Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

PHÂN TÍCH TÌNH XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY MAY THĂNG LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.52 KB, 24 trang )

PHÂN TÍCH TÌNH XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY MAY THĂNG
LONG
1. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ
1.1 Tổng quan về thị trường dệt may Mỹ
Đối với ngành dệt may, những tiêu chuẩn thị trường lý tưởng là dân số đông, thu
nhập quốc dân cao, xu hướng thời trang phát triển mạnh. Có thể nói thị trường Mỹ hội
tụ khá đầy đủ các tiêu chuẩn này. Với dân số khoảng 285,822 triệu người (số liệu
31/12/2001), chiếm 5% dấn số thế giới và là nước đông dân thứ ba trên thế giới, tỷ lệ
dân sống ở thành thị cao, chiếm khoảng 75%, thu nhập quốc dân tính trên đầu người
cao, trên 36.200USD/người/năm (số liệu năm 2000), Mỹ trở thành một trong những
quốc gia nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng ổn định
trong thập niên 90 của thế kỷ 20 càng làm tăng niềm tin của người tiêu dùng, duy trì
tiêu dùng ở mức độ cao.
Trong thời gian từ 1989 – 1993, mức tiêu thụ hàng dệt may ở Mỹ tăng 15%.
Năm 1993, tổng mức tiêu dùng khoảng 86 tỷ USD. Năm 1994, mức tiêu thụ tăng 10%
so với năm trước đó. Đến nay, mức tiêu thụ của Mỹ ước tính khoảng 115 tỷ USD. Mỗi
năm Mỹ nhập khoảng 60 tỷ USD, bằng cả lượng hàng dệt may của Nhật và EU cộng
lại. Mỹ nhập khẩu hàng dệt may chủ yếu từ Mêhicô, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng
Kông, Hàn Quốc. Các nước này chiếm đến 60% hàng dệt may nhập khẩu vào Hoa Kỳ
và là những đối tượng cạnh tranh đáng kể nhất đối với các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam. Theo số liệu năm 2000, hàng dệt may Trung Quốc xuất vào Mỹ 9 tỷ USD,
Mêhicô là 7,7, Hồng Kông 4,7, EU 4,0, Canađa 3,4, Hàn Quốc 3,2, Đài Loan 2,9, Ấn
Độ 2,7, Đôminica 2,4, Ônđurat 2,2.
Các nghiên cứu chỉ ra người Mỹ dành khá nhiều thời gian cho việc mua sắm
quần áo. Trung bình một năm mỗi người Mỹ đi mua quần áo khoảng 22 lần, so sánh với
châu Âu là 14 lần, châu Á 13 lần, Mêhicô 10 lần, châu Mỹ La tinh 8 lần. Điều đó cho
thấy nhu cầu may mặc ở Mỹ đang dẫn đầu thế giới. Đây được coi là tín hiệu tốt đối với
các nước xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ. Hơn nữa, Mỹ còn là một quốc gia đa chủng
tộc với nhiều màu da, phong tục và lối sống khác nhau. Điều này khiến nhu cầu thị
trường Mỹ rất phong phú, đa dạng.
1.2 Vài nét về quan hệ thương mại Việt – Mỹ


