LỜI MỞ ĐẦU
Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu công cuộc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm hội nhập sâu
hơn với nền kinh tế toàn cầu. Đến nay công cuộc này vẫn tiếp tục được đẩy mạnh và là
mục tiêu hàng đầu của nền kinh tế nước ta. Để thực hiện được mục tiêu đó, điều quan
trọng nhất là Nhà nước phải tạo lập khung khổ pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh
doanh diễn ra hiệu quả. Hệ thống pháp luật kinh tế của nhà nước cần được xây dựng
đồng bộ, đúng đắn, nhất quán và kịp thời mới có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vai
trò của pháp luật đối với nền kinh tế ngày càng tăng lên và nó đã trở thành yếu tố không
thể thiếu trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ ĐỊNH NGHĨA:
1. Định nghĩa pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục tiêu định hướng
cụ thể.
2. Định nghĩa về kinh tế thị trường
Có thể hiểu kinh tế thị trường là nền kinh tế mà các vấn đề sản xuất cái gì, sản xuất để
làm gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai, sản phẩm được phân phối như thế nào…
được giải quyết qua thị trường. Trong nền kinh tế thị trường các quan hệ kinh tế của các
cá nhân, các doanh nghiệp đều được biểu thị qua mua, bán hàng hóa, dịch vụ trên thị
trường.
II. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
Sự tác động của pháp luật đến các hoạt động sản xuất – kinh doanh được thực hiện
thông qua một cơ chế phức tạp. Hoạt động sản xuất – kinh doanh được tiến hành thông
qua hoạt động có ý thức của con người và phải tuân theo những quy luật kinh tế khách
quan. Pháp luật không đặt ra các quy luật mà chỉ tác động đến hành vi của người kinh
doanh, đặt ra các tiêu chuẩn cho con người tuân thủ, chấp hành. Đồng thời pháp luật
còn thể hiện yêu cầu của nhà nước đối với các đơn vị kinh tế dưới dạng quyền và nghĩa
vụ của chủ thể. Do vậy, pháp luật đã trở thành một công cụ vô cùng quan trọng giúp
nhà nước quản lý kinh tế. Hơn nữa quản lý kinh tế bằng pháp luật là một cách quản lý
vô cùng khoa học, vì có tính dự báo nên nó có khả năng (dù không hoàn toàn) theo kịp
được sự phát triển của kinh tế nước ta. Vai trò của pháp luật đối với nền kinh tế nước ta
được thể hiện ở những mặt sau:
1. Trước hết, pháp luật xác lập và điều chỉnh các quan hệ sở hữu.
Quan hệ sở hữu là quan hệ kinh tế cơ bản của xã hội nên quyền sở hữu là một trong
các quyền cơ bản của công dân và đã được nhiều học giả quan niệm đó là một quyền tự
1
nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm của con người. Ở Việt Nam, pháp luật xác
định rõ chế độ và hình thức sở hữu, vai trò của từng hình thức cũng như việc xác lập và
bảo vệ quyền sở hữu. Thậm chí quan hệ sở hữu kinh tế đã được đưa vào Hiến pháp –
văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Nếu như theo tinh thần Điều 18 Hiến pháp 1980 là thành phần kinh tế quốc doanh
thuộc sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thì đến Hiến pháp
1992, theo tinh thần của công cuộc đổi mới năm 1986, tại Điều 15 Hiến pháp 1992 đã
ghi nhận: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần với các hinh thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế
độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể là nền tảng”.
Hiến pháp còn quy định các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế
phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước, bình đẳng trước pháp luật. Công
dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư
liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức khác. Nhà
nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của các chủ thể. Các quy định trên của Hiến pháp
cũng được cụ thể hóa trong bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật khác.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường là nền kinh tế có rất nhiều chủ thể
tham gia sản xuất kinh doanh, sử dụng tư liệu sản xuất theo nhiều cách khác nhau để
thu được lợi ích kinh tế, bộ luật dân sự (năm 2005) đã thể hiện quan điểm về sở hữu
rộng hơn so với trước. Bộ luật đề cập đến những nội dung pháp lý cơ bản như: Đối
tượng của quyền sở hữu là các tài sản có thực, có thể là hữu hình (tiền, hiện vật,…)
hoặc vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, quyền đòi nợ,…) (Điều 163). Hay như Điều 164
quy định về quyền sở hữu: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng
và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật. Chủ sở hữu là cá
nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng,
quyền định đoạt tài sản”. Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình
đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của nhà
nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 165)...Bên cạnh
quyền, chủ sở hữu còn có nghĩa vụ trong một số trường hợp nhất định như trong việc
xảy ra những tình trạng cấp thiết, trong việc bảo vệ môi trường, trong việc tôn trọng,
đảm bảo trật tự an toàn xã hội...
Ngoài ra, pháp luật còn quy định khá nhiều biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu, từ các
biện pháp dân sự như quyền khiếu kiện đòi lại tài sản hợp pháp; quyền yêu cầu đòi bồi
thường thiệt hại của chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, đến các biện pháp hành
chính, hình sự...
