Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Đồng tiền chung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.46 KB, 50 trang )

Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới đã được chứng kiến một sự kiện kinh tế kỳ diệu trong thập kỷ vùa
qua, một sự kiện chưa từng có trong lịch sử tiền tệ thế giới, một sự kiện đã được
Tổng thống Pháp Jacques Chirac gọi là "sự cải cách lớn nhất và quan trọng nhất về
kinh tế và tài chính trong vòng 50 năm qua". Đó là sự ra đời của Liên minh tiền tệ
châu Âu EMU và đồng tiền chung châu Âu EURO. Khác với các liên minh tiền tệ
trước đây hình thành trên cơ sở một mối quan hệ chính trị nào đó, Liên minh tiền tệ
châu Âu liên kết 12 quốc gia độc lập có chủ quyền với một mục tiêu chung là biến
châu Âu trở thành khu vực thịnh vượng và ổn định nhất trên thế giới.
Sự thành công và bài học kinh nghiệm của các nước châu Âu đã cho các nước
Đông Nam á niềm tin vào triển vọng hình thành một đồng tiền chung cho khu vực.
Trên thực tế, khả năng hình thành một liên minh tiền tệ ở Đông Nam á đã được một
số nhà kinh tế học bắt tay nghiên cứu từ năm 1994. Nhưng phải đến sau cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997, đề tài này mới trở thành mối quan tâm thực
sự đối với các nhà lãnh đạo cũng như các nhà kinh tế học ở Đông Nam á. Hy vọng
đồng tiền chung sẽ thúc đẩy nền kinh tế khu vực tăng trưởng ổn định, bền vững,
giảm bớt nguy cơ khủng hoảng và khẳng định được vị trí của mình trên các diễn đàn
kinh tế thế giới.
Nhóm thực hiện: 12
Trang 1
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
PHẦN A: LÝ THUYẾT ĐỒNG TIỀN CHUNG
I. Khái niệm đồng tiền chung.
Các quốc gia, dân tộc đang chuẩn bị hành trang cho một kỷ nguyên mới mà
một trong các đặc trưng cơ bản là xu hướng hợp tác, liên kết giữa các Quốc gia để
giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và môi trường mang tính chất
toàn cầu. Ngày nay trong quá trình phát triển của mình, các quốc gia trên thế giới
đang từng bước tạo lập nên các mối quan hệ song phương và đa phương nhằm từng
bước tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế với nhiều mức độ khác nhau, đem lại
lợi ích thiết thực cho mỗi bên. Chính các liên kết kinh tế quốc tế là biểu hiện của xu


hướng toàn cầu hoá khu vực hoá đang diễn ra hết sức sôi động trong những năm gần
đây.
Liên kết kinh tế quốc tế chính là sự thành lập một tổ hợp Kinh tế quốc tế của
các nước thành viên nhằm tăng cường phối hợp và điều chỉnh lợi ích giữa các bên
tham gia, giảm bớt sự khác biệt về điều kiện phát triển giữa các bên và thúc đẩy
Quan hệ kinh tế quốc tế phát triển cả bề rộng và chiều sâu. Quá trình Liên kết kinh tế
quốc tế đưa tới việc hình thành một thực thể kinh tế mới ở cấp độ cao hơn với các
mối Quan hệ kinh tế quốc tế phức tạp và đa dạng.
Một trong những kết quả của quá trình liên kết là Tạo lập được một đồng tiền
chung của Các quốc gia thành viên (hoặc nếu không là một hệ thống tỷ giá hối đoái
cố định không thể điều chỉnh, biên độ dao động bằng 0 và khả năng chuyển đổi vô
hạn giữa các đồng tiền của khu vực); đồng tiền chung được hình thành khi:
• Cần có tự do các dòng di chuyển vốn; và khi đồng tiền này ra đời thì dòng di
chuyển vốn của các thành viên trong khu vực hoàn toàn không bị ràng buộc
và tự do.
• Hình thành một hệ thống ngân hàng trung ương, tổ chức theo kiểu của Hệ
thống Dự trữ Liên bang; Ngân hàng Trung Ương này sẽ là cơ quan điều hành
và đề ra các chính sách tiền tệ đối với khu vực.
• Thành lập một "trung tâm quyết định chính sách kinh tế" chịu trách nhiệm tập
trung .
• Điều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo các tiêu chí
thống nhất
Nhóm thực hiện: 12
Trang 2
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
Cuối cùng, khi đồng tiền chung được hình thành thì các nước thành viên sử
dụng đồng tiền này được gọi là nên Liên minh tiền tệ - Một hình thức cao nhất của
liên kết kinh tế Quốc tế.
“Đồng tiền chung là một đồng tiền được sử dụng chung cho các quốc gia
thành viên, các quốc gia để được là thành viên trong khối nước sử dụng đồng tiền