Quan hệ thương mại Việt Nam và Mỹ đã bắt đầu cách đây 150 năm với các
thương vụ nhỏ lẻ. Cho đến tháng 4/1975, Mỹ cũng chỉ quan hệ kinh tế với chính quyền
Sài Gòn thông qua các khoản viện trợ chiến tranh. Khối lượng giao dịch kinh tế không
lớn, chủ yếu là các hàng hoá xuất khẩu sang Mỹ như gỗ, cao su, gốm, hải sản… Sau khi
Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, đặc biệt là sự bình thường hoá
quan hệ Việt – Mỹ, mối giao thương Việt – Mỹ mới có điều kiện phát triển tương xứng
với tiềm năng của nó.
Trong giai đoạn cấm vận kinh tế kéo dài 30 năm (từ 1964 đến tháng 2/1994),
quan hệ kinh tế Việt – Mỹ không phát triển, nhưng qua các con đường gián tiếp và
không chính thức, Việt Nam vẫn có quan hệ buôn bán với nhiều tổ chức kinh tế của
Mỹ. Một số công ty Mỹ qua hình thức trung gian cũng đã xuất khẩu hàng hoá vào Việt
Nam. Theo số liệu của Bộ thương mại Mỹ năm 1987, Mỹ xuất khẩu sang Việt Nam 23
triệu USD. Theo số liệu thống kê của Việt Nam, năm 1990 Việt Nam đã xuất sang thị
trường Mỹ một lượng hàng trị giá 5000 USD, tăng lên 9.000 USD vào năm 1991.
Ngày 3/2/1994 Tổng thống Mỹ tuyên bố chính thức bãi bỏ cấp vận đối với Việt
Nam, tiếp theo đó là Bộ thương mại Mỹ chuyển Việt Nam từ nhóm Z (bao gồm các
nước Bắc Triều Tiên, Cu Ba, Việt Nam) lên nhóm Y (gồm Mông Cổ, Lào, Campuchia,
Việt Nam cùng một số nước Đông Âu và các quốc gia thuộc Liên Xô cũ) ít hạn chế hơn
về hoạt động thương mại. Ngay sau khi cấm vận được bãi bỏ, các hãng lớn của Mỹ với
sự chuẩn bị từ trước đã tung sản phẩm của mình vào thị trường Việt Nam. Các sản
phẩm của hãng Cocacola, Pepsi-coca, Kodak tràn ngập thị trường Việt Nam. Các hãng
như Mobil, IBM, General Motors, Microsoft… ngay lập tức đã ký được các hợp đồng
khai thác và cung cấp thiết bị có giá trị lớn cho các đối tác Việt Nam. Tổng số đầu tư
của Mỹ vào Việt Nam từ con số không đến 5/1997 đạt 1,2 tỷ USD với 69 dự án, đưa
Mỹ trở thành nước đầu tư lớn thứ 6 tại Việt Nam, trên cả Pháp, Anh, Đức…
Bng 13: Quan h thng mi Vit M nhng nm t 1995 - 2002
n v tớnh: Triu
USD
Ch tiờu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Nhp khu 253 616 227,75 269 209,67 259,22 161,63 400

Xut khu 199 319 388,2 553,5 609,18 524,05 602,09 2400
Tng XNK 452 935 665,95 822,5 899,85 783,27 863,72 2800
Thõm ht/Thng
d
-55 -297 110,45 284,
5
309,5
1
264,8
3
340,4
6
2000
Nguồn: Bộ Thơng mại các năm từ 1995-2001; TS. Hồ Sĩ Hng, Nguyễn Việt Hng: Cẩm
nang xâm nhập thị trờng Mỹ 2002
Ngoại giao giữa hai nớc ảnh hởng rất lớn đến quan hệ thơng mại giữa hai nớc.
Kim ngạch hai chiều tăng từ 452 triệu USD năm 1995 lên 899,85 triệu vào năm 1999.
Tính từ 1997 đến nay, Việt Nam liên tục xuất siêu sang Mỹ. Một trong những thành
tựu thơng mại quan trong nhất giữa hai nớc là Hiệp định thơng mại Việt - Mỹ. Hiệp
định thơng mại Việt Mỹ đợc ký vào ngày 13/7/2000, là kết quả của quá trình đàm
phán kéo dài 4 năm và đánh dấu một bớc tiến mới trong quan hệ thơng mại giữa hai n-
ớc. Hiệp đinh thơng mại Việt - Mỹ tạo ra cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp có hàng
hoá xuất khẩu sang thị trờng Mỹ nói chung, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may
mặc nói riêng. Đó là việc mở ra một thị trờng rộng lớn, sức mua lớn, bên cạnh đó là cơ
hội để tiếp cận một nền kinh tế tiên tiến, tiếp cận tri thức phát triển, học hỏi những
kinh nghiệm trong quản lý và kinh doanh. Hiệp định không chỉ mở ra triển vọng xuất
khẩu sang thị trờng Mỹ mà còn tạo cơ hội để nhập khẩu các hàng hoá trực tiếp từ Mỹ
với nhiều lợi thế hơn qua trung gian. Ngoài ra, việc ký kết Hiệp định còn mở ra hành
lang pháp lý thu hút vốn đầu t nớc ngoài vào Việt Nam, tạo ra niềm tin đối với các nhà
đầu t nớc ngoài về một nền kinh tế ổn đỉnh.