2. Thứ hai, pháp luật đóng vai trò là công cụ quản lý và điều tiết kinh tế
Để điều tiết kinh tế, nhà nước sử dụng nhiều công cụ khác nhau, trong đó pháp luật là
công cụ quan trọng nhất và có tác động lớn nhất. Vai trò này của pháp luật được thể
hiện thông qua việc thể chế hóa chiến lược, chính sách và kế hoạch phát triển đất nước
trong từng giai đoạn để triển khai thực hiện. Pháp luật thừa nhận sự tồn tại và bình đẳng
2
của các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu, tạo điều kiện cho chúng phát triển và
bảo vệ chúng, quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể sản xuất kinh doanh
nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế theo hướng mà Nhà nước mong muốn. Thông qua
các quy định về thuế, tài chính, tiền tệ, giá cả, đầu tư, pháp luật góp phần cơ cấu lại các
ngành kinh tế nhằm cải biến nền kinh tế nước ta từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
trở thành nền kinh tế công nghiệp hiện đại đồng thời điều tiết nền kinh tế theo hướng
vừa đảm bảo sự tăng trưởng của kinh tế, vừa đảm bảo sự ổn định kinh tế, nhất là trong
thời điểm lạm phát tăng cao như thế này. Trước năm 1986, nhà nước ta thực hiện chính
sách bao cấp về kinh tế, không cho phép những doanh nghiệp tư nhân và những doanh
nghiệp có vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Nhưng từ sau công cuộc đổi mới năm
1986, đất nước ta bắt đầu “cởi trói” nền kinh tế bằng nhiều chính sách. Ví dụ để mở
rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa,
phát triển kinh tế quốc dân trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
của đất nước; Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua “Luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” trong kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX ngày 12 tháng
11 năm 1996. Đây là bộ luật nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, ngay
khi ra đời, bộ luật này đã phát huy được vai trò to lớn của nó đối với nền kinh tế nước
ta. Chẳng hạn như Điều 21 trong luật này đã quy định: “Trong quá trình đầu tư vào Việt
Nam, vốn và tài sản hợp pháp khác của các nhà đầu tư nước ngoài không bị trưng dụng
hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không
bị quốc hữu hóa. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp, bảo đảm lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động
chuyển giao công nghệ tại Việt Nam. Trong trường hợp do thay đổi quy định của pháp
luật Việt Nam mà làm thiệt hại đến lợi ích của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh đã được cấp giấy phép, thì nhà nước
có biện pháp giải quyết thỏa đáng đối với quyền lợi của nhà đầu tư”. Ngoài ra, trong
“Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” năm 1996 còn rất nhiều những quy định khác để
đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia và nền kinh tế Việt Nam,
khuyến khích đầu tư như: Điều 31, Điều 32, Điều 39... Ngoài ra để đảm bảo sự ổn định
kinh tế, thông qua pháp luật, các pháp lệnh,... nhà nước ta còn đặt ra các quy định về giá
và việc mua thóc, cà phê hiện nay; về giá điện, ga; mức trần lãi suất tiết kiệm (đối với
năm 2011 là 14%), tỉ giá hối đoái,...
Đồng thời, pháp luật góp phần thiết lập cơ chế quản lý kinh tế mới với sự kết hợp
nhiều biện pháp quản lý khác nhau, trong đó các biện pháp kinh tế là chủ yếu. Thông
qua việc tác động trực tiếp đến lợi ích kinh tế của các chủ thể sản xuất kinh doanh, bằng
việc quy định các biện pháp thưởng tiền, khuyến khích vật chất, phạt tiền, bồi thường
thiệt hại, pháp luật có thể điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng mà
Nhà nước mong muốn. Pháp luật còn có thể góp phần cơ cấu lại các ngành kinh tế
thông qua việc quy định những mặt hàng cấm xuất nhập khẩu, hỗ trợ giá, tỉ lệ đầu tư
trực tiếp. Những quy định trên có thể khuyến kích sự phát triển của ngành này cũng như
kìm hãm sự phát triển của ngành khác theo mong muốn của nhà nước. Ví dụ như khi
giá xăng dầu thế giới lên cao, để đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng và các doanh
3
nghệp kinh doanh xăng dầu, Nhà nước đã đưa ra chính sách trợ giá đối với mặt hàng
này giúp cho người tiêu dùng vẫn được mua xăng dầu với mức giá hợp lý mà doanh
nghiệp cũng không bị thiệt hại. Bên cạnh đó, với những mặt hàng mà Nhà nước muốn
kìm hãm việc nhập khẩu nó thì thông qua pháp luật Nhà nước lại đánh những mức thuế
cao đối với những mặt hàng đó như thuốc lá (60% giá bán); bia, rượu nhập khẩu
(45%);...Nhưng với việc Việt Nam gia nhập WTO (2007) thì những quy định của pháp
luật trong việc trợ giá cũng như quy định các loại thuế đều không được vi phạm cam kết
Việt Nam đã ký.
