Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.2 KB, 71 trang )

LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành là kết quả của sự nỗ lực và cố gắng của bản thân
tác giả; sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của người hướng dẫn nghiên cứu khoa học;
của các cán bộ, Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội và các nhà khoa học khác;
sự tạo điều kiện học tập, nghiên cứu của ngành Kiểm sát nhân dân nói chung, của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ nói riêng. Tác giả chân thành cảm ơn những cơ
quan, tổ chức, cá nhân đã giúp đỡ tác giả hoàn thành Luận văn này. Tác giả tiếp tục
nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn nữa về đề tài.
Tác giả
Nguyễn Huy Khánh
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những cơ quan có thẩm quyền quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát
là cơ quan có vai trò rất quan trọng, đảm bảo việc khởi tố bị can được đúng người,
đúng tội và đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội. Viện kiểm sát không chỉ là cơ quan có quyền trực tiếp quyết định khởi
tố bị can mà còn có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc khởi tố bị can của cơ quan có
thẩm quyền khác. Vì vậy, vai trò của Viện kiểm sát có ảnh hưởng quyết định đến
hiệu quả của việc quyết định khởi tố bị can.
Qua thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự thời gian gần đây cho thấy, mặc
dù pháp luật tố tụng hình sự đã có những qui định khá đầy đủ về quyết định khởi tố bị
can, song trong quá trình thực hiện các qui định của luật vẫn còn một số bất cập, đặc
biệt là những quy định liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng
những qui định này. Về nguyên tắc, mọi tội phạm và người thực hiện hành vi bị coi là
tội phạm đều phải bị xử lí về hình sự. Nhưng việc xử lí làm sao để đảm bảo đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh việc oan, sai là điều hết sức cần thiết. Hiến
pháp năm 1992 của chúng ta qui định về quyền cơ bản của công dân, Điều 4 Bộ luật
Tố tụng hình sự 2003 đã qui định về tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công
dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các
vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, Viện kiểm sát nói riêng vẫn
còn để xảy ra tình trạng oan, sai. Việc oan, sai này xảy ra ở những giai đoạn khác


nhau và trong những biện pháp tố tụng khác nhau, có thể từ khi bắt đầu các thủ tục tố
tụng như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đến
giai đoạn truy tố, xét xử. Chính vì vậy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhận
định trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm
của công tác tư pháp trong thời gian tới, đã nhận định về chất lượng công tác tư pháp:
“… nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường
hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của
2
công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và cơ quan tư
pháp”. Những tồn tại và hạn chế này xuất phát từ nhiều những nguyên nhân khác
nhau, từ nguyên nhân chủ quan đến nguyên nhân khách quan. Đồng thời, Nghị quyết
cũng đã xác định một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới,
trong đó xác định: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được
thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo
không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lí kịp thời
những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm
vụ.”
Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/6/2005, Ban Chấp
hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020, Nghị quyết đã có những vấn đề liên quan đến trách nhiệm và vai
trò của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, đó là “… Nghiên cứu việc chuyển Viện
kiểm sát thành Viện Công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động
điều tra”.
Theo đó, Viện kiểm sát tập trung vào chức năng công tố, tăng cường hơn nữa
vai trò đối với hoạt động điều tra, trong đó có hoạt động phê chuẩn quyết định khởi
tố bị can và kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với việc khởi tố bị can của Cơ quan
điều tra.
Trước thực trạng đó, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ
về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can, không chỉ dựa trên cơ sở