1.3 Chính sách thơng mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam
Chỉ sau khi lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam đợc bãi bỏ thì hàng hoá
xuất khẩu của Việt Nam nói chung, hàng dệt may nói riêng mới có cơ hội và điều kiện
để vào thị trờng Mỹ. Tuy nhiên, chính sách thơng mại của Mỹ đối với hàng dệt may
Việt Nam còn phụ thuộc vào các bớc tiến trong quan hệ thơng mại song phơng giữa
hai nớc. Bên cạnh việc hàng dệt may Việt Nam cha đợc hởng chế độ u đãi từ phía Mỹ,
hàng dệt may còn phải chịu sự chi phối bởi các quy định trong chính sách thơng mại
của Mỹ đối với hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ. Theo các chuyên gia, vấn đề dệt may
sẽ đợc phía Mỹ đề cập trong khuôn khổ đàm phán song phơng về vấn đề Việt Nam gia
nhập WTO nh họ đã làm với Trung Quốc. Từ năm 2003, Mỹ chính thức áp dụng hạn
ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam với mức hạn ngạch năm 2003 là 1,7 tỷ USD.
Mặc dù đã áp dụng hạn ngạch nhng phía Mỹ vẫn tiếp tục dùng các biện pháp
hạn chế khác nh điều tra chống phá giá, đánh thuế đối kháng. Đôi khi các biện pháp
này đợc cố tình sử dụng nhằm hạn chế thơng mại.
Đối với mặt hàng dệt may, thị trờng Mỹ có nhiều đẳng cấp, yêu cầu phong phú
về chủng loại mặt hàng, ít khó tính nh thị trờng EU và Nhật song đòi hỏi phải phong
phú và luôn đổi mới.
Chính sách thuế quan: Mỹ áp dụng thuế quan trên cơ sở giá FOB thấp hơn giá
CIF nên mức độ bảo hộ bằng thuế quan của Mỹ cũng thấp hơn so với các nớc khác.
Thuế suất: Mặc dù mức thuế suất MFN trung bình của Mỹ là 5,7% năm 1993,
nhng mức thuế áp dụng đối với các sản phẩm dệt là 10,3% và sản phẩm may là 11,3%.
Một số nhóm sản phẩm còn chịu thuế cao hơn nh quần áo 13,7%, sợi filament nhân
tạo 13,3%. Riêng với các loại sản phẩm dệt, mức độ bảo hộ thực tế còn cao hơn vì
thuế suất áp dụng cho sản phẩm đầu vào chỉ là 3% nhng đối với sản phẩm gia công đã
gia công chế biến thì thuế suất có thể cao gấp hơn 3 lần.
Đối với hang dệt may Việt Nam do vẫn cha đợc hởng chế độ u đãi về thuế nên
mức thuế suất vẫn rất cao, thờng từ 40 90%, đây là một cản trở lớn đối với khả năng
cạnh tranh và xâm nhập thị trờng Mỹ.
Bảng 14: Các mức thuế suất của Mỹ đối với hàng dệt may xuất khẩu vào Mỹ
TT Mặt hàng Thuế suất

MFN (%)
Thuế suất phổ
thông (%)
Mức chênh
lệch (%)
1 Sản phẩm dệt 10,3 51,1 44,8
2 Sản phẩm may mặc 13,4 68,9 55,5
Nguồn: Emiko Fukase and Will Martin: The Effect of the US s Granting MFN
Status to Vietnam, World Bank
Qua bảng trên ta thấy mức chênh lệch về thuế suất MFN và mức thuế suất phổ
thông là rất lớn, tới hơn 50%. Đây là khó khăn rất lớn của hàng dệt may Việt Nam khi
cạnh tranh trên thị trờng Mỹ với những đối thủ Mỹ và những đối thủ từ những nớc đợc
hởng quy chế MFN. Đối với hàng may mặc phải chịu thuế suất cao gấp 5 lần thuế suất
MFN. Thuế cao nh vậy cộng với chất lợng hàng hoá của ta cha cao nên việc thâm nhập
thị trờng Mỹ là rất khó khăn. Số tơng đối mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang
Mỹ cho thấy tăng liên tục, nhng con số tuyệt đối lại quá nhỏ bé so với tổng lợng hàng
may mặc Mỹ nhập khẩu là 50 60 tỷ USD.
Hệ thống hạn ngạch: Công cụ bảo hộ chính của ngành dệt may Mỹ là hệ thống
hạn ngạch áp dụng theo Hiệp định dệt may của WTO (ATC), mặc dù các hạn chế này
đang phải xoá bỏ dần. Năm 1998, Mỹ áp dụng hạn ngạch đối với sản phẩm dệt may
làm từ bông, sợi thực vật, len, sợi nhân tạo và lụa từ 45 nớc, trong đó có 37 nớc sẽ phải
loại bỏ dần cho đến năm 2005. Đến nay, Mỹ đã thực hiện xong 2 giai đoạn đầu hoà
nhập các sản phẩm dệt may theo Hiệp định ATC. Tuy nhiên, trên thực tế các sản phẩm
đợc hoà nhập lại không phải là loại nhạy cảm, chịu hạn ngạch. Do vậy, hệ thống hạn
ngạch đợc loại bỏ vào giai đoạn cuối cùng là 2005 đối với nhiều mặt hàng. Việt Nam
vẫn cha phải là thanh viên của WTO nên Mỹ vẫn đơn phơng áp dụng hạn ngạch đối
với Việt Nam.
Về nguyên tắc xuất xứ hàng hoá và ghi nhãn sản phẩm dệt may: M ngi ta
rt quan tõm n xut x hng hỏo v nhón mỏc ca sn phm. i vi cỏc sn phm
dt may khi xut khu vo M phi c ghi nhón, nờu rừ tờn nh sn xut v nc sn

