Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

sự gắn bó chặt chẽ trong mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và Quốc hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.04 KB, 9 trang )

Hiến pháp
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, là người đứng đầu nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại, trong số
đại biểu Quốc hội theo sự giới thiệu của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Chủ
tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Điều này đã
cho thấy sự gắn bó chặt chẽ trong mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và Quốc
hội.
II. QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Vị trí và sự hình thành của Quốc hội và Chủ tịch nước
Trong bộ máy nhà nước ta, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng.
Theo Hiến pháp năm 1992, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân (Điều 2). Nhưng dân không thể
trực tiếp, thường xuyên sử dụng quyền lực nhà nước cho nên phải bầu ra các
cơ quan đại biểu để thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước. Vì vậy,
các cơ quan này gọi là cơ quan quyền lực nhà nước. Ở nước ta, các cơ quan
này bao gồm Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Điều 83 - Hiến pháp
1992 đã nêu rõ vị trí và tính chất của Quốc hội: “Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về
đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất
nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà
nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”. Với vị trí,
tính chất như trên, Quốc hội mang chủ quyền Nhà nước và chủ quyền nhân
dân. Mọi quyền lực nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội. Mọi công
Nhóm K35/25B2
Hiến pháp
việc quan trọng của đất nước và của nhân dân có ý nghĩa toàn quốc đều do


Quốc hội quyết định. Theo Hiến pháp của nước ta thì Quốc hội có nhiệm kì
là 5 năm. Như vậy cứ 5 năm một lần, chúng ta lại tiến hành bầu cử Quốc
hội. Điều 1 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội quy định: “Việc bầu cử đại biểu
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tiến hành theo
nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”.
Trong hệ thống bộ máy nhà nước của các nước hiện đại hầu như đều có
một thiết chế đặc biệt với những tên gọi như: vua, hoàng đế, tổng thống,
đoàn chủ tịch, hội đồng liên bang, hội đồng nhà nước, chủ tịch nước. Những
cơ cấu này có vị trí khác nhau trong bộ máy nhà nước của từng nước, cùng
được gọi chung là nguyên thủ quốc gia. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn
tại dưới hình thức Chủ tịch nước. Theo điều 101 – Hiến pháp 1992: “Chủ
tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”.Sự hiện diện trở lại thiết chế Chủ
tịch nước cá nhân trong Hiến pháp 1992 đã góp phần tăng cường tính phân
công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực
nhà nước trong thời kì đổi mới. Điều 102 – Hiến pháp 1992 quy định: “Chủ
tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội”, theo sự giới thiệu
của Ủy ban thường vụ Quốc hội với nhiệm kì như nhiệm kì của Quốc hội.
Khi Quốc hội hết nhiệm kì chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi
Quốc hội khóa mới bầu chủ tịch nước.
Vị trí và sự hình thành của Quốc hội và Chủ tịch nước như đã đề cập ở
trên là cơ sở thiết lập quyền chi phối của Quốc hội đối với thiết chế Chủ tịch
nước, bảo đảm tính thống nhất và trật tự quyền lực của mối quan hệ giữa
Chủ tịch nước và Quốc hội, theo đó quyền lực của nguyên thủ quốc gia là
một tổng thể của một nhà nước thống nhất, trong đó quyền lực nhà nước cao
Nhóm K35/25B2
Hiến pháp
nhất thuộc về Quốc hội – cơ quan đại biểu cao nhất cho ý chí của nhân dân.
Điều này sẽ được phân tích và làm rõ ở phần sau.
2. Sự tác động của Quốc hội với chủ tịch nước

Xuất phát từ nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc Hội trong 4 lĩnh vực (chủ
yếu), ta sẽ thấy rõ sự tác động của Quốc Hội với Chủ tịch nước, cũng trong
4 lĩnh vực này.
Trong lĩnh vực lập hiến và lập pháp: Ở nước ta quyền lập hiến cũng như
quyền lập pháp đều thuộc về Quốc Hội, Quốc Hội có quyền làm luật thì
cũng có quyền sửa đổi Luật. Ở đây ta có thể thấy được mối quan hệ giữa
Quốc hội với chủ tịch nước, đó là: khi Chủ tịch nước được giao nhiệm vụ
sáng kiến Luật thì phải xây dựng, trình các dự án luật ra trước Quốc Hội để
Quốc Hội xem xét. Bên cạnh đó, khoản 9 Điều 84 Hiến pháp hiện hành quy
định Quốc Hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước trái với Hiến
pháp, luật và nghị quyết của Quốc Hội. Điều này cũng được cụ thể hơn tại
Điều 14, khoản 2 Luật giám sát của Quốc Hội: “Quốc Hội có quyền bãi bỏ
một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước trái
với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc Hội”. Như vậy có thể thấy được
mối quan hệ giữa Quốc Hội với Chủ tich nước, Chủ tịch nước do Quốc Hội
bầu và có quyền giám sát tối cao, xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước.
Trong lĩnh vực quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước: Quốc
Hội có quyền quyết định những mục tiêu phát triển trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội, những vấn đề về quốc phòng và an ninh. Khoản 7 Điều 84
Hiến pháp và được quy định trong khoản 7 Điều 2 Luật tổ chức Quốc hội:
Quốc Hội có quyền phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành
viên của Hội đồng Quốc phòng và an ninh. Đặc biệt Quốc Hội còn có nhiệm
vụ và quyền hạn quan trọng là quyết định những chính sách cơ bản về đối
ngoại: phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước Quốc tế do Chủ tịch nước trực
Nhóm K35/25B2
Hiến pháp
tiếp kí; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước Quốc Tế khác đã được kí kết
hoặc ra nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước (Khoản 3, Điều 84 Hiến pháp).
Như vậy với vị trí là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, quốc Hội có
quyền quyết định những vấn đề quan trọng liên quan đến nhiều lĩnh vực kể