chung cần thoả mãn các điều kiện mà khối thành viên quy đinh. Khi gia nhập đồng
tiền chung các quốc gia sẽ được hưởng nhận lợi ích cũng như những thách thức mà
đồng tiền này mang lại”
II. Những lợi ích trong việc sử dụng đồng tiền chung
Việc sử dụng đồng tiền chung mang lại nhiều lợi ích cho các nước thành viên
cũng như cho nền kinh tế:
Thúc đẩy mối liên kết kinh tế, tài chính, tiền tệ, thậm chí cả về chính trị
Giảm bớt chênh lệch giữa các quốc gia thành viên, thúc đẩy quá trình phát
triển của các nước mạnh mẽ và bền vững.
Việc luân chuyển tiền tệ, luân chuyển vốn dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Biên giới của đồng tiền chung được nới rộng hơn, công dân một nước có thể
đi lại và sử dụng cùng một đồng tiền trên lãnh thổ các nước khác mà không cần phải
chuyển đổi.
Đồng tiền chung ra đời giúp ngăn ngừa, kiểm soát khủng hoảng của khu vực:
• Thực tế nói lên rằng tất cả các nước trong khu vực đều không thể
thờ ơ trước cuộc khủng hoảng xảy ra ở một nước thành viên, vì những hậu quả
nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng như vậy rất có thể lây lan từ nước này sang
nước này sang nước khác và gây ra hậu quả nghiêm trọng. Đây chính là điều khiến
một nước trong khu vực quan tâm đến chính sách kinh tế vĩ mô mà các nươc trong
khu vực đã đưa ra và mong muốn đạt được một sự hợp tác trong lĩnh vực này.
• Nguyên nhân thứ hai là do gần đây các nước tăng tỷ lệ thương mại
nội bộ và cũng do các sản phẩm xuất khẩu của họ thường cạnh tranh với nhau trên
các thị trường thứ ba. Điều này khiến cho một số nước có động cơ để phá giá nhằm
tăng khả năng cạnh tranh. Do vậy, các nhà phân tích cho rằng thay vì phá giá để tăng
khả năng cạnh tranh cho riêng hàng hoá nước mình, một cơ chế phối hợp tỷ giá hối
đoái trong khu vực có thể sẽ mang lại thế cân bằng hợp tác tốt hơn và đem lại lợi ích
cho cả hai bên. Sự phối hợp chính sách tỷ giá hối đoái dần dần sẽ thúc đẩy nhu cầu
Nhóm thực hiện: 12
Trang 3
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo

phối hợp trong các lĩnh vực khác nữa, ví dụ như trong việc xây dựng các chính sách
tiền tệ.
Sự ra đời của đồng tiền chung giúp cho các nước thành viên tránh được sức ép
của việc phá giá đột ngột các đồng tiền quốc gia, cũng như việc các nhà đầu cơ tiền
tệ tranh thủ sự không ổn định của đồng tiền để đầu cơ làm ảnh hưởng đến sự phát
triển chung của toàn khối.
Cung cấp thêm nguồn lực tài chính cho các quốc gia thành viên.
Giảm bớt sức nặng của đồng USD trong dự trữ của các nước nội khối cũng như
của các nước ngoại khối, do vậy giảm bớt rủi ro hơn.
Ngoài ra đối với mỗi đồng tiền chung riêng còn đem lại những lới ích khác đến
với nền kinh tế.
III. Những khó khăn trong việc sử dụng đồng tiền chung.
• Sợ suy thoái: Một nền kinh tế trong khu vực gắp biến động ít nhiều sẽ ảnh
hưởng đến các nền kinh tế xung quanh.
• Mỗ
•Khác với các chu kỳ kinh tế
Tất cả các quốc gia trong khu vực sử dụng đồng tiền chung có chu kỳ kinh
tế khác nhau, hoặc đang ở các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ giữa sự bùng nổ và
suy thoái.
• Ngôn ngữ khó khăn, khác nhau về mặt pháp lý và lực lượng lao động
Các chuyên gia cảnh báo rằng liên minh tiền tệ chỉ có thể là một thành
công nếu toàn bộ khu vực được bao phủ bởi một đồng tiền chung có cùng một
khuôn khổ pháp lý (thuế, pháp luật lao động, ...) và một lực lượng lao động cao.
•Mất chủ quyền
Mất chủ quyền quốc gia là bất lợi nhất thường được nhắc đến của liên
minh tiền tệ.
Việc chuyển tiền và năng lực tài chính từ các quốc gia để cấp độ cộng
đồng, có nghĩa là các nước kinh tế mạnh và ổn định sẽ phải hợp tác trong lĩnh vực
chính sách kinh tế khác, yếu hơn, các nước, đó là khoan dung hơn để lạm phát cao
hơn.

