Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.55 KB, 15 trang )

BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xã hội hiện nay, tội phạm do người chưa thành niên thực hiện đã và đang ngày gia
tăng. Điều này đòi hỏi các quy định của pháp luật đối với các đối tượng này cũng phải đáp ứng
được mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của người chưa thành niên phạm tội. BLTTHS đã dành hẳn
một chương riêng quy định thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành
niên. Đó là những quy định đặc biệt về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn , việc tham gia tố
tụng của gia đình, người bào chữa, về thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án…đối với
người chưa thành niên phạm tội.
Thực tiễn xét xử các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên cho tháy các cơ quan
tiến hành tố tụng đã cố gắng vận dụng một cách linh hoạt các quy định của pháp luật trong quá
trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại như các cơ quan tiến hành tố tụng chưa
hiểu rõ và vận dụng chính xác những quy định của pháp luật tố tụng liên quan tới người chưa
thành niên phạm tội. Bên cạnh đó một số quy định của pháp luật TTHS chưa đáp ứng được yêu
cầu hoạt động tố tụng đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, xâm phạm
đến quyền và lợi ích của họ.
Trước thực trạng trên, việc tìm hiểu và nghiên cứu những quy định chung về thủ tục tố
tụng dành cho những bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong BLTTHS Việt Nam là một vấn
đề cấp thiết hiện nay. Từ đó đưa ra được các giải pháp tháo gỡ nhằm nâng cao chất lượng giải
quyết các vụ án do người chưa thành niên thực hiện. Do vậy em đã chọn đề tài: “Thủ tục tố tụng
về những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên”.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ NHỮNG VỤ ÁN MÀ
BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
I- Nhận thức chung về tố tụng hình sự đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là người
chưa thành niên
1. Khái niệm, mục đích của thủ tục TTHS đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên
1.1. Khái niệm
Trong thực tế áp dụng Pháp luật đang có nhiều cách hiểu khác nhau về các đối tượng là bị
can, bị cáo là người chưa thành niên. Theo từ điển tiếng việt, trung tâm ngôn ngữ học Việt Nam
năm 2000 đã đưa ra khái niệm về người chưa thành niên như sau: “Người chưa thành niên là


người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ
quyền và nghĩa vụ công dân”. Người chưa thành niên là người đang ở lứa tuổi mà khả năng nhận
thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế và đôi khi còn chịu sự tác
động mạnh mẽ của điều kiện bên ngoài. Chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người chưa
thành niên chủ yếu là giáo dục và giúp đỡ họ sửa chữa những sai lầm, phát triển lành mạnh để họ
trở thành những công dân có ích cho xã hội. Vì vậy thủ tục tố tụng cũng phải được quy định phù
hợp với lứa tuổi người chưa thành niên.
Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự, bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét
xử. Bị can, bị cáo là người chưa thành niên thỏa mãn những quy định pháp lý về bị can, bị cáo
nhưng họ lại đang ở độ tuổi từ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi. Theo Bộ luật Tố Tụng hình sự
(BLTTHS) nước CHXHCN Việt Nam, thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phải được tiến
hành theo một trình tự đặc biệt quy định tại Chương XXXII gồm 10 Điều (từ Điều 301 đến 310).
Các quy định này nhằm mục đích đưa ra những thủ tục tố tụng sao cho phù hợp với đặc điểm tâm,
sinh lý của bị can, bị cáo là người chưa thành niên, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của họ trước cơ
quan tiến hành tố tụng.
Khái niệm người chưa thành niên phạm tội và khái niệm bị can, bị cáo là người chưa thành
niên có một số điểm khác nhau. Quy định đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật
hình sự (BLHS) chỉ áp dụng đối với đối tượng là người chưa thành niên ở thời điểm họ thực hiện
hành vi phạm tội. Còn quy định thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên
trong BLTTHS được áp dụng đối với đối tượng là bị can, bị cáo vào thời điểm áp dụng các thủ tục
tố tụng hình sự (TTHS), họ là người chưa thành niên.
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử để xác định chính xác tuổi của người chưa thành
niên cần phải căn cứ vào giấy khai sinh và những tài liệu cần thiết khác. Trường hợp bị can, bị cáo
lúc phạm tội chưa đủ 18 tuổi nhưng khi phát hiện được tội phạm họ đã đủ 18 tuổi thì không cần áp
dụng thủ tục này. Điều 301 BLTTHS năm 2003 quy định về phạm vi áp dụng như sau:
“ Thủ tục tố tụng đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành
niên được áp dụng theo quy định của chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật
này không trái với những quy định của chương này”.
Điều này có nghĩa, khi điều tra, truy tố, xét xử những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa
thành niên không chỉ phải thực hiện các quy định chung về thủ tục tố tụng mà còn thực hiện theo

