cuộc vào ngành.
Vì vậy, ta có thể kết luận rằng ngành chế biến và xuất khẩu gỗ Việt Nam
hiện đang trong giai đoạn tăng trưởng
3. Các nhân tố dẫn đến sự thành công của ngành
Nguồn nhân lực
Mặc dù là một ngành sản xuất quan trọng đóng góp đáng kể vào tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nhưng công nghiệp chế biến gỗ hiện tại cơ bản
vẫn là ngành thu hút lao động giản đơn do cơ cấu sản phẩm chủ yếu là đồ gỗ ngoài
trời. Vì vậy để phát triển ngành chế biến và xuất khẩu gỗ, đáp ứng nhu cầu thị
trường xuất khẩu và hội nhập vào thị trường thế giới thì nguồn nhân lực chất
lượng cao là một nhân tố quan trọng đem lại sự thành công cho các cơ sở,đơn
vị,doanh nghiệp trong ngành. Cho nên cần phải đào tạo một đội ngũ nhân lực có
trình độ chuyên môn cao đủ khả năng tiếp cận và ứng dụng những công nghệ tiên
tiến nhất,chắn chắn sẽ mang lại sự thành công cho doanh nghiệp nói riêng và
ngành nói chung. Nhân lực chính là yếu tố quan trọng để phát triển ngành chế
biến và xuất khẩu gỗ ở nước ta.
4. Những lực lượng dẫn dắt sự thay đổi trong ngành
4.1. Cải tiến công nghệ
Để đảm bảo,nâng cao khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực và
trên thế giới,ngành chế biến và xuất khẩu gỗ cần phải đầu tư công nghệ hiện đại

nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng mẫu mã, đáp ứng yêu cầu thị trường
nhập khẩu.
Bên cạnh việc hình thành các doanh nghiệp mới với trang thiết bị mới, hiện
đại, hầu hết các doanh nghiệp chế biến gỗ phải thường xuyên duy tu nhà xưởng,
đổi mới trang thiết bị để đáp ứng được yêu cầu sản xuất hiện tại và trong tương
lai. Trang thiết bị, công nghệ chế biến được tăng cường cơ giới hóa, tự động hóa
để đảm bảo chất lượng sản phẩm, giảm cường độ lao động của công nhân, giảm
sự phụ thuộc nguồn lao động trong chế biến gỗ. Ngoài ra doanh nghiệp phải nhanh
chóng tiếp thu và áp dụng vào sản xuất các tiến bộ kỹ thuật về công nghệ chế biến
gỗ như công nghệ tạo vật liệu mới, công nghệ xử lý gỗ, công nghệ sử dụng các
phế liệu dạng sơ sợi trong sản xuất nông lâm nghiệp
4.2. Những qui định của chính phủ
Nhờ sự quan tâm ,hỗ trợ,giúp đỡ nhiều mặt của chính phủ đã ban hành
nhiều chủ trương chính sách để phát triển ngành chế biến và xuất khẩu gỗ. Chính
phủ đã đưa ra nhiều ưu tiên và khuyến khích cho sự phát triển bền vững của ngành
công nghiệp nội thất này. Chính phủ đã ban hành những cơ cấu chính sách để
khuyến khích các công ty mở rộng sản xuất và khả năng kinh doanh, đồng thời
hạn chế một cách nghiêm ngặt việc sử dụng gỗ lấy từ rừng tự nhiên.
Chẳng hạn, Bộ Thương mại có một chương trình dài hạn để khuyến khích
các công ty phát triển thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm Việt Nam. Các nhà
xuất khẩu, những người có thể lập thành các phái đoàn thương mại ra nước ngoài
hoặc tham gia các chương trình xúc tiến thương mại hay các cuộc triển lãm nước
ngoài là có đủ tư cách nhận hỗ trợ 50% tiền vé, ăn ở, thuê gian hàng và các chi phí
liên quan. Các nhà xuất khẩu đồ nội thất có thể xin số tiền bồi hoàn này thông qua
Hiệp hội Rừng Việt Nam hoặc thông qua Cục Xúc tiến Thương mại Vietrade.
 Kết luận: qua những phân tích trên cho thấy lực lượng dẫn dắt sự thay đổi
trong ngành chế biến và xuất khẩu gỗ bao gồm cải tiến công nghệ và những qui
định của chính phủ .
5. Kết luận về sức hấp dẫn của ngành
Ngành chế biến và xuất khẩu gỗ là một trong những ngành xuất khẩu chiếm

tỷ trọng lớn trong nền kinh tế Việt Nam
Ngành chế biến và xuất khẩu gỗ là một ngành lợi nhuận cao với tốc độ tăng
trưởng trung bình trong dài hạn được dự đoán là 6%/năm.
Hàng năm ngành kinh doanh này thu hút thêm rất nhiều nhà đầu tư mới bước
chân vào thị trường.
 Vậy có thê kết luận rằng ngành chế biến và xuất khẩu gỗ là một ngành tương
đối hấp dẫn hiện nay tại thị trường Việt Nam.

×