•Chi phí cao: Chi phí một lần giới thiệu đồng tiền chung sẽ là đáng kể.
Nhóm thực hiện: 12
Trang 4
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
PHẦN B: CÁC ĐỒNG TIỀN CHUNG
I. EUR
1.Sơ lược về đồng tiền chung châu Âu(Euro)
Đồng tiền chung châu Âu (đồng EURO) chính thức ra mắt vào ngày
1/1/1999. EURO được quy định tỉ giá không đổi đối với các đồng tiền quốc gia
thuộc Liên minh Châu Âu (EU). Sự ra đời của đồng tiền chung châu Âu là một sự
kiện lịch sử đối với quá trình nhất thể hoá châu Âu và đánh dấu một bước phát triển
của hệ thống tiền tệ thế giới. Tham gia đồng EURO đợt đầu có 11/15 nước thành
viên của EU đã sử dụng EURO trong các giao dịch chuyển khoản song song với bản
tệ của các nước như : Đức, Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Hà Lan, Áo, Bỉ, Luxemburg,
Bồ Đào Nha, Phần Lan và Ailen. Ba nước Anh, Thụy Điển và Đan Mạch chưa tham
gia đợt này, còn Hy Lạp chưa đáp ứng đủ các tiêu chuẩn để trở thành thành viên.
Tại cuộc gặp cấp cao EU họp vào tháng 12-1995 các nhà lãnh đạo của EU
quyết định gọi đồng tiền chung châu Âu là EURO vì lý do sau:
- EURO không trùng tên với bất cứ đồng tiền của quốc gia thành viên nào
(ECU :đơn vị tiền tệ châu Âu, trùng tên với đồng tiền vàng của Pháp trước đây)
- EURO đều có thể viết bằng ngôn ngữ của tất cả các thành viên.
Từ ngày 01/01/2002, 12 nước trong EU đã lưu thông EURO tiền mặt và xóa
bỏ các đồng tiền bản tệ riêng biệt của các nước với 65 tỷ EUR tiền giấy và 35 tỷ
EUR tiền kim loại. EURO là đồng tiền chung của Liên minh Tiền Tệ Châu Âu
(còn gọi là Âu kim).
• Tiền giấy Euro giống nhau hoàn toàn trong tất cả
các nước. Tiền giấy Euro có mệnh giá 5 Euro, 10 Euro, 50 Euro, 100 Euro, 200
Euro và 500 Euro.
• Tiền kim loại Euro có cùng một mệnh giá ở mặt
trước hoàn toàn giống nhau trong tất cả các nước nhưng mặt sau là hình ảnh của

từng quốc gia, đặc trưng cho quốc gia phát hành. Thế nhưng vẫn có thể trả bằng tiền
kim loại trong khắp liên minh tiền tệ. Một Euro được chia thành 100 cent.
Tính đến ngày 1/1/2011 đã có 17 nước thành viên chính thức của Liên minh
Tiền Tệ Châu Âu
Ký hiệu: Mã IOS: EUR
Nhóm thực hiện: 12
Trang 5
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
2.Lịch sử ra đời của EURO
EURO Châu Âu với một đồng tiền chung duy nhất là mục tiêu phấn đấu
bền bỉ của EU. Vào năm 1970, đã có một kế hoạch đầy tham vọng gọi là kế hoạch
Werner (tên của thủ tướng Luxemburg) nhằm lập ra một liên minh kinh tế và tiền tệ
trong vòng 10 năm. Sau thời hạn đó, cộng đồng châu Âu sẽ có một thực thể tiền tệ
riêng biệt trong hệ thống tiền tệ quốc tế. Tuy nhiên hàng loạt các biến cố đã làm tiêu
tan kế hoạch đầy tham vọng này (sự tan vỡ của hệ thống tiền tệ Bretton Woods năm
1971, sự suy thoái kinh tế toàn cầu, khủng hoảng dầu lửa...). Tiếp đó, vào tháng 3
năm 1979, hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) đã ra đời, mục tiêu là nhằm tạo ra một
khu vực ổn định tiền tệ ở châu Âu tránh các dao động lớn, tạo điều kiện thuận lợi
cho nền kinh tế các nước thành viên xích lại gần nhau hơn. Hệ thống tiền tệ châu Âu
đã vận hành tốt và tạo ra một vùng tiền tệ ổn định và giảm được các rủi ro gây ra do
sự biến động tiêu cực của đồng USD và đồng Yên Nhật. Đó là những yếu tố quan
trọng làm cho các nước EU nhận thấy cần thiết phải thành lập một liên minh kinh tế
và tiền tệ (EMU). Liên minh này được ghi trong và được triển khai theo 3 giai đoạn :
Giai đoạn 1: Bắt đầu từ 1-7-1990 và kết thúc vào 31-12-1993. Nội dung chủ
yếu của giai đoạn này là tăng cường phối hợp chính sách tiền tệ quốc gia và rút ngắn
sự cách biệt giữa các nền kinh tế của các nước thành viên. Theo lịch trình của giai
đoạn này, từ1-7-1990, mọi hạn chế trong việc lưu hành tư bản giữa các nước EU sẽ
bị dỡ bỏ, từ1-1-1993, thị trường nội địa bắt đầu vận hành.
Giai đoạn 2 : Được coi là giai đoạn chuyển tiếp và bắt đầu từ 1-1-1994 với
sự kiện Viện tiền tệ châu Âu (EMI) được thành lập cho đến ngày 31-12-1998. Theo