xut, gia cụng sn phm. T 1/7/1996 quy nh v xut x hng hoỏ i vi sn phm
dt may ca M cú hiu lc. i vi nhng sn phm may mc cn gia cụng qua nhiu
cụng on, theo quy nh c thỡ nc xut x l ni din ra cụng on ct vi. Theo quy
nh mi, nc xut x v c bn l ni din ra cụng on may. Tuy nhiờn, quy nh
mi ca M xỏc nh xut x ca sn phm dt l ni tin hnh in, nhum vi.
i vi sn phm len, theo quy nh nhón hiu sn phm len nm 1939, tt c
cỏc sn phm cú cha si len nhp khu vo M phi ghi nhón, tr thm, chiu, nm
ghế. Theo Luật nhãn hiệu sản phẩm da lông thú, tất cả các sản phẩm nhập khẩu có giá
thành hay giá bán từ 7 USD trở lên phải ghi nhãn và nước xuất xứ.
Chế độ visa xuất khẩu: Mỹ buộc một số nước phải ký thoả thuận về việc áp
dụng chế độ visa xuất khẩu đối với hàng dệt may. Nước đối tác xác nhận dưới dạng
đóng dấu vào hoá đơn hay giấy phép trước mỗi chuyến hàng. Biện pháp này hiện được
sử dụng để quản lý hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ. Quy định về visa này được áp
dụng cho sản phẩm chịu hạn ngạch và không chịu hạn ngạch, mặc dù các sản phẩm chịu
quota đã phải chứng minh xuất xứ của mình khi muốn xuất vào thị trường Mỹ. Sau khi
các nước Ấn Độ, Pakistan và Hồng Kông kiện Mỹ tại cơ quan quản lý hàng dệt may
của WTO (TMB), đầu năm 1999 Mỹ đã phải bỏ áp dụng chế độ trên đối với các sản phẩm
đã hoà nhập theo Hiệp định. Đối với các nước chưa phải là thành viên của WTO trong đó
có Việt Nam thì Mỹ vẫn đơn phương áp dụng mà không chịu bất kỳ áp lực nào.
2. Những thuận lợi và khó khăn khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ
2.1 Thuận lợi
Khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ, Công ty may Thăng Long có nhiều thuận lợi.
Trước tiên, đó là cơ hội về một thị trường rộng lớn. Thị trường Mỹ với dân số khoảng
trên 285 triệu dân, là một nước công nghiệp phát triển và giàu nhất thế giới. Chi phí của
dân cư cho việc mua sắm hàng may mặc thuộc vào loại cao trên thế giới, đây cũng là
nơi thị trường mốt rất phát triển. Những điều đó cho thấy thị trường Mỹ là một thị
trường rất rộng lớn, tạo ra nhiều cơ hội cho các nhà xuất khẩu hàng dệt may. Tuy nhiên,
đây cũng là thuận lợi chung đối với bất kỳ nhà xuất khẩu hàng dệt may nào bán sản
phẩm trên đất Mỹ.
Thứ hai, Công ty may Thăng Long đã có thời gian khá dài xuất khẩu sang thị

