Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.22 KB, 9 trang )

MỤC LỤC
Để thực hiện mục tiêu hoàn thiện nâng cao hoạt động của hệ thống chính trị,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân thì vấn đề tổ chức và hoạt động của bộ
máy Nhà nước được coi là một trong những nhân tố thúc đẩy nhanh hơn quá
trình dân chủ hóa và đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong hệ thống chính trị nước ta thì
Hội đồng nhân dân các cấp có vị trí rất quan trọng . Hội đồng nhân dân-cơ quan
quyền lực Nhà nước ở địa phương, cơ đại biểu của nhân dân địa phương trong
suốt quá trình hoạt động của mình đã từng bước hoàn thiện và trưởng thành góp
phần quan trọng trong tổ chức bộ máy Nhà nước cũng như đảm bảo quyền làm
chủ của nhân dân. Bởi vậy việc nắm vững tổ chức và hoạt động của hội đồng
nhân dân là một việc làm cần thiết.
B/ NỘI DUNG
1. Địa vị pháp lý của Hội đồng nhân dân.
HĐND là thiết chế thực hiện quyền lực của nhân dân địa phương hay nói cách
khác, trong chế độ dân chủ, quyền lực của nhân dân địa phương được tập trung
trong một cơ quan đại diện cho họ trong việc giải quyết tất cả các vấn đề quan
trọng của đời sống xã hội ở địa phương – đó chính là HĐND. Điều 119 Hiến
pháp năm 1992 và Điều 1 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định:
“HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương đại diện cho ý chí, nguyện
vọng, quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên”. Quy định trên
cho thấy vai trò, vị trí, tính chất của HĐND nó vừa là cơ quan quyền lực Nhà
nước ở địa phương vừa là cơ quan đại biểu của nhân dân địa phương đại diện
cho ý chí của nhân dân.
2. Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
Theo Điều 3 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: “HĐND và
UBND tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; HĐND và
UBND thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo Hiến Pháp, luật và các cơ
quan Nhà nước cấp trên; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường
pháp chế XHCN, ngăn ngừa các biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham
nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm và các biểu hiện tiêu cực khác của cán bộ, công


chức và trong bộ máy chính quyền địa phương”
2.1. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân
Điều 4, Luật tổ chức HDND và UBND năm 2003 thì HDND và UBND được tổ
chức ở các đơn vị hành chính sau: tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương (gọi
chung là cấp tỉnh); huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp
huyện); xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã). Tuy nhiên, HĐND ở các cấp
khác nhau thì được tổ chức khác nhau. Hiện nay, 10 tỉnh đang thí điểm về việc
không tổ chức HĐND cấp huyện. Trong cơ cấu tổ chức của HĐND có Thường
trực HĐND và các ban của HĐND.
2.1.1. Thường trực Hội đồng nhân dân
2
Thường trực HĐND mới được thành lập ra từ sau khi có Luật tổ chức HĐND
và UBND 6 – 1989. Lúc đầu, Thường trực HĐND mới chỉ thành lập ở cấp tỉnh
và huyện gồm Chủ tịch, Phó chủ tịch và thư kí; ở cấp xã không thành lập thường
trực mà chỉ có ban thư kí. Đến hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức HĐND và
UBND năm 1994 có một số thay đổi về tổ chức Thường trực HĐND. Lúc này
Thường trực chỉ còn gồm có chủ tịch và phó chủ tịch mà không còn chức danh
thư kí. Ở cấp xã bỏ Ban Thư kí mà thành lập HĐND (có phó chủ tịch). Luật tổ
chức HĐND và UBND năm 2003 quy định tổ chức thường trực HĐND ở tất cả
các cấp nhưng ở tỉnh và huyện có thêm Ủy viên thường trực, còn ở cấp xã vẫn
chỉ có Chủ tịch và Phó chủ tịch HĐND. Như vậy, theo Luật hiện hành thì
thường trực HĐND có ở cả 3 cấp (tỉnh, huyện, xã).
Thường trực HĐND do HĐND cùng cấp bầu ra. Tại kì họp đầu tiên của mỗi
khóa HĐND, Thường trực được chọn bầu ra trong số đại biểu, theo thể thức: bầu
Chủ tịch HĐND theo sự giới thiệu của chủ tọa kì họp (chủ tọa kì họp này là Chủ
tịch HĐND khóa trước, nếu khuyết thì do phó chủ tịch và nếu khuyết cả hai thì
là triệu tập viên do Thường trực HĐND cấp trên trực tiếp chỉ định), bầu Phó chủ
tịch và ủy viên thường trực theo sự giới thiệu của chủ tịch. Đại biểu HĐND có
quyền giới thiệu và ứng cử vào các chức vụ đó. Thành viên của thường trực
không thể đồng thời là thành viên của UBND cùng cấp. Kết quả bầu này phải