lịch trình của giai đoạn này, sự chuẩn bị cho sự ra đời của Ngân hàng trung ương
châu Âu đã ở giai đoạn cuối cùng, chính sách tiền tệ vẫn chủ yếu thuộc thẩm quyền
của các quốc gia.
Giai đoạn 3 : Từ 1-1-1999 bắt đầu đưa đồng EURO vào lưu hành. Giai đoạn
đầu từ 1-1-1999 đến 1-1-2002 đồng EURO chỉ lưu hành không bằng tiền mặt. Từ 1-
1-2002 đến tháng 7-2002 bắt đầu lưu hành đồng EURO bằng tiền giấy và tiền kim
loại song song với các đồng tiền bản địa, và từ tháng 7-2002 các đồng tiền bản địa
không còn tồn tại.
Sự ra đời đồng tiền chung châu Âu là kết quả của một quá trình phấn đấu đầy
gian khổ của chính phủ các nước thuộc EU nhằm thực hiện liên minh kinh tế và tiền
tệ. Nếu không có đồng tiền chung thì thị trường chung châu Âu không thể hoàn thiện
và không có ý nghĩa nhiều trên thực tế.
3. Cơ chế hình thành và các nước thành viên
Nhóm thực hiện: 12
Trang 6
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
3.1. Cơ chế hình thành
Trước khi một đất nước gia nhập khối tiền tệ chung này, họ phải tuân thủ các
tiêu chuẩn kinh tế được quy định trong Hiệp ước Maastricht phải là thành viên ERM
II trong hai năm và đồng tiền của quốc gia này phải có biên độ giao động trên dưới
15% so với đồng euro.
Còn đối với các quốc gia sử dụng đồng tiền chung Châu Âu vào ngày
1/1/1999 thì phải xác định được tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái của các tiền tệ chính
thức của các quốc gia là thành viên của liên minh tiền tệ được quy định vào ngày 31
tháng 12 năm 1998 dựa trên cơ sở giá trị tính chuyển đổi của đồng ECU (European
Currency Unit). Vì thế mà đồng Euro bắt đầu tồn tại như là tiền để thanh toán trong
kế toán (chưa có tiền mặt): đồng Euro về mặt hình thức trở thành tiền tệ của các
nước thành viên, các tiền tệ quốc gia có địa vị là một đơn vị dưới Euro và có tỷ giá
cố định không đổi. Tỷ giá này được quy định bao gồm có 6 con số để giữ cho các sai
sót làm tròn ít đi. Một đồng Euro tương ứng với:

Các đơn vị tiền tệ quốc gia trước đây của Eurozone
Đơn vị tiền tệ Ký hiệu Tỷ giá Thay đổi
Hoàn
thành
Schilling Áo
ATS
13,7603 31 tháng 12 năm 1998 2002
Franc Bỉ
BEF
40,3399 31 tháng 12 năm 1998 2002
Gulden Hà Lan
NLG
2,20371 31 tháng 12 năm 1998 2002
Markkaa Phần Lan
FIM
5,94573 31 tháng 12 năm 1998 2002
Franc Pháp
FRF
6,55957 31 tháng 12 năm 1998 2002
Mark Đức
DEM
1,95583 31 tháng 12 năm 1998 2002
Pound Ireland
IEP
0,787564 31 tháng 12 năm 1998 2002
Lira Ý
ITL
1.936,27 31 tháng 12 năm 1998 2002
Nhóm thực hiện: 12
Trang 7

Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
Franc Luxembourg
LUF
40,3399 31 tháng 12 năm 1998 2002
Escudo Bồ Đào Nha
PTE
200,482 31 tháng 12 năm 1998 2002
Peseta Tây Ban Nha
ESP
166,386 31 tháng 12 năm 1998 2002
Drachma Hy Lạp
GRD
340,750 19 tháng 6 năm 2000 2002
Tolar Slovenia
SIT
239,640 11 tháng 7 năm 2006 2007
Pound Síp
CYP
0,585274 10 tháng 7 năm 2007 2008
lira Malta
MTL
0,429300 10 tháng 7 năm 2007 2008
Koruna Slovak
SKK
30,1260 8 tháng 7 năm 2008 2009
Sau khi đồng Euro được sử dụng như là tiền dùng để thanh toán trong kế toán,
các tiền tệ là thành viên chỉ được phép tính chuyển đổi với nhau thông qua đồng
Euro, tức là trước tiên phải tính chuyển từ tiền tệ khởi điểm sang Euro và sau đấy từ
Euro sang tiền tệ muốn chuyển đổi. Cho phép làm tròn số bắt đầu từ ba số sau dấu
phẩy ở tiến Euro và tiền muốn chuyển đổi. Phương pháp này là quy định bắt buộc