những quy định của pháp luật tố tụng hình sự mà phải kết hợp với đánh giá thực tiễn
hoạt động khởi tố bị can của Viện kiểm sát trong những năm gần đây, nhất là từ khi
thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, từ đó tìm ra những tồn tại, nguyên nhân
và đề xuất các giải pháp khắc phục, góp phần nâng cao hơn nữa vai trò của Viện
kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. Đây là lý do tác giả chọn “Vai trò của Viện
kiểm sát đối với việc khởi tố bị can” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3
Từ trước đến nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu thể hiện dưới dạng các
bài viết đăng trên các tạp chí về chức năng của Viện kiểm sát, về khởi tố bị can. Có
thể nêu ra một số bài viết như: Một số vấn đề lí luận, thực tiễn về khởi tố bị can (Tạp
chí toà án- Toà án nhân dân tối cao, số 7/2006, tr.22-24); Áp dụng các qui định của
Bộ luật Tố tụng hình sự về việc quyết định khởi tố bị can, thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can (Tạp chí Kiểm sát- Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, số 02/2007, tr.22-26, 46) của Tiến sĩ Trần Quang Tiệp; Từ thực tiễn
một năm thực hiện qui định tại Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về việc
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can (Tạp chí Kiểm sát- Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao, số 4/2006, tr. 44-47) của Hương Nhung; Một số vấn đề lí luận và thực tiễn của
việc khởi tố vụ án hình sự và việc kiểm sát việc khởi tố vụ án (Tạp chí Kiểm sát- Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao, số 02/2007, tr. 6-11) của Tiến sĩ Phạm Mạnh Hùng; Một
số vấn đề về khởi tố bị can và phê chuẩn quyết định khởi tố bị can (Tạp chí Kiểm sát-
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, số 02/2007, tr. 18-21) của Tiến sĩ Đỗ Văn Đương;
Cần sửa đổi, bổ sung một số qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự về khởi tố bị can,
thay đổi, bổ sung quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can (Tạp chí Kiểm sát-
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 23/2008, tr.13-17) của Nguyễn Tiến Sơn; Bàn về
thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc quyết định khởi tố bị can (Tạp chí kiểm sát-
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số Tân Xuân (02)/2009, tr. 35-38) của Nguyễn Ngọc
Khánh...
Ngoài ra, khởi tố bị can còn được thể hiện dưới hình thức là một số mục nhỏ
trong các công trình nghiên cứu như: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội (2005), tr 62, của Tập
thể tác giả: Tiến sĩ Lê Hữu Thể (Chủ biên), Tiến sĩ Đỗ Văn Đương, Nông Xuân
Trường; Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà
nước và Pháp luật, Hà Nội (2002), tr47-48, của Lê Thị Tuyết Hoa.
Những bài viết, công trình nghiên cứu nêu trên chỉ đề cập đến khởi tố bị can
với tư cách là một hoạt động trong tổng thể các hoạt động tố tụng hình sự hoặc
nghiên cứu với tư cách đó là một phương diện (mặt) hoạt động chủ yếu để làm sáng
4
tỏ chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự mà chưa có công trình nghiên
cứu nào nghiên cứu vấn đề này trong và trên cơ sở mối liên hệ với vai trò của Viện
kiểm sát.
Xuất phát từ tình hình nghiên cứu như trên cho thấy, cần phải có sự nghiên cứu
việc khởi tố bị can một cách độc lập, phân tích việc áp dụng qui định này trong mối
liên hệ với vai trò của Viện kiểm sát, đánh giá việc thực hiện ở những góc độ khác
nhau để phát huy những ưu điểm và khắc phục những hạn chế trong thực tiễn áp
dụng.
3. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lí luận, qui định của pháp luật tố tụng
hình sự, kết hợp với đánh giá thực tiễn áp dụng qui định về khởi tố bị can trong thời
gian gần đây, Luận văn nhằm mục đích làm sáng tỏ các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về khởi tố bị can, đặc biệt là các qui định về nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. Ngoài ra, tác giả còn phân tích những
nguyên nhân hạn chế vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng qui định về khởi tố
bị can, từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự, đặc biệt là các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 về khởi tố bị can và một số giải pháp khắc phục các nguyên nhân chủ quan,
khách quan khác ảnh hưởng đến thực tiễn áp dụng qui định về khởi tố bị can, góp
phần nâng cao hơn nữa vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng qui định này.
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu và phù hợp với phạm vi nghiên cứu
của Luận văn, tác giả đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận về khởi tố bị can: khái niệm, mục đích, ý
nghĩa của việc khởi tố bị can; Nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành, thể hiện vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can.
- Đánh giá thực tiễn hoạt động kiểm sát việc khởi tố bị can trong 6 năm trở lại
đây (từ năm 2005 đến 2010), tìm ra những nguyên nhân hạn chế vai trò của Viện
kiểm sát đối với việc khởi tố bị can.
5
- Trên cơ sở những nguyên nhân đó, tác giả đề xuất một số giải pháp góp phần
hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, khắc phục những hạn chế
trong thực tiễn áp dụng, nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc khởi tố bị can nói
chung, vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là một số vấn đề về lí luận, các qui định
của pháp luật và thực tiễn thực hiện các qui định của pháp luật về vai trò của Viện
kiểm sát đối với việc khởi tố bị can.
Do thời gian và khuôn khổ có hạn, Luận văn chỉ tập trung vào việc nghiên cứu
vấn đề:
- Vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can theo qui định của pháp
luật Tố tụng hình sự Việt Nam (theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và một số văn bản có liên quan).
- Những hạn chế trong việc thực hiện những qui định của pháp luật về vai trò
của Viện kiểm sát nói chung (gồm cả Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân
sự) đối với việc khởi tố bị can.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời
sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: Thống kê, phân tích, so sánh, tổng
hợp, dựa trên các quy phạm pháp luật hiện hành, các tài liệu, sách báo liên quan, các
bài viết của các tác giả đã nghiên cứu trước đó, kết hợp với đánh giá thực tiễn áp
dụng để hoàn thành Luận văn này một cách có chất lượng.

6. Đóng góp mới của Luận văn
- Điểm mới của Luận văn là làm rõ một số vấn đề lí luận và thực tiễn của việc
khởi tố bị can, nghiên cứu khởi tố bị can một cách độc lập với nghĩa là một việc mà
không phải là một hoạt động, đặc biệt chú trọng đến những quy định về vai trò của
Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. Đây là một hướng nghiên cứu hoàn toàn
mới, Tác giả hy vọng bằng việc đánh giá những quy định của pháp luật Tố tụng hình
6
sự về khởi tố bị can, xoay quanh vai trò của Viện kiểm sát, sẽ tạo ra được một cách
nhìn mới về vấn đề này.
- Phát hiện được một số vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật
Tố tụng hình sự về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can.
- Đề xuất sửa đổi, bổ sung một số qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003, một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của Viện kiểm sát đối với
việc khởi tố bị can.
7. Ý nghĩa của Luận văn
Đây là công trình nghiên cứu về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố
bị can, góp phần làm giàu thêm kiến thức trong pháp luật Tố tụng hình sự, góp phần
trong đấu tranh, phòng, chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng
dạy, nghiên cứu trong các trường đào tạo về pháp luật và cũng là tài liệu để những
người tiến hành tố tụng trong Tố tụng hình sự vận dụng vào thực tiễn công tác.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung chính của Luận văn bao
gồm 03 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lí luận về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố
bị can.
- Chương 2: Qui định của pháp luật và thực trạng hoạt động của Viện kiểm
sát đối với việc khởi tố bị can.
- Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao vai trò của Viện