được thường trực HĐND cấp trên trực tiếp phê chuẩn. Trong khi chờ phê chuẩn,
những người được bầu giữ các chức vụ trên được thực hiện ngay nhiệm vụ,
quyền hạn của mình ngay khi bầu theo khoản 3 Điều 51 Luật tổ chức HĐND và
UBND.
Nhiệm kì của thường trực HĐND (cũng như của UBND, các ban của HĐND)
và các chức vụ trong đó theo nhiệm kì của HDND hiện là 5 năm. Lần đầu tiên,
tại Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, pháp luật quy định chủ tịch
HĐND (và Chủ tịch UBND) ở một đơn vị hành chính không giữ quá hai nhiệm
kì liên tục (Điều 6). Quy định này, cũng giống như quy định nhiệm kì của cơ
quan đại diện nói chung, là nhằm mục đích để giám sát đối với các đại diện
được bầu ra và tạo cơ hội để các nhân tố mới tham gia vào hoạt động của cơ
quan quyền lực nhà nước.
2.1.2 Các ban của Hội đồng nhân dân
Các ban của HĐND là hình thức tham gia tập thể của các đại biểu HĐND vào
việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của HĐND theo quy định của pháp
luật. Các ban được HĐND thành lập theo nhu cầu công tác. Ban của HĐND
được thành lập ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thành
phố trực thuộc tỉnh và thị xã. Ở cấp xã, phường, thị trấn không có các Ban.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì HĐND cấp tỉnh được thành lập ba
Ban: Ban kinh tế và ngân sách; Ban văn hóa – xã hội; Ban pháp chế. Ở những
tỉnh có nhiều dân tộc có thể thành lập Ban dân tộc để giúp HĐND thực hiện và
3
giám sát việc thực hiện chính sách dan tộc của Đảng và Nhà nước. Ở cấp huyện
thành lập hai ban: Ban kinh tế - xã hội; Ban pháp chế.
Các Ban của HĐND được thành lập tại kì họp thứ nhất của mỗi khóa HĐND.
Số lượng thành viên của mỗi Ban do HĐND cùng cấp quyết định và bầu chọn
trong số đại biểu có năng lực kiến thức chuyên môn, phù hợp với nhiệm vụ của
Ban, có điều kiện thực tế tham gia các hoạt động của Ban. Thành viên của các
Ban không thể đồng thời là thành viên UBND cùng cấp. Trưởng Ban và các
thành viên của Ban do HĐND bầu bằng cách bỏ phiếu kín theo danh sách từng

ban do chủ tịch HĐND từng ban giới thiệu. Các đại biểu cũng có quyền giới
thiệu và ứng cử vào các chức vụ trên.
2.2. Các hình thức hoạt động của Hội đồng nhân dân
Điều 8 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: “hiệu quả hoạt
động của HĐND được đảm bảo bằng hiệu quả của các kỳ họp HĐND,hiệu quả
hoạt động của Thường trực HĐND,các ban của HĐND và của các đại biểu
HĐND”.Như vậy, hoạt động của HĐND bao gồm hoạt động của HĐND thông
qua kỳ họp, hoạt động của Thường trực HĐND, của các ban HĐND và hoạt
động của đại biểu HĐND.
2.2.1.Kỳ họp của Hội đồng nhân dân.
Kỳ họp chiếm địa vị đặc biệt quan trọng trong hoạt động của HĐND, bởi vì đó
là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trong nhất của HĐND. HĐND làm việc
tập trung và có hiệu quả nhất trong các kỳ họp của mình. Thông qua kỳ họp, ý
chí,nguyện vọng của nhân dân địa phương được chuyển thành quyết định của cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, có ý nghĩa bắt buộc chung.Tại kỳ họp
còn quyết định các biện pháp để thi hành quyết định,chỉ thị,pháp luật của Nhà
nước ở địa phương, thực hiện quyền giám sát việc thực hiện nghị quyết và hoạt
động của các cơ quan trực thuộc HĐND và các cơ quan, tổ chức xã hội khác ở
địa phương.
Theo quy định của pháp luật hiện hành,kỳ họp HĐND các cấp họp mỗi năm 2
kỳ(trước đây quy định là 3 tháng họp 1 kỳ). Ngoài những kỳ họp thường lệ,
HĐND tổ chức các kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường theo đề nghị của
Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND cùng cấp hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu yêu
cầu. Kỳ họp HĐND do Thường trực HĐND cùng cấp triệu tập. Kỳ họp thứ nhất
mỗi khóa HĐND do Chủ tịch HĐND cùng cấp khóa trước triệu tập và chủ tọa
cho đến khi bầu được Chủ tịch HĐND khóa mới. Trường hợp khuyết Chủ tịch
thì Phó Chủ tịch triệu tập và chủ tọa. Nếu khuyết cả hai thì Thường trực HĐND
cấp trên trực tiếp (ở cấp tỉnh thì do Ủy ban Thường vụ Quốc hội) chỉ định triệu
tập viên để triệu tập và chủ tọa. Kỳ họp HĐND được tiến hành khi có ít nhất 2/3
tổng số đại biểu HĐND tham dự.