của Ủy ban châu Âu nhằm tránh các sai sót trong lúc làm tròn số có thể xuất hiện khi
tính toán chuyển đổi trực tiếp.
Tỷ giá hối đoái EUR/USD từ 1999-2010
Đô la Mỹ trên 1 euro
1999–2010
Nhóm thực hiện: 12
Trang 8
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
Thấp nhất ↓ Cao nhất ↑
Ngày Tỷ giá Ngày Tỷ giá
1999 03/12 $1.0015 05/01 $1.1790
2000 26/10 $0.8252 06/01 $1.0388
2001 06/07 $0.8384 05/01 $0.9545
2002 28/01 $0.8578 31/12 $1.0487
2003 08/01 $1.0377 31/12 $1.2630
2004 14/05 $1.1802 28/12 $1.3633
2005 15/11 $1.1667 03/01 $1.3507
2006 02/01 $1.1826 05/12 $1.3331
2007 12/01 $1.2893 27/11 $1.4874
2008 27/10 $1.2460 15/07 $1.5990
2009 04/03 $1.2555 03/12 $1.5120
2010 05/05 $1.2924 13/01 $1.4563
Nguồn: Euro exchange rates in USD, ECB
3.1.2.Quá trình thay các đồng tiền nội địa thành đồng Euro
Ngay sau khi đồng Euro trở thành tiền tệ chính thức, ngày 2 tháng 1, một số
sàn giao dịch ở Milano (Italia), Paris (Pháp) và Frankfurt am Main (Đức) đã định giá
tất cả các chứng khoán bằng Euro. Cũng tại thời điểm đồng Euro trở thành tiền tệ
chính thức cách ghi giá cho ngoại tệ đã được thay đổi, từ 1USD=xxx DEM thành
1EUR = xxx USD.Các tài khoản và sổ tiết kiệm được phép ghi bằng Euro và tiền cũ.
Nhóm thực hiện: 12

Trang 9
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
Cổ phiếu và các chứng khoán khác chỉ còn được phép mua bán bằng Euro. Việc phát
hành đồng Euro đến người tiêu dùng bắt đầu vào ngày 1 tháng 1 năm 2002.
Các nước đều có một thời gian chuyển tiếp nhất định, kéo dài đến hết tháng 2-
2002 hoặc đến hết tháng 6-2002, đồng Euro và tiền quốc gia cũ tồn tại song song
như tiền tệ chính thức. Sau thời gian được quy định, tiền quốc gia vẫn được đổi sang
Euro tại các Ngân hàng quốc gia, tùy theo quy định của từng nước. Từ ngày 28-2-
2002 pháp luật Đức quy định về việc chuyển đổi đồng Euro không tốn lệ phí tại các
ngân hàng, và khác với các nước, quy định này tại Đức là không thời hạn. Tuy nhiên
đến tháng 5 năm 2005 vẫn còn lưu hành 3,72 tỉ Euro tiền kim loại Mark Đức. Tổng
giá trị của tiền giấy chưa đổi thành tiền Euro ở vào khoảng 3,94 tỉ Euro. Theo nhận
xét của Ngân hàng liên bang Đức phần lớn số tiền này là tiền đã bị tiêu hủy hay đánh
mất.
3.2 Các nước thành viên:
Khu vực Euro
  Khu vực Euro (17)
  Những quốc gia thuộc Liên Âu quy định sẽ phải gia nhập hệ thống Euro(9)
  Quốc gia thuộc Liên Âu có quyền rút khỏi hệ thống Euro(1)
  Quốc gia Liên Âu dự định mở cuộc trưng cầu dân ý về việc gia nhập hệ thống
Euro nhưng với quyền rút khỏi hệ thống(1)
  Khu vực ngoài khối Liên Âu dùng Euro theo thỏa hiệp riêng(5)
  Khu vực ngoài khối Liên Âu dùng Euro mà không có thỏa hiệp(4)
Nhóm thực hiện: 12
Trang 10
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
Các nước hay lãnh thổ ngoài Liên minh châu Âu nhưng sử dụng đồng Euro được tô
đậm bằng đường gạch màu xanh.
17 nước thành viên chính thức của Liên minh châu Âu:
Áo

Bỉ
Bồ Đào Nha
Cyprus : gia nhập đồng Euro 1/1/2008
Đức
Hà Lan
Hy Lạp
Ireland
Luxembourg
Malta
Pháp
Phần Lan
Tây Ban Nha
Ý
Slovenia : gia nhập đồng Euro ngày 1/1/2007
Slovakia : gia nhập 1/1/2009
Estonia :gia nhập ngày 1/1/2011
Một vài quốc gia khác đã tham gia vào liên minh tiền tệ với thành viên trong
vùng Euro và vì vậy cũng đưa đồng Euro vào sử dụng như là tiền tệ chính thức. Các
quốc gia này là:
Monaco
Tòa thánh Vatican
San Marino
Bên cạnh các thành viên chính thức, một số quốc gia hay địa phận khác cũng
đã tự quyết định chọn Euro làm tiền tệ chuẩn (không có quyết định của EU):
Nhóm thực hiện: 12
Trang 11
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
Andorra (có ý định phát hành tiền kim loại Euro, đến nay vẫn không có sự đồng
ý của EU)
Kosovo