quy định của Chương XXXII BLTTHS, mặt khác, các quy định khác của BLTTHS không trái với
những quy định của chương này.
Tóm lại, từ sự phân tích các đặc điểm trên đây ta có thể hiểu thủ tục tố tụng về những vụ án
mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên được quy định trong BLTTHS là: những thủ tục đặc biệt
cần thực hiện khi áp dụng đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm giải quyết đúng đắn, khách quan, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ
trong hoạt động TTHS.
1.2. Mục đích.
BLTTHS quy định thủ tục tố tụng đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên nhằm mục
đích sau:
+ Khắc phục những thiếu sót trong công tác điều tra, truy tố, xét xử.
+ Đưa ra những biện pháp xử lý phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Kết hợp hài hòa giữa biện pháp cưỡng chế và giáo dục, thuyết phục tạo ra những điều
kiện cần thiết để người chưa thành niên biết sửa chữa những sai lầm, sớm cải tạo trở thành người
lương thiện có ích cho xã hội.
+ Bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người chưa thành niên.
2. Những căn cứ quy định thủ tục về những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên
2.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi người chưa thành niên
Việc tìm hiểu những đặc điểm tâm lý lứa tuổi người chưa thành niên là không thể thiếu
được đối với cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự về người
chưa thành niên. Dựa trên cơ sở pháp luật hình sự, lứa tuổi này có thể phân làm 2 nhóm:
Một là, từ 14 tuổi tròn đến dưới 16 tuổi. Nhóm này có đặc điểm:
+ Vừa vượt qua giai đoạn trẻ con;
+ Gần gia đình và sống phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào gia đình.
Hai là, từ 16 tuổi tròn đến dưới 18 tuổi. Nhóm này có đặc điểm:
+ Đang ở giai đoạn sắp bước vào tuổi người lớn;
+ Nhận thức xã hội khá hơn nhóm trước nhưng vẫn chưa tách khỏi gia đình;
+ Kinh tế còn phụ thuộc vào gia đình.
Theo quy định của BLHS năm 1999, tuổi bắt đầu phải chịu TNHS là 14 tuổi tròn, tùy theo
từng loại tội khác nhau. Người chưa thành niên có đặc điểm tâm, sinh lý khác với người đã thành