kiểm sát đối với việc khởi tố bị can.
7
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
ĐỐI VỚI VIỆC KHỞI TỐ BỊ CAN
1.1. Đấu tranh, phòng, chống tội phạm và vai trò của Viện kiểm sát đối
với việc khởi tố bị can
1.1.1. Đấu tranh, phòng, chống tội phạm
Đấu tranh, phòng, chống tội phạm là hoạt động của tất cả các cơ quan Nhà
nước, các tổ chức xã hội và của mọi công dân, áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện
pháp khác nhau nhằm thủ tiêu và loại bỏ những hành vi nguy hiểm cho xã hội ở mức
độ đáng kể bị coi là tội phạm, hướng tới thủ tiêu những nguyên nhân và điều kiện
phạm tội, cũng như những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình hình thành tội
phạm, hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm khỏi đời sống xã hội.
Để thực hiện nhiệm vụ duy trì và bảo vệ chế độ, trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích
hợp pháp của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, nhằm mục
đích chính là “vì dân”, tất cả vì cuộc sống bình yên của nhân dân, Nhà nước dùng
nhiều biện pháp vừa có tính thuyết phục, giáo dục, vừa có tính cưỡng chế, trong đó
có biện pháp mạnh mẽ và nghiêm khắc nhất, đó là biện pháp hình sự. Biện pháp hình
sự áp dụng với những vi phạm mang tính nguy hiểm cao đối với xã hội- tội phạm.
Đấu tranh, phòng, chống tội phạm là trách nhiệm và nghĩa vụ của nhiều chủ thể.
Theo qui định của pháp luật thì chủ thể phòng, chống tội phạm bao gồm tất cả các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Điều 12 Hiến pháp 1992 đã qui định:
“Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và
mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng
ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.”
Từ đó có thể thấy, đấu tranh, phòng, chống tội phạm có ý nghĩa sau:
- Thứ nhất, là hoạt động để thực hiện đúng và nghiêm chỉnh các Nghị quyết
của Đảng cũng như các văn bản của Nhà nước trên thực tế, góp phần bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, vì sự bình yên của xã hội.

8
Bên cạnh đó là để phục vụ việc nghiên cứu khoa học, triển khai các kết quả nghiên
cứu vào trong thực tế trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm.
- Thứ hai, đấu tranh, phòng, chống tội phạm có vai trò không những hướng
vào trực tiếp thủ tiêu tội phạm mà còn thủ tiêu các nguyên nhân làm phát sinh tội
phạm cũng như những hiện tượng, tác nhân tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình hình
thành phẩm chất cá nhân của con người.
- Ba là, đấu tranh, phòng, chống tội phạm góp phần quan trọng trong việc bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và trật tự pháp luật, qua đó góp phần xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Về nguyên tắc, mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lí theo pháp luật. Mọi hành vi
phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lí kịp thời, không để lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tội.
1.1.2. Vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can
Vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự nói chung, trong hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra nói
riêng được thể hiện cụ thể và khá đầy đủ qua các qui định của pháp luật về vị trí,
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống cơ quan này. Để làm rõ được vai trò
của Viện kiểm sát trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
khởi tố bị can, trước hết cần phải tìm hiểu các qui định của pháp luật về vị trí, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát theo qui định của pháp luật.
1.1.2.1. Vị trí, chức năng của Viện kiểm sát
Theo Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi) và Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2002, Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp. Trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành
tố tụng, Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng
(Điều 33 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003). Viện kiểm sát thực hành quyền công tố
trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà án. Viện
kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát

9
hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự
qui định để loại trừ các vi phạm pháp luật của những cơ quan và cá nhân này. Viện
kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lí kịp thời, việc khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
để lọt tội phạm và người phạm tội, làm oan người vô tội (Điều 23 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003).
Ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình
sự của Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà án (Điều 12
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003). Qua các qui định của pháp luật cho thấy, Viện kiểm sát giữ vai trò chủ
đạo, quyết định trong các hoạt động tố tụng ở giai đoạn điều tra. Viện kiểm sát có
quyền nhưng đồng thời có trách nhiệm bằng các biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình
sự qui định nhằm bảo đảm cho việc điều tra, truy tố được kịp thời, nhanh chóng, hiệu
quả, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm
cho hoạt động điều tra được tiến hành đúng qui định của pháp luật. Trong quá trình
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra, Viện
kiểm sát luôn giữ vai trò chủ động, tích cực trong việc phối hợp với Cơ quan điều tra.
Trong những năm gần đây, trước tình hình tội phạm ngày càng có chiều
hướng gia tăng, diễn biến và tính chất phức tạp, đòi hỏi công tác tư pháp phải có
những chuyển biến tích cực, đáp ứng kịp thời các yêu cầu của cuộc đấu tranh, phòng,
chống tội phạm. Riêng với Viện kiểm sát, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị nêu rõ “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công
tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm
đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lí

10
kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành
nhiệm vụ.” Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được Quốc hội thông qua
ngày 18/6/2009 cũng qui định trách nhiệm bồi thường khá nặng nề đối với Viện kiểm
sát khi người bị khởi tố, truy tố oan, sai.
1.1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can
Theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, khi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn:
Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi
quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; … quyết định phê chuẩn, quyết định
không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra; Huỷ bỏ các quyết định không
có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra;… Quyết định việc truy tố bị can;
quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án (Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003).
Khi tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều
tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát
các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng, áp dụng các biện pháp mà Bộ luật Tố
tụng hình sự qui định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của các cơ quan hoặc cá nhân
này; Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều
tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của
Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên
đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra (Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003).
Như vậy, chỉ qua các Điều 112 và Điều 113 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 đã cho thấy, trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, Viện
kiểm sát giữ vai trò chính, vai trò chủ đạo. Mặc dù, Cơ quan điều tra trực tiếp tiến
hành các hoạt động điều tra là chủ yếu (trừ những trường hợp cần thiết mà Viện kiểm
sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra) nhưng xét về tổng thể và đến cùng,
11