Montenegro
Các thành viên không chính thức này đã từ bỏ tiền tệ riêng hay từ bỏ một
trong số những tiền tệ trước đây và thay vào đó là dùng Euro, vì thế mà (về mặt đồng
Euro) các thành viên này không còn độc quyền tiền tệ nhưng lại không có ảnh hưởng
đến chính sách lãi suất của Ngân hàng Trung ương châu Âu.
Tính tại thời điểm tháng 1 năm 2009, có 11 quốc gia thành viên Liên minh
châu Âu sau đây vẫn chưa tham gia vào khu vực đồng Euro:
Anh
Ba Lan
Bulgaria
Cộng hòa Séc
Đan Mạch
Hungary
Latvia
Litva
Romania
Thụy Điển
Anh, Đan Mạch và Thụy Điển đã quyết định không dùng tiền tệ mới và vẫn
giữ tiền tệ chính thức của quốc gia. Ngày 14 tháng 9 năm 2003, qua một cuộc trưng
cầu dân ý, Thụy Điển từ chối không tham gia Liên hiệp Kinh tế và Tiền tệ châu Âu.
Theo hiệp định gia nhập vào EU của Thụy Điển, đất nước này phải đưa đồng Euro
vào lưu hành như là tiền tệ chính thức và như thế là thật ra không có khả năng lựa
chọn. Thụy Điển hiện thời đang ngăn trở việc đưa đồng Euro vào sử dụng bằng cách
không hoàn thành việc gia nhập vào Cơ chế Tỷ giá hối đoái II. Ngược lại Anh và
Đan Mạch có quyền dứt khoát không tham gia đã được thỏa thuận trong hiệp định.
Các quốc gia Ba Lan, Cộng hòa Séc, Hungary, Latvia, Litva, gia nhập EU
ngày 1 tháng 1 năm 2004, Bulgaria và Romania mới gia nhập EU vào ngày 1 tháng 1
năm 2007. Các quốc gia EU mới này không có khả năng từ chối đồng Euro như Anh
Nhóm thực hiện: 12
Trang 12

Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
và Đan Mạch, nhưng lại chỉ có thể gia nhập vào Liên minh Kinh tế và Tiền tệ châu
Âu sau khi thỏa mãn được các điều kiện hội tụ (qua 2 năm là thành viên của Cơ chế
Tỷ giá hối đoái II và các điều kiện khác).
Ngoài 13 nước trong Khu vực đồng Euro đã lưu hành và sử dụng chính thức
đồng Euro, một số quốc gia khác đã tham gia vào Liên minh tiền tệ với thành viên
trong khu vực và sử dụng đồng Euro như tiền tệ chính thức. Bên cạnh các thành viên
chính thức, một số quốc gia hay địa phận khác cũng đã tự quyết định chọn Euro làm
tiền tệ chuẩn (không có quyết định của EU). Thêm vào đó, nhiều quốc gia khác bắt
đầu coi đồng Euro là một ngoại tệ quan trọng, thay chỗ cho đồng Đô la Mỹ.
Các thành viên EU như Đan Mạch, Estonia, Latvia, Litva, Malta, và Síp cam
kết giữ tỉ giá tiền tệ của mình đối với đồng Euro trong khoảng giao động cho phép
của Cơ chế Tỷ giá hối đoái II (ERM II). Các quốc gia Anh, Đan Mạch, Thụy
Điển đã quyết định không dùng đồng Euro và vẫn giữ tiền tệ chính thức của quốc
gia.
4. Vị thế:
Khởi đầu, thậm chí trước khi đồng tiền này chính thức ra thị trường, mọi
người đã nghi ngờ và có cái nhìn tiêu cực về mọi điều, nhưng 3 năm qua và đến nay
đồng Euro tiếp tục mạnh lên. Các nhà phân tích thị trường tiền tệ cho rằng cái nhìn
tiêu cực giờ đây đã là chuyện lịch sử. Euro giờ được xem là đồng tiền mạnh.
Ngoài Eurozone, tiền giấy Euro được sử dụng khá thông dụng, thậm chí được
lưu hành gần như song song với đồng nội tệ trong các giao dịch thanh toán quốc tế.
Lượng tiền mặt lưu hành trên thị trường tăng nhanh và đã lên tới 600 tỷ Euro tính
đến cuối năm 2006. Đồng Euro ngày càng được các công ty cũng như các chính phủ
từ Trung Quốc đến Trung Đông chấp nhận nhiều hơn như một ngoại tệ dự trữ . Đồng
đô la Mỹ có lúc trồi sụt, gây thiệt hại kinh tế, mất an toàn cho nền tài chính tiền tệ
các nước và nhiều nước chủ trương thay thế vị trí độc tôn của USD bằng Euro.
Từ năm 2002 – 2007 đồng EUR liên tục tăng giá là bằng chứng chứng tỏ
đồng tiền này có thể trở thành nguồn dự trữ ngoại tệ trao đổi chủ yếu trên thế giới
trong những năm tiếp theo.