Về nguyên tắc, tất cả nhiệm vụ.quyền hạn của HĐND sẽ được HĐND quyết
định tại kỳ họp. Kỳ họp có thể quyết định vấn đề gì thuộc thẩm quyền của cơ
4
quan quyền lực nhà nước ở địa phương.Tuy nhiên, không phải bất cứ vấn đề gì
cũng đem ra giải quyết mà cũng không cần thiết phải như vậy. HĐND có thể
phân giao cho Thường trực hoặc các ban giải quyết trong khuôn khổ pháp luật.
Trước ngày họp 30 ngày, Thường trực HĐND họp với UBND, trưởng, phó
ban của HĐND quyết định chương trình và các vấn đề sẽ bàn và giao cho các cơ
quan chuẩn bị. Các báo cáo, đề án và các vấn đề sẽ bàn trong kỳ họp do Thường
trực HĐND cùng với UBND, các ban của HĐND (ở tỉnh, huyện), Chủ tịch
UBND cùng với Thường trực HĐND (ở xã,phường,thị trấn) chuẩn bị.
Về hình thức họp thì HĐND họp công khai. Khi cần thiết HĐND quyết định
họp kín theo đề nghị của chủ tọa cuộc họp hoặc của Chủ tịch UBND cùng cấp.
Ngày họp, nơi họp và dự kiến chương trình làm việc của kỳ họp phải được
thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng cho nhân dân biết, chậm nhất
là 5 ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp. Tài liệu cần thiết của kỳ họp HĐND phải
được gửi đến đại biểu HĐND trước ngày khai mạc kỳ họp. Các đại biểu được
mời tham dự kỳ họp được phát biểu ý kiến nhưng không biểu quyết. Các cơ
quan thông tin báo chí được mời tham dự các kỳ họp công khai.
Kỳ họp HĐND có thể có nhiều nội dung,công việc khác nhau phụ thuộc vào
tính chất của mỗi kỳ họp và nhu cầu công việc hiện tại. Trong kỳ họp đầu tiên
của mỗi khóa HĐND chủ yếu là công tác tổ chức, xây dựng bộ máy nhà nước ở
địa phương. Kỳ họp đầu năm HĐNĐ tập trung thảo luận và quyết định kế hoạch
và dự toán ngân sách,quyết định chương trình hoạt động trong năm, quyết định
các vấn đề thiết thực về kinh tế,văn hóa,an ninh,quốc phòng…Trong các kỳ họp
cuối năm HĐND nghe và thảo luận báo cáo kiểm điểm công tác của Thường
trực, UBND, Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND, các ngành kinh tế-xã
hội…ở địa phương. Chủ tọa kỳ họp có nhiệm vụ điều khiển các hoạt động theo
chương trình đã được HĐND thông qua, tổ chức, thảo luận, lấy biểu quyết các
vấn đề nêu ra, xem xét lại các nghị quyết và biên bản trước khi Chủ tich HĐND

ký chứng thực.
Một nội dung quan trọng của các kỳ họp HĐND là thực hiện quyền chất vấn
của đại biểu HĐND đối với UBND, các thành viên của Ủy ban, Thủ trưởng các
cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Chánh án TAND và Viện trưởng VKSND
cùng cấp. Chất vấn là hình thức quan trọng qua đó HĐND giám sát hoạt động
của các cơ quan thuộc HĐND và các cơ quan khác trên phạm vi lãnh thổ. Đại
biểu HĐND có quyền chất vấn về bất cứ vấn đề gì thuộc thẩm quyền xem xét
của HĐND. Chất vấn không phải là câu hỏi thông thường mà là một đòi hỏi làm
rõ về một hay nhiều sự việc “có vấn đề”, tức là các biểu hiện của sự không chấp
hành hoặc thi hành không đúng Nghị quyết của HĐND và của cấp trên hướng
dẫn, có biểu hiện vi phạm pháp luật mà đại biểu thấy có cơ sở vững chắc. Nếu
chất vấn cua đại biểu nêu ra,được HĐND tán đồng (được chấp nhận) thì được
5

×