niên, cụ thể:
- Ở lứa tuổi này, người chưa thành niên đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ về thể lực
và tâm sinh lý. Đây là thời kỳ chuyển tiếp từ trẻ con sang người lớn, họ không còn thụ động với vai
trò của người được dạy dỗ nhưng lại chưa phải là người lớn. Sự thay đổi về thể chất dẫn đến sự
thay đổi về tâm lý, chức năng sinh lý nhưng họ chưa nhận thức được sâu sắc về đời sống xã hội.
- Sự vươn lên vị trí độc lập của người chưa thành niên theo xu hướng chung diễn ra rất tự
phát. Đối với họ, sự áp đặt chỉ bảo của người lớn trở thành “xiềng xích” cần phá bỏ. Vì vậy, có thể
nói đây là giai đoạn khủng hoảng của sự phát triển tâm lý con người.
- Quá trình phát triển sinh lý khiến người chưa thành niên dễ bị kích động, lòng kiên trì và
năng lực tự kiềm chế thấp, dễ bốc đồng, dao động…
- Ở lứa tuổi dưới 18, người chưa thành niên đều rất linh hoạt, nhạy cảm và hiếu động, có trí
tưởng tượng phong phú, vì vậy ranh giới giữa đúng và sai dễ bị lẫn lộn.
Về mặt động cơ, hành vi của người chưa thành niên là dễ chịu ảnh hưởng, tác động của môi
trường xung quanh. Với những đặc điểm tâm sinh lý của người chưa thành niên như vậy cho nên
đồi hỏi BLTTHS cần phải có những quy định đặc biệt về thủ tục tố tụng trong những vụ án mà bị
can, bị cáo là người chưa thành niên. Có như vậy, mới có thể đạt tới nhiệm vụ của TTHS đặt ra
trong giáo dục công dân tuân thủ pháp luật và tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ
nghĩa.
2.2. Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội.
Những quy định của thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành
niên trong Luật TTHS Việt Nam cũng đã tạo nên một hành lang pháp lý vững chắc để bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục người chưa thành niên một cách có hiệu quả. Những quy định này cũng xuất phát
từ chính nội dung chủ yếu của nguyên tắc: “Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu
nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích
cho xã hội ” (Điều 69 BLHS 1999).
Dựa trên nguyên tắc này, BLTTHS đã thể hiện rõ quan điểm bị can, bị cáo là người chưa
thành niên cần được đối xử theo cách thức phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, trên tinh thần tôn trọng
các quyền cơ bản của người chưa thành niên. Nhằm mục đích giáo dục, thúc đẩy sự tái hòa nhập
của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong cộng đồng, đồng thời tạo điều kiện cho các cơ
quan, tổ chức hữu quan có những biện pháp cụ thể để đấu tranh phòng, chống tội phạm ở lứa tuổi

người chưa thành niên.
3. Sơ lược lịch sử phát triển của thủ tục tố tụng về những vụ án mà bị can, bị cáo là người
chưa thành niên
- Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Hiến pháp năm 1946 ra đời đã có những quan tâm
lớn về các quyền trẻ em, tuy nhiên các thủ tụng tố tụng dành cho bị can, bị cáo là người chưa thành
niên chưa được quy định trong các văn bản pháp luật ở thời kỳ này, mà được áp dụng giống như
các thủ tục tố tụng dành cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
- Đến năm 1959 mặc dù chưa có những quy định riêng về thủ tục tố tụng đối với những vụ
án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên nhưng những quy định trong bản hiến pháp 1959 về
cơ bản đã đảm bảo cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên được xét xử một cách công bằng,
khách quan theo quy định của pháp luật. Đây chính là cơ sở cho sự hình thành và phát triển các chế
định về thủ tục đặc biệt mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
- Đến năm 1974 đã có nhiều văn bản hướng dẫn quan tâm đến các vụ án có bị can, bị cáo là
người chưa thành niên. Thông tư số 16 Tòa Án Nhân Dân Tối Cao (TANDTC) ngày 27/09/1974 có
hướng dẫn: “Nếu bị cáo là người chưa thành niên, Tòa án có thể yêu cầu cha mẹ, người giám hộ
hoặc giáo viên giúp đỡ đặt câu hỏi cho bị cáo nhưng cũng có thể yêu cầu những người này tạm rời
phòng xử án nếu sự có mặt của họ làm cho bị cáo không dám khai…”
- Năm 1985, BLHS đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam ra đời. Từ đây những vấn đề về
người thành niên phạm tội được quy định cụ thể trong chương VII gồm 11 Điều. Những quy định
này thể hiện đường lối xử lý người chưa thành niên phạm tội của Đảng và nhà nước ta chủ yếu là
nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa những sai lầm để trở thành công dân có ích cho xã hội. Không
áp dụng hình phạt tù chung thân, hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội.
- Ngày 13/11/1986 Hội đồng Bộ trưởng đã ra Nghị định số 141-HĐBT ban hành quy chế
buộc phải chịu thử thách đối với người chưa thành niên phạm tội( từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi) phạm
tội ít nghiêm trọng. Nội dung của quy chế cũng quy định rõ trách nhiệm của tất cả gia đình, xã hội
trong việc giám sát, giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên khi họ buộc phải áp dụng biện pháp
này.
- Ngày 28/06/1988 BLTTHS đầu tiên của nước ta đã ra đời và có hiệu lực kể từ ngày
01/01/1989. Trong chương XXXI của bộ luật đã quy định rõ về “ Thủ tục về những vụ án mà bị
can, bị cáo là ngời chưa thành niên”. Đây là một điểm mới trong pháp luật hình sự nước ta, thể hiện