Tính đến cuối năm 2003, dự trữ toàn cầu đạt 3.014 tỷ USD, tăng 26%
so với năm 2002. Trong đó, dự trữ ngoại hối toàn cầu bằng đồng Euro đã tăng từ
19,3% lên 19,7%. Dự trữ bằng Euro của các nước đang phát triển tăng 1% và dự trữ
ngoại hối bằng euro của các nước phát triển hiện ở mức 20,9%.
Nhóm thực hiện: 12
Trang 13
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
Các quốc gia sử dụng tỷ giá hối đoái cố định hay thả nổi có kiểm soát đều có
sự can thiệp vào thị trường ngoại hối đề duy trì tỷ giá phù hợp với cơ chế đã chọn.
Khi đó, đồng Euro với vai trò là đồng tiền tham chiếu thường được sử dụng để can
thiệp.
Sau đây là Tỷ lệ Euro trong dự ngoại hối tòan cầu:
Năm 2001 2002 2003 2005 2006 2008 2009 Q1/2010
Tỷ lệ EUR (%) 13 16.4 18.7 24.8 25.8 27.8 27.3 27.2
Tỷ lệ USD(%) 68.3 67.5 64.5 66.3 62.8 62.2 61.7
Những số liệu trên phản ánh phần nào vị thế của đồng EUR trên thế giới.
Đồng EUR càng khẳng định mình là một đồng tiền mạnh.
Đồng thời chia sẻ tầm quan trọng của đồng Đôla Mỹ với chức năng là tiền tệ
dự trữ thế giới. So với năm 2001 tỷ lệ đồng EUR trong dự trữ toàn cầu chỉ ớ mức
13% nhưng qua mỗi năm tỷ lệ này càng tăng lên và tính đến quý I năm 2010 tỷ lệ
này là 27.2% (gấp 2 lần)
5.Tác động của EURO
a.- Đối với các nước EU :
Việc 11 nước ban đầu tham gia EMU với 290 triệu dân sẽ hình thành một thị
trường rộng lớn trên thế giới và nền kinh tế gần tương đương với Mỹ có trình độ
phát triển kinh tế cao. Như vậy các nước EU sẽ trở thành một khối kinh tế vững
mạnh hơn, liên kết chặt chẽ hơn, và do đó địa vị của EU sẽ được nâng cao, nhất là
trong quan hệ kinh tế với Mỹ.
EMU và đồng EURO ra đời sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước
EU, thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế giữa các nước này, tạo điều kiện thực hiện

liên minh kinh tế tiền tệ châu Âu, tiến tới thống nhất châu Âu về kinh tế và chính trị.
Đồng tiền chung ra đời sẽ góp phần hoàn thiện thị trường chung châu Âu, góp phần
gỡ bỏ những hàng rào phi quan thuế còn lại, tác động tích cực đến hoạt động kinh tế,
tài chính, đầu tư, tiết kiệm chi phí hành chính. Theo bản báo cáo năm 1988 và Uỷ
ban châu Âu, việc thực hiện liên minh tiền tệ có thể đem lại lợi cho các nước EU
khoảng 200 tỉ ECU và giúp làm tăng thêm 1% GDP của các nước thành viên.
Sự ra đời của đồng EURO sẽ giúp cho các nước thành viên tránh được sức ép
của việc phá giá đột ngột các đồng tiền quốc gia (sau này sẽ không còn tồn tại) cũng
Nhóm thực hiện: 12
Trang 14
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
như việc các nhà đầu cơ tiền tệ tranh thủ sự không ổn định của đồng tiền để đầu cơ
làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của toàn khối.
Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) năm 1992 là một ví dụ.
Để thu hút ngoại tệ trang trải cho những tốn kém trong việc khôi phục lại nền kinh tế
bị phá sản của Đông Đức, nước Đức đã áp dụng chính sách giữ lãi suất rất cao làm
cho các nhà tư bản quốc tế bị lợi nhuận quyến rũ đã đổ tiền vào Đức; trong khi đó,
với mục tiêu chống lạm phát, Pháp muốn duy trì lãi suất thấp vừa phải. Nhưng do tất
cả các đồng tiền trong EMS vốn liên quan mật thiết với nhau nên Pháp không thể
đơn phương hạ lãi suất mà không làm cho đồng phrăng Pháp (FF) hạ giá so với đồng
mác Đức (DM). Giới đầu cơ tính toán rằng đã đến lúc đồng FF sẽ phải phá giá và họ
đã tập trung vào tấn công đồng FF. Hậu quả là đồng FF bị phá giá và làm cho cả
EMS bị lung lay. Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) vào năm 1992-
1993 đã làm cho hệ thống tiền tệ châu Âu cũng như nền kinh tế các nước thành viên
bị chao đảo và chịu nhiều thiệt hại. Sự bất ổn định của tiền tệ châu Âu đã làm cho
các nước thành viên EU bị mất 1,5 triệu việc làm trong năm 1995.
Việc ra đời của đồng EURO với ngân hàng trung ương độc lập - Ngân hàng
Trung ương châu Âu (ECB) - thay thế các ngân hàng trung ương các nước thành
viên, với mục tiêu thực hiện một chính sách tiền tệ theo hướng giữ ổn định sẽ tạo cơ
sở cho kinh tế phát triển không còn lạm phát, đem lại những điều kiện thuận lợi cho