Viện kiểm sát chính là cơ quan có vai trò chủ đạo và quyết định, chịu trách nhiệm về
toàn bộ quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra.
Vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra còn được thể hiện một cách cụ thể hơn
qua các qui định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện
trưởng và Kiểm sát viên với tư cách là những người tiến hành tố tụng. Với tư cách là
người đứng đầu, có chức danh pháp lí (Kiểm sát viên) và có chức vụ quản lí (Viện
trưởng), Viện trưởng (khi trực tiếp thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối
với các vụ án hình sự) có quyền và trách nhiệm khá lớn và quan trọng, quyết định
những vấn đề quan trọng nhất đối với việc giải quyết vụ án. Điều 36 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 qui định rõ những nhiệm vụ, quyền hạn đó là: Quyết định khởi tố
vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan
điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo
quy định của Bộ luật này; Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn
chặn; quyết định gia hạn điều tra, quyết định gia hạn tạm giam; yêu cầu Cơ quan điều
tra truy nã bị can; Quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định
của Cơ quan điều tra; Quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp
luật của Cơ quan điều tra; Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, quyết định
phục hồi điều tra, quyết định xử lý vật chứng.
Với tính chất là một trong những hoạt động tố tụng hình sự, khởi tố bị can
không chỉ đơn thuần là sự buộc tội có tính chất "sơ bộ" từ phía cơ quan có thẩm
quyền đối với một người khi có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành vi
phạm tội, mà còn là cơ sở pháp lí để mở rộng việc áp dụng các biện pháp điều tra đối
với người đó.
Như đã phân tích và khẳng định vai trò quan trọng của Viện kiểm sát trong
giai đoạn điều tra ở những nội dung trên, khởi tố bị can là một trong những hoạt động
tố tụng hình sự ở giai đoạn điều tra nên nó cũng là đối tượng chịu tác động của Viện
kiểm sát trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Cũng vì công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các
12

vụ án hình sự bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm xảy ra đến khi kết thúc
điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ án theo qui định của
pháp luật nên khởi tố bị can cũng thuộc phạm vi của công tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự. Do đó,
khởi tố bị can cũng bao gồm hai nội dung thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc khởi tố bị can.
Vậy, trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc khởi tố bị can, lúc nào Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và khi
nào là kiểm sát việc tuân theo pháp luật?
Trong khởi tố bị can, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố khi Viện kiểm
sát khởi tố bị can và khi phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra và
một số cơ quan khác có thẩm quyền (sẽ làm rõ ở nội dung sau). Việc Viện kiểm sát
khởi tố bị can, mặc dù trong trường hợp nhất định là: “Sau khi nhận hồ sơ và kết luận
điều tra mà Viện kiểm sát phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội
trong vụ án chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố bị can…” (khoản
5 Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003) thể hiện quyền năng độc lập của Viện
kiểm sát trong việc khởi tố bị can. Nói như vậy vì, đối với Cơ quan điều tra, trong
thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải gửi
quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can đó cho Viện kiểm sát
cùng cấp để xét phê chuẩn việc khởi tố (khoản 4 Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003). Việc khởi tố bị can của Cơ quan điều tra còn phải cần đến một hoạt động
nữa đó là “phê chuẩn” của Viện kiểm sát để khi đó quyết định khởi tố bị can phát huy
hiệu lực đầy đủ.
Vẫn trong việc khởi tố bị can, Viện kiểm sát còn thực hành quyền công tố khi
mà Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị
can trong trường hợp nếu có căn cứ xác định còn có người khác thực hiện hành vi
phạm tội chưa bị khởi tố.
13
Một hoạt động nữa thể hiện chức năng thực hành quyền công tố của Viện

kiểm sát trong việc khởi tố bị can đó là hoạt động trực tiếp tiến hành một số hoạt
động điều tra như: hỏi cung bị can, lấy lời khai của người làm chứng… để làm căn cứ
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can. Khi đó, Viện kiểm sát trực tiếp tham gia với quyền năng độc lập được
Bộ luật Tố tụng hình sự qui định để củng cố căn cứ phê chuẩn quyết định khởi tố bị
can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can..
Trong khởi tố bị can, Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật khi Viện
kiểm sát thực hiện quyền nhằm phát hiện vi phạm pháp luật của Cơ quan điều tra và
một số cơ quan khác có quyền khởi tố bị can. Những quyền này đảm bảo cho Viện
kiểm sát nắm được vi phạm, xác định nguyên nhân và điều kiện dẫn đến vi phạm,
trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp để khắc phục vi phạm nhằm đảm bảo cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh. Các quyền yêu cầu, kiến nghị khắc phục, xử lí vi
phạm của các chủ thể đó cũng chính là nội dung thuộc về chức năng của Viện kiểm
sát trong việc khởi tố bị can. Qui định này nhằm đảm bảo cho việc khởi tố bị can nói
riêng, cho cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nói chung.
Tuy nhiên, làm thế nào để chúng ta phân biệt được hai nội dung này trong
thực tiễn, lại chỉ trong một hoạt động tố tụng cụ thể là khởi tố bị can là một vấn đề.
Theo qui định của Hiến pháp 1992, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002,
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, ở giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có hai chức
năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong quá trình
điều tra. Thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng của ngành Kiểm sát cho thấy, trên
cơ sở các qui định của pháp luật, Viện kiểm sát các cấp luôn luôn quán triệt quan
điểm đấu tranh, phòng, chống tội phạm gắn liền với đấu tranh, phòng, chống vi phạm
pháp luật trong hoạt động tư pháp hình sự, nhằm bảo đảm những hành vi phạm tội đã
được phát hiện đều phải được điều tra và xử lí theo qui định của pháp luật, bảo đảm
cho cuộc đấu tranh, phòng, chống tội phạm của các cơ quan tư pháp tuân thủ đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
14
Từ đó, có thể nói rằng, thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong một hoạt động cụ thể (như khởi tố bị can) là hai chức năng độc lập

nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, thực hành quyền công tố có thể là tiền đề để
kiểm sát việc tuân theo pháp luật và ngược lại. Khi xem xét để phê chuẩn hoặc không
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can thì có nghĩa là Viện kiểm sát đã trực tiếp thực hành quyền công tố. Khi
Viện kiểm sát trực tiếp kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của quyết định khởi tố
bị can của các cơ quan có thẩm quyền khởi tố bị can theo qui định của Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 thì có nghĩa là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
khởi tố bị can.
1.2. Khái niệm, hình thức, nội dung, mục đích và ý nghĩa của việc khởi
tố bị can đối với hoạt động điều tra, truy tố
1.2.1. Khái niệm khởi tố bị can
Để hiểu được khái niệm khởi tố bị can, trước hết cần hiểu được khái niệm bị
can là gì? Về ngôn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, năm
2005, Nhà xuất bản Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, trang 61, thì: “bị can là người
phạm tội hay tình nghi phạm tội, đã bị khởi tố về hình sự.” Theo Từ điển Bách khoa
Việt Nam, khởi tố bị can là hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra quyết định khởi tố
một người khi có đủ căn cứ để xác định người đó phạm tội [1, tr. 532]. Sách Thuật
ngữ pháp lí dùng trong hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân giải thích, khởi
tố bị can là hành động tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra tiến hành đối với một
người khi đã có đủ căn cứ xác định người đó thực hiện hành vi phạm tội [2, tr.167].
Còn theo Từ điển Luật học, khởi tố bị can là khi đã có đủ căn cứ để xác định một
người nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố
đối với người đó [3, tr.253]
Về qui định của pháp luật, theo qui định tại khoản 1 Điều 49 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003, thì: “Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự.”
Dù là hiểu khái niệm bị can theo góc độ nào đi chăng nữa thì đó cũng là một
phạm trù dùng để chỉ một con người cụ thể mà người đó đã thực hiện hoặc là bị nghi
15
ngờ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể bị coi là tội phạm
được qui định trong Bộ luật Hình sự. Người này đã bị Nhà nước (thông qua các Cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền) chính thức công khai, tuyên bố về mặt pháp luật
trước toàn thể xã hội là họ đã hoặc bị nghi ngờ thực hiện hành vi phạm tội đó và Nhà
nước chính thức thực hiện các hoạt động để làm rõ người đó có phải là người thực
hiện tội phạm hay không, đồng thời truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó.
Vì vậy, khởi tố bị can cũng là khái niệm cần được làm rõ, bởi lẽ khái niệm bị
can đã có nội hàm của khái niệm đó là người bị khởi tố về hình sự. Vậy, khởi tố bị
can có phải là khởi tố người bị khởi tố về hình sự không?
Là một trong những biện pháp phát động quyền công tố, mở đầu cho các hoạt
động tố tụng khác để làm rõ tội phạm xảy ra, vạch trần người có lỗi khi thực hiện
hành vi phạm tội, khởi tố bị can, có ý kiến cho rằng, “là việc cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền chính thức tuyên bố về mặt pháp lí một người nào đó có dấu hiệu phạm
tội và đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự” [4, tr 62]. Ý kiến khác cũng cho rằng, là
việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tuyên bố về mặt pháp lí một người nào đó
phạm tội và bị truy cứu trách nhiệm hình sự. [5, tr47-48]
Các khái niệm trên đều cho rằng: khởi tố bị can là việc cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền thực hiện hành vi tố tụng là tuyên bố về mặt pháp lí một người nào đó có
dấu hiệu phạm tội hoặc phạm tội và phải chịu hậu quả đó là bị truy cứu trách nhiệm
hình sự. Tuy nhiên ở ý kiến thứ hai, tác giả đã đưa ra quan điểm đó là “tuyên bố về
mặt pháp lí một người nào đó đã phạm tội...”. Trong khi luật Tố tụng hình sự qui
định: “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật” (Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003). Cần phải hiểu rằng, bị can
mới chỉ là dạng nghi ngờ (hoặc là đã) thực hiện hành vi phạm tội nhưng mới chỉ là
bước đầu đưa họ vào diện cần phải điều tra để làm rõ. “Ai là người thực hiện hành vi
phạm tội” (là một trong những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự được
qui định tại Điều 63 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003)
Theo ý kiến của tác giả, khởi tố bị can là hành vi pháp lí của Cơ quan Điều
tra, Viện kiểm sát, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển
16
và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra xác định một người nào đó đã thực hiện hành vi

phạm tội và cần phải tiến hành điều tra theo qui định của pháp luật để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người đó.
Để thực hiện hành vi pháp lí này, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần phải
tiến hành một loạt các hoạt động khác, như: tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và
các tài liệu ban đầu do các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; xác minh các thông
tin, tài liệu đó; bắt quả tang; giám định, định giá tài sản (nếu có); khám xét… sau đó
mới tiến hành được thủ tục quan trọng, có tính quyết định mà kết quả của nó được
thể hiện bằng hình thức là văn bản tố tụng hình sự- quyết định khởi tố bị can.
Về quyết định khởi tố bị can, có quan điểm cho rằng: Quyết định khởi tố bị
can là văn bản pháp lí, trong đó, Cơ quan điều tra xác định một người đã thực hiện
hành vi phạm tội. [6, tr22]
Bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng, quyết định khởi tố bị can cũng là một
hành vi pháp lí (hành vi quyết định khởi tố bị can) của cơ quan có thẩm quyền để xác
định một người đã thực hiện hành vi phạm tội và cần phải tiến hành điều tra theo qui
định của pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó. Kết quả của
hành vi tố tụng này là văn bản tố tụng.
Tác giả cho rằng, quyết định khởi tố bị can là văn bản tố tụng hình sự do cơ
quan có thẩm quyền khởi tố bị can ban hành, trong đó xác định một người đã thực
hiện hành vi phạm tội.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chỉ qui định về nội dung của văn bản tố
tụng này mà không qui định về hình thức phải tuân thủ theo qui định về soạn thảo
văn bản hay không? hay là có qui định riêng về hình thức văn bản tố tụng. Về nội
dung, theo qui định tại khoản 2 Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, quyết
định khởi tố bị can phải ghi rõ: thời gian, địa điểm ra quyết định; họ tên, chức vụ
người ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình
của bị can; bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự; thời
gian, địa điểm phạm tội và những tình tiết khác của tội phạm. Trong trường hợp bị
17
can bị khởi tố về nhiều tội khác nhau thì trong quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ
từng tội danh và điều khoản của Bộ luật Hình sự được áp dụng. Qui định về nội dung