tinh thần nhân đạo và cũng đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên.
- Kế thừa và phát triển những quy định của BLTTHS năm 1988 đồng thời nhằm đáp ứng
những yêu cầu, dòi hỏi của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngày 26/01/2003 Quốc hội
nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua BLTTHS năm 2005, trong đó thủ tục tố tụng đối với người
chưa thành niên được quy định tại Chương XXXII trong phần thủ tục đặc biệt.
II. Quy định của Luật TTHS Việt Nam về thủ tục đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là
người chưa thành niên
1. Đối tượng chứng minh trong vụ án
Khi tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên, ngoài việc xác định những vấn đề cần
chứng minh có tính chất bắt buộc chung đối với các vụ án hình sự (Điều 63-BLTTHS 2003) và các
tình tiết khác để giải quyết đứng đắn vụ án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án còn phải
chứng minh những tình tiết được quy định tại Khoản 2 Điều 302 BLTTHS năm 2003:
1.1. Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội
của người chưa thành niên
Việc xác định tuổi của bị can, bị cáo là người chưa thành niên không những cần thiết cho
việc xem xét về khả năng truy cứu hay không truy cứu TNHS mà còn cần thiết cho việc quyết định
áp dụng hình phạt thích hợp, đảm bảo chế độ thi hành án theo đúng quy định của pháp luật.
Do vậy khi điều tra, truy tố, xét xử những bị can, bị cáo mà lý lịch của họ chưa được làm rõ
thì các cơ quan có thẩm quyền chỉ được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử khi có đầy đủ căn cứ kết
luận rằng bị can, bị cáo là người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) và chỉ áp dụng đường
lối xét xử đối với người chưa thành niên phạm tội khi có đầy đủ căn cứ để kết luận rằng bị can, bị
cáo là người chưa thành niên phạm tội.
Theo Công văn số 81 ngày 10/06/2002 của TANDTC , trong trường hợp không biết chính
xác ngày, tháng sinh của bị can, bị cáo thì phải xác định như sau:
+ Nếu xác định được tháng sinh nhưng không xác định được ngày sinh thì lấy ngày cuối
cùng của tháng đó để xem xét TNHS đối với bị can, bị cáo;
+ Nếu xác định được quý của năm sinh nhưng không xác định được ngày, tháng sinh thì
ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của quý đó để xem xét TNHS của bị can, bị cáo;
+ Nếu xác định được nửa đầu năm hay nửa cuối năm của năm sinh, thì lấy ngày 30 tháng 6
hoặc 31 tháng 12 của năm đó để xem xét TNHS đối với bị can, bị cáo;