trường Mỹ, đến giờ Công ty đã có một số bạn hàng, đối tác quen, xây dựng được uy tín,
thương hiệu với khách hàng cũng như đã có những văn phòng đại diện, của hàng giới
thiệu và bán sản phẩm trên đất Mỹ. Trải qua nhiều năm xuất khẩu vào thị trường Mỹ,
Công ty đã có những kiến thức, kinh nghiệm về thị trường Mỹ, hiểu biết luật pháp, lối
sống của người Mỹ. Đó là thuận lợi rất lớn khi tiến hành xuất khẩu vào Mỹ.
Thứ ba, chính sách khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước tạo cơ sở ổn
định cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động xuất khẩu của Công ty. Ngay từ khi
đường lối đổi mới đi vào cuộc sống, Đảng và Nhà nước đã khẳng định một trong ba
chương trình kinh tế cơ bản là xuât khẩu. Với ngành may mặc thì càng cần tập trung để
khuyến khích xuất khẩu vì nó giúp giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của xã hội như lao
động, việc lam, tăng nguồn thu ngoại tệ cho nền kinh tế, tăng nguồn thu cho Ngân sách.
Nhờ chính sách đúng đắn của Nhà nước, doanh thu xuât khẩu của ngành may mặc đã
tăng nhanh trong những năm gần đây, đưa sản phẩm may mặc lên vị trí thứ hai sau sản
phẩm dầu khí về doanh thu xuất khẩu. Với Công ty may Thăng Long, nắm bắt được xu
hướng thị trường và chính sách của Nhà nước, vào đầu những năm thập niên 90 khi
Công ty mất đi những thị trường lớn như Công hoà dân chủ Đức, Liên Xô, Đông Âu,
Mông Cổ… Công ty đã phát triển thị trường sang thế giới tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là
thị trường Mỹ.
2.2 Khó khăn
Thứ nhất, thị trường Mỹ là thị trường hạn ngạch, do đó hoạt động xuất khẩu
sang thị trường Mỹ bị hạn chế bởi hạn ngạch Chính phủ cấp. Đó là khó khăn rất lớn đối
với Công ty. Việc cấp quota của Chính phủ thường căn cứ vào khả năng sản xuất của
doanh nghiệp cũng như khả năng ký kết hợp đồng. Mỹ bắt đầu áp dụng hạn ngạch với
ngành dệt may Việt Nam năm 2003 là 1,7 tỷ USD.
Thứ hai, trên thị trường Mỹ Công ty phải cạnh tranh gay gắt với nhiều đối thủ có
truyền thống, danh tiếng như Anh, Nhật, các nước công nghiệp mới. Mới đây Trung
Quốc nổi lên là một đối thủ nặng cân với nhiều ưu thế. Trung Quốc nay đã là thành viên
của WTO nên đương nhiên sẽ được hưởng những ưu đãi hơn Việt Nam, bên cạnh đó
Trung Quốc cũng có lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, giá thành sản phẩm
thấp.

Thứ ba, Công ty còn gặp nhiều khó khăn trong công tác thiết kế mẫu mã sản
phẩm, nghiên cứu thị trường, hình thành ý tưởng sản phẩm. Đây là khó khăn cũng rất
lớn. Chính vì khó khăn trong việc nghiên cứu thị trường, thiết kế mẫu mã mà trong suốt
quá trình hoạt động xuất khẩu vừa qua Công ty rất hiếm khi đưa ra sản phẩm mới.
Nói chung, việc xuất khẩu vào thị trường Mỹ có nhiều thuận lợi và khó khăn. Để
tăng doanh thu xuất khẩu đòi hỏi trong thời gian tới Công ty phải có những giải pháp
tận dụng những lợi thế, khắc phục khó khăn.
3. Tầm quan trọng và khả năng xuất khẩu vào thị trường Mỹ
Thị trường Mỹ là thị trường lớn nhất của Công ty may Thăng Long trong những
năm qua, chiếm đa số trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Trước kia khi hệ
thống bạn hàng chủ yếu của Công ty là các nước Đông Âu, CHDC Đức, Liên Xô,
Mông Cổ thì Mỹ gần như không có tên trong danh mục thị trường xuất khẩu. Nhưng
sau khi những thị trường rộng lớn không còn nữa vào đầu thập niên 90 của thế kỷ 20 thì
Công ty đã có bước chuyển biến đáng kể về thị trường, hướng sang thị trường các nước
tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là thị trường Mỹ. Mặc dù sản phẩm may mặc Việt Nam vẫn
chưa được hưởng những ưu đãi từ phía Mỹ, phải chịu thuế suất cao cũng như bị áp
dụng nhiều biện pháp hạn chế thương mại khác, nhưng sản phẩm của Công ty vẫn tìm
được nhiều khách hàng Mỹ đặt hàng. Cho đến nay, thị trường Mỹ đã chiếm tới trên
80% kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Đó là thành công rất lớn của Công ty trong việc
phát triển thị trường Mỹ.
Bảng 15: Tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Mỹ (trị giá FOB)
Năm
Tổng kim
ngạch xuât
khẩu (USD)
Kim ngạch
xuất sang
Mỹ (USD)
Tỷ
trọng