của quyết định khởi tố bị can tại khoản 2 Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
cũng giống như qui định tại khoản 2 Điều 103 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988.
1.2.2. Hình thức của việc khởi tố bị can
Về mặt hình thức của việc khởi tố bị can, cả hai Bộ luật Tố tụng hình sự năm
1988 và năm 2003 đều không có qui định thống nhất. Vấn đề này đã được giải quyết
một phần thông qua qui định tại Quyết định số 789/2007/QĐ-BCA ngày
12/7/007 của Bộ trưởng Bộ Công an về việc bổ sung, sửa đổi các biểu mẫu sử dụng
trong hoạt động tố tụng hình sự của lực lượng công an nhân dân ban hành kèm theo
Quyết định số 1351/2004/QĐ-BCA(C11) ngày 18/11/2004, biểu mẫu số 23- quyết
định khởi tố bị can. Tuy nhiên, quyết định trên cũng chỉ là văn bản có tính chất
hướng dẫn về nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sĩ và Điều tra viên trong quá trình thi hành
nhiệm vụ, quyền hạn khi khởi tố bị can mà chưa qui định thống nhất kiểu và cỡ chữ
khi ban hành quyết định. Mặc dù vậy, với việc ban hành mẫu quyết định khởi tố bị
can cũng đã được in, sao và sử dụng thống nhất trong quá trình điều tra giải quyết vụ
án hình sự.
1.2.3. Nội dung việc khởi tố bị can
1.2.3.1. Thẩm quyền khởi tố bị can
Khoản 1 Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Khi có đủ
căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra ra
quyết định khởi tố bị can”.
Bên cạnh đó, Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 qui định về nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra: “Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ
quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can
theo quy định của Bộ luật này;…”
18
Như vậy, thẩm quyền khởi tố bị can về cơ bản, trước hết thuộc về Cơ quan
Điều tra, sau đó là Viện kiểm sát. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cũng
qui định, trong trường hợp này, quyết định khởi tố bị can phải được Viện kiểm sát

phê chuẩn việc khởi tố. Đó là: “Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định khởi tố
bị can, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc
khởi tố bị can đó cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn việc khởi tố”.
Ngoài ra, khoản 1 Điều 111 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 qui định về
quyền hạn điều tra của Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng Cảnh sát
biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã qui định về thẩm quyền khởi tố bị can của
những cơ quan này trong trường hợp: khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức
phải truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực quản lý của mình mà tội phạm đó
thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng, phạm tội quả tang, lai lịch người phạm tội và
chứng cứ rõ ràng.
Để cụ thể quyền khởi tố bị can, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã trao
quyền này cho Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Viện trưởng Viện kiểm sát. Đây là qui
định nhằm đáp ứng được yêu cầu xác định cụ thể hơn, rõ ràng hơn về trách nhiệm
của các chức danh tố tụng. Đồng thời với qui định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ
trưởng Cơ quan điều tra, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã bổ sung qui định hoàn
toàn mới so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, qui định về nhiệm vụ, quyền hạn
của Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát.
Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 qui định nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, theo đó khi thực hiện
việc điều tra vụ án hình sự, Thủ trưởng Cơ quan điều tra có quyền (và nhiệm vụ)
quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can… Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, khi
được phân công điều tra vụ án hình sự, cũng có những nhiệm vụ và quyền hạn được
quy định tại khoản 2 Điều 35, trong đó có quyền khởi tố bị can .
Điều 36 qui định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng,
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, theo đó, khi thực hành quyền công tố và kiểm sát
19
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng
Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn: Quyết định khởi tố vụ án, quyết
định không khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố

hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ
luật này... Quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ
quan điều tra; Quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật
của Cơ quan điều tra… (khoản 2 Điều 36 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003). Khi
được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có những
nhiệm vụ và quyền hạn của Viện trưởng, trong đó có quyền khởi tố bị can và phê
chuẩn hoặc huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can.
Bộ luật qui định về thẩm quyền khởi tố bị can thuộc về Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và một số các chủ thể khác (Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực
lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) nhưng chưa qui định cụ thể
về người có thẩm quyền khởi tố bị can là ai?
Như vậy, có thể nhận thấy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 qui định ngoài
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra có quyền ra quyết định khởi tố bị can là đúng vì đây là
những cơ quan thực hiện chức năng buộc tội (công tố) đối với người phạm tội và việc
khởi tố bị can không chỉ phục vụ cho việc làm rõ hành vi phạm tội, mà còn có ý
nghĩa ngăn chặn tội phạm, không cho phép họ tiếp tục phạm tội mới gây nguy hại
cho xã hội. Đây chính là phản ứng của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi
phạm tội. Thế nhưng, khi giao cho các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra như: Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lượng
Cảnh sát biển thì có hàng loạt những vấn đề đặt ra liên quan đến quyết định này. Ví
dụ: sau khi ra quyết định khởi tố bị can, Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm,
Lực lượng Cảnh sát biển có áp dụng biện pháp ngăn chặn nào, nhất là có bắt người,
tạm giữ, tạm giam không (mặc dù trong Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự có cho
20
phép các cơ quan này áp dụng biện pháp ngăn chặn theo qui định của Bộ luật tố tụng
hình sự), thủ tục áp dụng như thế nào… Những vấn đề này chưa được qui định cụ thể
trong Bộ luật.