+ Nếu không xác định được nửa năm nào, quý nào, tháng nào trong năm thì lấy ngày 31
tháng 12 tương ứng của năm đó để xem xét TNHS đối với bị can, bị cáo.
Bên cạnh việc xác định độ tuổi, Luật TTHS cũng đòi hỏi các qơ quan tiến hành tố tụng phải
làm rõ trình độ phát triển về thể chất và tinh thần cũng như mức độ nhận thức về hành vi phạm tội
của bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Đây là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới việc
đánh giá chứng cứ và quy định mức độ TNHS đối với họ.
Qua nghiên cứu cho thấy một số khuyết tật về thể chất bệnh tật có thể là những tác nhân
gây nên sự rối loạn về nhân cách và đẩy người chưa thành niên vào con đường phạm tội. Mức độ
phát triển về tinh thần cúng ảnh hưởng đến hành vi phạm tội, như những người mắc bệnh tâm thần
nặng, trí tuệ thiểu năng…những người mắc bệnh này thường dễ bị xúi giục phạm tội hơn so với
người bình thường.
Mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên cũng là một yếu tố quan
trọng đối với việc xác định TNHS của người chưa thành niên. Bởi vì ở lứa tuổi này, khả năng nhận
thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội còn hạn chế và họ dễ bị môi trường
xung quanh tác động dẫn đến việc thực hiện tội phạm.
1.2. Điều kiện sinh sống và giáo dục
Việc xác định rõ điều kiện sinh sống và giáo dục của người chưa thành niên sẽ giúp cơ quan
tiến hành tố tụng xác định đúng những tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội của bị can, bị cao,
làm rõ nguyên nhân và điều kiện dẫn đến việc phạm tội làm cơ sở cho việc áp dụng những biện
pháp xử lý, giáo dục, cải tạo có hiệu quả. Đặc biệt trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan
tiến hành tố tụng cần phải làm rõ điều kiện sinh sống và thái độ của cha mẹ đối với việc giáo dục
con cái.
Phải thừa nhận rằng, gia đình có một ảnh hưởng rất lớn đối với việc hình thành nhân cách
và các hành vi xử sự của người chưa thành niên. Trước hết đó là những yếu tố tiêu cực trong gia
đình như: những thói quen, tật xấu của các thành viên ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành
nhân cách lệch lạc của người chưa thành niên. Sống trong những gia đình không có cấu trúc hoàn
hảo như bố me chết hoặc ly hôn, người chưa thành niên không được chăm sóc, dạy bảo đầy đủ,
thiếu thốn về tình cảm và điều kiện vật chất…Do vậy các em thường không có những phương
hướng hành động đúng đắn dễ dẫn đến hành vi phạm tội.
Nếu gia đình là ảnh hưởng đầu tiên và quan trọng nhất thì nhà trường cũng góp phần hết

sức quan trọng vào việc hình thành nhân cách của trẻ. Nhà trường giúp người chưa thành niên rèn
luyện tư cách đạo đức, tiếp thu kiến thức và vận dụng vào cuộc sống.
Môi trường xung quanh cũng tác động ảnh hưởng không nhỏ đến người chưa thành niên.
Thực tế là những hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội ảnh hưởng đến đầu óc nhạy cảm và hiếu động
của trẻ bởi chúng đang ở lứa tuổi bồng bột không có khả năng tự kiểm soát bản thân.
1.3. Có hay không có người thành niên xúi giục
Một vấn đề cần được xác định là người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội thường
có sự tham gia và chỉ huy của người thành niên. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy những
vụ án có người thành niên tham gia thì người chưa thành niên thường giữ vai trò thứ yếu. Điều này
có nghĩa người chưa thành niên đã bị lôi kéo và bị người thành niên phân công cho thực hiện
những hành vi phạm tội nhất định.
Trong thực tế, kẻ xấu thường lợi dụng sự bồng bột, cả tin của người chưa thành niên để lôi
kéo họ vào con đường phạm tội. Bên cạnh đó còn có sự lôi kéo kích động của người thành niên đối
với người chưa thành niên đang ở trong hoàn cảnh khó khăn, đây là nhân tố khiến các em có hành
vi phạm tội.
Theo điểm i Khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 thì phạm tội vì bị người khác đe dọa, cưỡng
bức là một trong những tình tiết giảm nhẹ. Vì vậy trong những vụ án mà bị can, bị cáo là người
chưa thành niên cần phải xác định có người lớn xúi giục hay không. Ngoài ra để phát hiện đồng
phạm trong vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên đảm bảo không để lọt kẻ phạm tội,
không làm oan người vô tội, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng cần xác định xem có người thành
niên xúi giục hay không.
1.4. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội
Muốn đấu tranh phòng, chống tội phạm đối với người chưa thành niên phạm tội có hiệu
quả, đồng thời đề ra biện pháp khắc phục và ngăn ngừa hợp lý, chúng ta phải tìm hiểu nguyên nhân
và điều kiện dẫn họ đến con đường phạm tội. Trong thực tế cũng như trong lý luận có nguyên nhân
và điều kiện không thể phủ nhận được đó là:
+ Môi trường gia đình, nhà trường, xã hội là những nguyên nhân;
+ Đặc điểm tâm lý lứa tuổi người chưa thành niên là điều kiện ảnh hưởng và tác động lẫn
nhau một cách biện chứng làm phát sinh tội phạm ở người chưa thành niên.
Môi trường gia đình, nhà trường, xã hội luôn gắn bó mật thiết với nhau và tác động trực