(%)
Năm
Tổng kim
ngạch xuât
khẩu (USD)
Kim ngạch
xuất sang
Mỹ
(USD)
Tỷ
trọng
(%)
1997
14.000.000 623.785 4,46
2001
37.000.000 26.234.569 70,90
1998
23.000.000 216.510 0,94
2002
39.600.000 19.011.369 48,01
1999
27.700.000 395.160 1,43
2003
43.632.047 40.000.000 91,68
2000
31.000.000 7.476.406 24,12
2004
67.226.949 60.216.209 89,57
Nguồn: Công ty may Thăng Long – Báo cáo xuất khẩu các năm 1997 – 2004
Qua bảng trên ta thấy kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ của Công ty năm

1997 chỉ là 623.785 USD, chiếm 4,46% tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty, đến
năm 2000 đã tăng lên 7.476.406 trong tổng số 31.000.000 USD chiếm 24,12%. Từ đó,
tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ trên tổng kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh (duy có
năm 2002 giảm so với năm 2001), cho đến năm 2004, đa số hàng xuất khẩu của Công
ty được xuất khẩu vào thị trường Mỹ, chiếm tới 89,57%. Công ty luôn xác định thị
trường Mỹ là thị trường quan trọng, cần tập trung mọi nguồn lực.
Thị trường Mỹ trong thời gian tới vẫn còn tiềm năng rất lớn. Tuy những con số
về tốc độ phát triển trong xuất khẩu sang thị trường Mỹ là cao, nhưng giá trị xuất khẩu
của ngành dệt may Việt Nam nói chung, của Công ty may Thăng Long nói riêng so với
tổng nhu cầu của thị trường vẫn còn quá nhỏ. Thêm vào đó, Việt Nam đang trong tiến
trình đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế WTO và khi là thanh viên của tổ
chức này thì Việt Nam sẽ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN), được hưởng thuế
suất thấp hơn rất nhiều so với hiện nay và theo Hiệp định ATC của WTO thì các nước
thành viên sẽ không phải chịu áp dụng hạn ngạch. Đó là những lợi thế rất lớn đối với
sản phẩm dệt may khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ trong tương lai. Khi những điều
kiện đó đạt được thì tiềm năng xuất khẩu vào thị trường Mỹ là vô cùng lớn. Theo số
liệu của Bộ thương mại, hàng dệt may của Việt Nam chỉ chiếm 3,2% trên thị trường
Mỹ, một thị trường rộng lớn tới hơn 60 tỷ USD riêng hàng nhập khẩu.
Trên khía cạnh năng lực sản xuất, gần đây Công ty đã đầu tư nhiều vào các công
trình kết cấu hạ tầng kĩ thuật nhằm mở rộng khả năng sản xuất, đáp ứng kịp thời hơn
các đơn hàng với số lượng lớn. Những dự án trọng điểm của Công ty về cơ bản đã đi
vào hoạt động và khai thác tốt như xí nghiệp may ở Hà Nam, xí nghiệp may ở Hoà Lạc,
công trình mở rộng Nam Hải. Công ty cũng đầu tư xây dựng hệ thống kho ngoại quan
phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu và kinh doanh kho ngoại. Nói chung, tiềm năng
xuất khẩu vào thị trường Mỹ là rất lớn.
4. Khả năng cạnh tranh
Thị trường Mỹ là thị trường rất hấp dẫn những nhà xuất khẩu, nên cạnh tranh
trên trên thị trường Mỹ cũng hết sức gay gắt. Do thương hiệu chưa đủ mạnh, không có
truyền thống sản xuất những mặt hàng cao cấp như veston, comple… nên trên thị
trường Mỹ công ty chủ yếu cạnh tranh bằng sản phẩm cấp thấp và cấp trung bình.

Những sản phẩm chất lượng cao hiện nay Công ty không thể cạnh tranh được với
những quốc gia có uy tín như Anh, Nhật, các nước công nghiệp mới (NICs). Trên thị
trường Mỹ nói chung, thị trường thế giới nói riêng, Trung Quốc cũng đang nổi lên trở
thành một đối thủ cạnh tranh có nhiều ưu thế. Hơn nữa, Trung Quốc đã là thành viên

×