cả đối nội và đối ngoại. Chính sách của chủ tịch nước, hay những điều ước
mà Chủ tịch nước kí kết có được thông qua hay không còn phụ thuộc vào sự
xem xét, phê chuẩn và quyết định của Quốc Hội. Mối quan hệ giữa quốc Hội
và Chủ tịch nước rất gắn bó, Quốc Hội thực hiện quyền giám sát mọi hoạt
động, cũng như những quyết định quan trọng của Chủ tịch nước liên quan
đến đất nước.
Trong lĩnh vực tổ chức nhà nước, Khoản 6 Điều 84 Hiến pháp: Quốc
Hội quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước. Ngoài ra Quốc Hội có
quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước ( Khoản 7 Điều 84 Hiến
pháp). Nó cũng được cụ thể hơn trong Luật tổ chức Quốc Hội (Điều 81):
Quốc Hội bầu chủ tịch nược trong số đại biểu Quốc Hội do Ủy Ban Thường
vụ Quốc Hội giới thiệu. Không chỉ thế, theo đề nghị của Chủ tịch nước,
Quốc Hội bầu phó chủ tịch nước trong số đại biểu Quốc Hội. Quốc Hội bầu
thủ tướng chính phủ trong số các đại biểu Quốc Hội được chủ tịch nước giới
thiệu (Điều 84). Quốc Hội bầu chánh án Tòa án Nhân Dân tối cao và Viện
trưởng Viện kiểm sát Nhân Dân tối cao trong số các đại biểu Quốc Hội do
Chủ tịch nước giới thiệu ( Điều 85). Một số cơ quan, chức vụ quan trọng cấp
trung ương, Chủ tịch nước có quyền giới thiệu cho Quốc Hội.
Trong lĩnh vực giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước, giám
sát việc tuân theo Hiến pháp và Luật. Theo Luật Hội đồng giám sát của
Quốc Hội, Điều 7: Quốc Hội thực hiện quyền giám sát của mình thông qua
các hoạt động sau: Xem xét báo cáo công tác của chủ tịch nước; xem xét văn
bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước; xem xét việc trả lời chất vấn của
Nhóm K35/25B2
Hiến pháp
Chủ tịch nước. Đặc biệt, để có thể thực hiện tốt chức năng của mình, quốc
Hội có các hoạt động chất vấn tại các kì họp của Quốc Hội. Điều 98 Hiến
pháp quy định: Đại biểu Quốc Hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước. Ngoài
ra, để đem lại hiệu quả thiết thực trong hoạt động này, Hiến pháp có quy
định trách nhiệm của Chủ tịch nước: Chủ tich nước báo cáo công tác và chịu

trách nhiệm trước Quốc hội ( Điều 102). Đồng thời Quốc Hội giám sát hoạt
động của Chủ tịch nước ( Điều 3 khoản 1), tức là mọi hoạt động của Chủ
tịch nước cũng như những quyết định của chủ tịch nước như đã nói ở trên
đều chịu sự giám sát của Quốc Hội.
Như vậy, với vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình trong bộ
máy nhà nước, Quốc Hội đã có những tác động quan trọng đến vai trò, vị trí,
chức năng cũng như nhiệm vụ của Chủ tịch nước (hay nói cách khác đó là
mối quan hệ chặt chẽ, quan trọng giữa Quốc hội và Chủ tịch nước). Và Điều
này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bộ máy nhà nước ta hoạt động
có hiệu quả hay không.
2. Sự tác độn gcủa Chủ tịch nước với quốc hội
Theo pháp luật hiện quy định thì Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà
nước thay mặt nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối
ngoại. Việc Chủ tịch nước thực hiện quyền và nghĩa vụ có mối quan hệ chặt
chẽ qua lại với quốc hội điều đó được thể hiện rõ ở một số khía cạnh sau.
Trước tiên ta có thể thấy rằng Chủ tịch nước có quyền trình dự án luật
ra trước Quốc hội kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật
mới hoặc sửa đổi bổ sung luật hiện hành. Điều đó được quy định rõ tại điều
62 luật tổ chức Quốc hội. Khi xét thấy cần thiết phải bổ sung sửa đổi luật
hiện hành hoặc ban hành các điều luật mới thì Chủ tịch nước sẽ trình Quốc
hội để Quốc hội xem xét. Đồng thời sau khi Quốc hội đã soạn thảo xong thì
chủ tịch nước có nghĩa vụ và quyền công bố hiến pháp, luật, pháp lệnh. Việc
Nhóm K35/25B2

×