tiếp đến con người, đặc biệt là người chưa thành niên. Những yếu tố tiêu cực trong gia đình, sự
buông lỏng quản lý, giáo dục; nhà trường còn thiếu kiên quyết, chưa làm tròn trách nhiệm trong
việc quản lý, dạy dỗ học sinh; tình trạng bất cập trong tổ chức cộng đồng, trong quản lý xã hội…
ảnh hưởng không nhỏ đến người chưa thành niên.
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử với những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa
thành niên, cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định nguyên nhân và và điều kiện phạm tội nhằm:
+ Đề ra các biện pháp xử lý phù hợp và đúng đắn theo quy định của pháp luật.
+ Yêu cầu các cơ quan hoặc tổ chức hữu quan áp dụng những biện pháp cần thiết nhằm
khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại các cơ quan hoặc tổ chức đó, góp phần
vào việc đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả.
2. Quy định về chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng
2.1 Người tiến hành tố tụng
Khoản 1 Điều 302 BLTTHS năm 2003 quy định: “Điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm phán
tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết
về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như vè hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của
người chưa thành niên”.
Để các hoạt động tố tụng trong những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên diễn
ra có hiệu quả, trước hết những người tiến hành tố tụng phải có kiến thức về tâm lý học nói chung
và tâm lý người chưa thành niên nói riêng. Trên cơ sở đó người tiến hành tố tụng mới có thể xác
định dược hướng tiếp cận và tác động tâm lý bị can, bị cáo là người chưa thành niên; tạo được lòng
tin, thái độ hợp tác, cầu thị từ phía người chưa thành niên trong hoạt động tố tụng.
Điều này không chỉ quy định trong BLTTHS của nước ta mà còn được quy định ở trong
BLHS của hầu hết các nước trên thế giới. Quy tắc Bắc Kinh cũng chỉ rõ: “Ở thành phố lớn cần
thành lập những đơn vị cơ sở đặc biệt chuyên giải quyết những trường hợp liên quan tới người
chưa thành niên” (Điều 12). Quy định của BLTTHS Việt Nam hoàn toàn phù hợp với quy tắc này.
Tuy nhiên theo quy định tại Điều 302 BLTTHS năm 2003 cũng mới chỉ đề cập tới việc Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học
giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm người chưa thành niên chứ
không nhất thiết phải là những người được đào tạo về lĩnh vực đó. Điều này cũng gây ảnh hưởng
tới chất lượng điều tra, truy tố, xét xử bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Thực tế ở nước ta

hiện nay cũng chưa có cơ quan tiến hành tố tụng chuyên trách để điều tra, truy tố, xét xử đối với
người chưa thành niên.
Đối với hội thẩm khi tham gia xét xử những vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên, Luật
không quy định phải có những điều kiện trên nhưng trong Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm
nhân dân là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
2.2 Người tham gia tố tụng
Về cơ bản bị can, bị cáo là người chưa thành niên cũng có các quyền và nghĩa vụ như đối
với bị can, bị cáo thành niên được quy định tại Điều 49, Điều 50 BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên do
những hạn chế về tâm sinh lý mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên có thể không tự mình thực
hiện được một số các quyền và nghĩa vụ cho nên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ,
BLTTHS đã quy định một số quyền và nghĩa vụ đặc biệt dành cho bị can, bị cáo là người chưa
thành niên, trong đó có quyền bào chữa được quy định tại Điều 305 BLTTHS năm 2003. “Trong
trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không
lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật
sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận tổ quốc
(UBMTTQ) Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ
chức mình”. (Khoản 2 Điều 305)

×