3. Thứ ba, pháp luật còn là công cụ điều tiết lợi ích của các chủ thể khi tham gia thị
trường
Lợi ích kinh tế là vấn đề đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường bởi lẽ lợi
nhuận vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chủ thể sản xuất kinh doanh. Để đạt được
lợi nhuận tối đa, các chủ thể sản xuất kinh doanh sẵn sàng áp dụng những tiến bộ khoa
học kỹ thuật, tìm kiếm thị trường, tìm kiếm các biện pháp sản xuất kinh doanh có hiệu
quả,...nhưng đồng thời họ cũng sẵn sàng sử dụng các biện pháp tiêu cực như: cạnh tranh
không lành mạnh, trốn thuế, lừa đảo,...Do vậy, pháp luật là công cụ không thể thiếu để
điều tiết lợi ích các chủ thể.
Pháp luật quy định khuôn khổ cạnh tranh để khuyến khích hành vi đúng, thúc đẩy sự
tăng trưởng của kinh tế; đồng thời quy định những biện pháp xử lý những hành vi cạnh
tranh không lành mạnh nhằm bảo vệ lợi ích của người sản xuất, người lao động và đặc
biệt là người tiêu dùng. Tại Điều 4 Luật Cạnh tranh năm 2004 có quy định về nguyên
tắc cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế như sau: “1. Doanh nghiệp được tự do cạnh tranh
trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh
doanh.
2. Việc cạnh tranh phải được thực hiện theo nguyên tắc trung thực, không xâm phạm
đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp, của người tiêu dùng và phải tuân theo các quy định của Luật này”.
Cũng trong bộ luật này tại Điều 13 có quy định cụ thể về “Các hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường bị cấm”: “Cấm doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh thị trường thực hiện các hành vi sau đây:
1. Bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh
tranh;
2. Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối
thiểu gây thiệt hại cho khách hàng;
3. Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát
triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng;
4. Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình
đẳng trong cạnh tranh;
5. Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ
hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối
tượng của hợp đồng;
6. Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới”.
4
Những quy định của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng quy đinh trách nhiệm, nghĩa
vụ của người sản xuất, kinh doanh đối với các loại hàng hóa, dịch vụ gây tổn hại đến
quyền lợi của người tiêu dùng, đặc biệt là những loại hàng hóa ảnh hưởng đến sức khỏe
và sự an toàn của con người, xác định những chế tài cho hành vi làm hàng giả, hàng
nhái, hàng kém chất lượng. Pháp luật thiết lập cơ chế hữu hiệu để giải quyết nhanh
chóng và hiệu quả các khiếu nại của người tiêu dùng. Hiện tại, quyền lợi của người tiêu
dùng được bảo vệ bởi các quy định trong các văn bản luật như: Luật Doanh nghiệp
(năm 2005), Luật Thương mại (năm 2005), Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
(năm 1999),... Cụ thể, trong Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (1999) có quy
định: “Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ phải giải quyết kịp thời
mọi khiếu nại của người tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ của mình không đúng tiêu
chuẩn, chất lượng, số lượng, giá cả đã công bố hoặc hợp đồng đã giao kết; thực hiện
trách nhiệm bảo hành hàng hoá, dịch vụ đối với khách hàng” (Điều 16), hoặc “Người
nào sản xuất, kinh doanh hàng cấm, thuốc chữa bệnh giả, thực phẩm giả và các loại
hàng giả khác; thực phẩm không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn; sản xuất, kinh
doanh, tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ gây ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường, nguy hại
đến tính mạng, sức khoẻ của con người, trái với thuần phong mỹ tục; thông tin, quảng
cáo sai sự thật; gian lận trong cân, đong, đo, đếm hoặc có hành vi khác vi phạm pháp
luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị
xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại cho người tiêu
dùng thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.” (Điều 26)…
Ngoài ra, pháp luật còn khẳng định nguyên tắc tự do hợp đồng, ghi nhận và tạo cơ sở
pháp lý cho việc thực hiên nguyên tắc tự do kinh doanh, mở rộng quyền cho các doanh
nghiệp trong việc định đoạt các vấn đề phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
nguyên tắc mọi doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu đều được bình đẳng
trước pháp luật, tạo ra một “sân chơi chung” cho các chủ thể sản xuất kinh doanh. Pháp
luật quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế, pháp luật bảo vệ quyền lợi của
các chủ nợ và người lao động trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản, bảo vệ quyền
lợi cho các chủ thể sản xuất kinh doanh khi xảy ra tranh chấp giữa họ, đồng thời đảm
bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Trong Luật phá sản (năm 2004) có những quy định
về việc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và người lao động trong trường hợp doanh nghiệp
bị phá sản như sau: “Trường hợp Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý đối với
doanh nghiệp, hợp tác xã thì các khoản nợ chưa đến hạn vào thời điểm mở thủ tục thanh
lý được xử lý như các khoản nợ đến hạn, nhưng không được tính lãi đối với thời gian
chưa đến hạn” (Điều 34), hay tại khoản 1 Điều 37 trọng bộ luật này cũng quy định về
thứ tự phân chia tài sản khi doanh nghiệp phá sản: “Trường hợp Thẩm phán ra quyết
định mở thủ tục thanh lý đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thì việc phân chia giá trị tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã theo thứ tự sau đây:
a) Phí phá sản;
b) Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật
và các quyền lợi khác theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết;
5