So với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 về thẩm quyền khởi tố bị can có thể
thấy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã mở rộng và cụ thể hơn về chủ thể có
quyền khởi tố bị can, bổ sung chủ thể có thẩm quyền đó là Lực lượng Cảnh sát biển
có quyền khởi tố bị can.
1.2.3.2. Đối tượng, căn cứ áp dụng
Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 qui định tại khoản 1: “Khi có đủ
căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra ra
quyết định khởi tố bị can”
Theo quy định trên, thì đối tượng của khởi tố bị can phải là con người cụ thể,
người đó có tên tuổi cụ thể, có: họ, tên; ngày, tháng, năm sinh; nghề nghiệp; hoàn
cảnh gia đình… Người này bị cho là đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cấu
thành tội phạm theo qui định của Bộ luật Hình sự (bị khởi tố về tội gì, theo điều
khoản nào của Bộ luật Hình sự); thời gian, địa điểm phạm tội… Khoản 1 Điều 126
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cũng như khoản 1 Điều 103 của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988 chỉ qui định là: “khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực
hiện hành vi phạm tội” nhưng lại không có qui định cụ thể số lượng căn cứ bao nhiêu
là đủ thì mới khởi tố bị can. Mà theo trình tự, để ra quyết định khởi tố bị can thì các
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hay Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực
lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cần phải có căn cứ để xác
định một người đã thực hiện hành vi phạm tội. Nói “có đủ căn cứ” có nghĩa là đã đủ
chứng cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội. Trong thực tế, đa số
các trường hợp khởi tố bị can là hành vi tố tụng đầu tiên, có trước các biện pháp điều
tra khác, như: hỏi cung bị can, đối chất,… Thế thì làm sao Cơ quan điều tra “đã có đủ
căn cứ” để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội để có thể ra quyết định
khởi tố bị can. Do vậy, chỉ có thể xác định một người bị nghi thực hiện hành vi phạm
21
tội chứ chưa thể khẳng đinh chắc chắn một người đã thực hiện hành vi phạm tội. Bởi
vì, trong thực tế có rất nhiều những tình huống có thể xảy ra như hành vi nguy hiểm
của họ phù hợp với qui định trong phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ, tình thế cấp

thiết… “Mặt khác, qui định như hiện hành của điều luật dường như chỉ mô tả về
người thực hành mà bỏ qua những người khác được coi là đồng phạm trong việc thực
hiện tội phạm như người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức” [26, tr.466].
Khác với khởi tố vụ án hình sự, chỉ cần có dấu hiệu của tội phạm là Cơ quan
có thẩm quyền ra quyết định khởi tố. Việc khởi tố bị can chỉ được tiến hành khi xác
định con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được Bộ luật Hình
sự qui định là tội phạm. Như vậy, việc khởi tố bị can đặt ra vấn đề trách nhiệm nặng
nề hơn so với việc khởi tố vụ án.
Về nguyên tắc, Cơ quan điều tra chỉ ra quyết định khởi tố bị can sau khi đã ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trường hợp phạm tội quả tang mà người phạm tội
có đầy đủ các điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự thì quyết định khởi tố bị can
ngay sau khi khởi tố vụ án (gần như là cùng thời điểm). Tuy nhiên, không phải trong
mọi trường hợp ngay từ đầu, Cơ quan điều tra đều phát hiện được tất cả các tình tiết
có liên quan đến hành vi phạm tội của bị can hoặc tất cả các tội phạm mà bị can đã
thực hiện. Chính vì vậy, trong quá trình điều tra vụ án hình sự nếu có căn cứ xác định
hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc bị can còn có
hành vi phạm tội khác thì Cơ quan điều tra có quyền hoặc theo yêu cầu của Viện
kiểm sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can.
Như vậy, để khởi tố bị can cần có căn cứ nhưng như đã nêu ở trên, căn cứ đó
là không cụ thể. Khi nói “có đủ căn cứ” thì phải biết “đủ” đấy là mấy? Mặc dù vậy,
để xác định “đủ căn cứ” là rất khó, sẽ khó hơn nữa nếu liệt kê một dãy căn cứ trong
điều luật để khởi tố bị can. Trong trường hợp căn cứ khởi tố bị can được qui định
như trên thì tùy từng trường hợp, tùy vụ án hình sự cụ thể mà vấn đề “có đủ căn cứ”
được xác định khác nhau. Căn cứ đó mặc dù không có văn bản hay hướng dẫn cụ thể
nhưng khoa học luật tố tụng hình sự cũng như trong thực tế đó có thể là: “những tài
liệu, chứng cứ đủ để chứng minh một người đã thực hiện hành vi thỏa mãn những
22
dấu hiệu được qui định trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 1999 và
không có các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi do người đó thực hiện”
[6, tr22].

Ngoài ra, có thể suy ngược từ các tài liệu có trong hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát
xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can để xác định “có đủ căn cứ”. Đó là các tài liệu
làm căn cứ khởi tố, như: tin báo, tố giác về tội phạm và các tài liệu ban đầu do các cơ
quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; xác minh các thông tin, tài liệu đó; khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi (nếu có); trưng cầu giám định, định giá tài sản (nếu
có); tiến hành cho nhận dạng, đối chất (nếu có); khám xét, bắt quả tang; Biên bản ghi
lời khai của người bị nghi thực hiện tội phạm, biên bản hỏi cung bị can (nếu có); Lời
khai của người bị bắt, người bị tạm giữ, người làm chứng, người bị hại (nếu có) (Mục
13 Thông tư Liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về quan hệ phối hợp giữa Cơ
quan điều tra và Viện Kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003).
1.2.3.3. Thủ tục khởi tố bị can
Với tính chất làm phát sinh quan hệ tố tụng hình sự giữa cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng với bị can, phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên,
hơn thế, người bị khởi tố bị can còn có thể bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn
nghiêm khắc nhất, hạn chế tự do của người bị áp dụng trong một khoảng thời gian
nhất định, nên việc ra quyết định khởi tố bị can cần phải tuân theo đúng trình tự, thủ
tục luật định. Khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội
thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can (khoản 1 Điều 126 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003). Như đã nêu ở mục 1.2.2 ở trên, về mặt hình thức: kết quả của
việc khởi tố bị can đó là văn bản pháp lí tố tụng hình sự, do người có thẩm quyền ban
hành theo đúng hình thức hướng dẫn và đảm bảo nội dung đã qui định tại khoản 2
Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
1.2.3.4. Thủ tục thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can
23
Đây là quy định bổ sung, mới hoàn toàn của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 tại Điều 127 so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Theo đó, Viện kiểm sát
có quyền thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can từ giai đoạn điều tra đến truy tố.
Xuất phát từ chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát quy định nhằm

loại trừ các trường hợp bỏ lọt tội phạm khi có căn cứ xác định còn có người khác
thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án nhưng Cơ quan điều tra không khởi tố hoặc
hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố. Khi đó, Viện kiểm sát
yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố hoặc ra quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố bị can.
Về thủ tục thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can được hướng dẫn
khá chi tiết tại mục 11 của Thông tư Liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP
ngày 07/9/2005 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về
quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát trong việc thực hiện một số
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Theo đó, trong quá trình điều tra vụ án
hình sự, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã
bị khởi tố hoặc bị can còn có hành vi phạm tội khác thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp có quyền ra
quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, nhưng Viện kiểm sát chỉ
thực hiện thẩm quyền này khi đã yêu cầu mà Cơ quan điều tra không thực hiện.
Trường hợp thay đổi quyết định khởi tố bị can thì phải ra quyết định thay đổi
quyết định khởi tố vụ án hình sự. Ví dụ: thay đổi quyết định khởi tố bị can từ tội lạm
dụng tín nhiệm sang tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thì phải thay đổi quyết định khởi
tố vụ án về tội lạm dụng tín nhiệm sang tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Cần lưu ý là không thay đổi quyết định khởi tố bị can trong trường hợp điều
tra xác định được hành vi của bị can phạm vào tội nặng hơn hoặc tội nhẹ hơn trong
cùng tội danh đã khởi tố đối với bị can.
Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố
bị can trong vụ án đã được khởi tố, nếu bị can còn có hành vi phạm tội khác mà hành
vi đó chưa được khởi tố vụ án thì phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trước khi
24
ra quyết định khởi tố bị can và xem xét nhập các vụ án để điều tra chung theo quy
định tại Điều 117 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Nếu trong quá trình điều tra vụ án mà
xác định được bị can thực hiện hành vi phạm tội này là để thực hiện hành vi phạm tội
khác thì ra quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự và ra quyết định bổ

sung quyết định khởi tố bị can.
Ví dụ 1: Trong vụ giết người và cướp tài sản, Nguyễn Văn A và Trần Thị B bị
khởi tố bị can về hai tội giết người và cướp tài sản, Nguyễn Văn C bị khởi tố về tội
giết người. Qua điều tra xác định được ngoài hành vi giết người, C còn cùng với A và
B thực hiện hành vi cướp đã được khởi tố thì phải bổ sung quyết định khởi tố bị can
đối với C về hành vi cướp tài sản.
Ví dụ 2: Nguyễn Văn A là bị can trong vụ án trộm cắp, nhưng qua điều tra cho
thấy trước đó Nguyễn Văn A còn có hành vi cướp tài sản, trong trường hợp này A
phạm hai tội. Do đó, phải ra quyết định khởi tố vụ án về hành vi cướp tài sản, sau đó
ra quyết định khởi tố bị can đối với A về tội cướp tài sản và xem xét để nhập hai vụ
án để điều tra theo quy định tại Điều 117 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Ví dụ 3: Nguyễn Văn A là bị can trong vụ giết người nhưng qua điều tra cho
thấy A thực hiện hành vi giết nạn nhân là nhằm cướp tài sản thì phải ra quyết định bổ
sung quyết định khởi tố vụ án, đồng thời ra quyết định bổ sung quyết định khởi tối bị
can đối với A về tội cướp tài sản.
Việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can trong trường hợp bị
can có nhiều hành vi phạm tội nhưng cùng tội danh và trường hợp bị can phạm nhiều
tội khác nhau, được thực hiện như sau:
- Nếu một người có nhiều hành vi phạm tội nhưng cùng tội danh thì chỉ ra một
quyết định khởi tố vụ án hình sự, một quyết định khởi tố bị can chung cho tất cả các
lần phạm tội đó. Ví dụ: Nguyễn Văn A nhiều lần mua bán trái phép chất ma túy thì
chỉ ra một quyết định khởi tố vụ án hình sự, một quyết định khởi tố bị can đối với A
về tội mua bán trái phép các chất ma túy theo điều khoản tương ứng của Bộ luật hình
sự
25

×