việc hoạch định một chính sách tài chính vĩ mô cho liên minh, là một bảo đảm giữ
cho nền kinh tế ở khu vực này ổn định và phát triển hơn trước. Trước mắt, người tiêu
dùng và các doanh nghiệp ở mỗi nước thành viên sẽ bớt được một khoản chi phí
chuyển đổi ngoại tệ trong giao dịch quốc tế mà các nhà kinh tế cho rằng việc này sẽ
tiết kiệm được một khoản tiền 100 tỷ mác hoặc không dưới 1% GDP của các nước
thành viên. Hơn nữa, khi đồng EURO được lưu hành trên thị trường, mọi hàng hoá
bày bán trong các nước thành viên đều được niêm yết giá bằng đồng EURO nên sẽ
làm giảm sự chênh lệch giá hay phiền phức về tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền
quốc gia. Người ta dự đoán là có thể sẽ xuất hiện một hiện tượng bùng nổ mua sắm
và như vậy sẽ kích cầu rất mạnh và làm tăng trưởng kinh tế khu vực.
Do buôn bán trong các nước EU chiếm đến 60% ngoại thương của cả khối, nên
việc sử dụng một đồng tiền chung sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh trao đổi ngoại thương
giữa các nước EU và ít bị ảnh hưởng xấu do sự giao động tỷ giá của đồng USD vì sẽ
không còn tình trạng đồng tiền này mất giá so với USD trong khi đồng tiền khác lại
lên giá. Tuy nhiên, việc ra đời EMU và duy trì đồng tiền chung ổn định và mạnh
không chỉ có những mặt thuận mà sẽ còn gây không ít khó khăn cho những nước
tham gia EMU:
Nhóm thực hiện: 12
Trang 15
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
• Trong việc phối hợp chính sách kinh tế tiền tệ; Việc ngân hàng Trung ương
châu Âu đảm nhiệm chức năng điều hành chính sách tiền tệ của cả khối sẽ làm cho
các nước tham gia EMU mất đi công cụ để điều tiết nền kinh tế và sẽ rất khó khăn
cho các nước này mỗi khi kinh tế gặp khủng hoảng.
• Việc duy trì được một đồng EURO mạnh là một vấn đề khó khăn cho các
nước tham gia vì các nước này có các nền kinh tế phát triển ở những mức độ khác
nhau, mỗi nước đều có những khó khăn riêng. Việc dung hoà lợi ích của các nước là
một cuộc đấu tranh gay go đòi hỏi phải có sự thoả hiệp lớn của mỗi nước. Mặt khác,
để đảm bảo cho EMU vận hành tốt, các nước tham gia phải tiếp tục phấn đấu đảm
bảo các chỉ tiêu EMU áp đặt, buộc chính phủ các nước này phải có những chính sách

ngặt nghèo trong ngân sách chi tiêu, chính sách thuế... phải thắt lưng buộc bụng, cắt
giảm chi tiêu cho phúc lợi xã hội. Điều này có thể gây ra những phản ứng mạnh mẽ
trong dân chúng, nhất là trong tầng lớp dân nghèo, trong ngành giáo dục, như đã
từng diễn ra ở nhiều nước Tây Âu trong mấy năm gần đây, và sẽ gây khó khăn cho
các chính phủ đương quyền mỗi khi các cuộc bầu cử đến gần.
• Một trong những vấn đề đặt ra cho các nước bạn hàng và con nợ của các
nước thành viên EMU là tỷ lệ chuyển đổi giữa đồng tiền quốc gia nước chủ nợ với
đồng EURO. Tuy đồng ECU đã tồn tại trong thanh toán quốc tế được một thời gian
và quy định chuyển đổi ngang bằng với đồng EURO làm dễ dàng phần nào những
giao dịch thương mại mới, nhưng những khoản nợ từ viện trợ, đầu tư... bằng đồng
tiền quốc gia cần có hướng giải quyết thoả đáng. Vì tuy rằng tỷ giá chuyển đổi đồng
tiền quốc gia sang đồng EURO là cố định, nhưng lãi suất sẽ có sự khác nhau giữa
các nước tham gia EMU. Cho nên điều quan trọng là các nước nợ phải có những trao
đổi và thương lượng để đi đến thống nhất một tỷ lệ lãi suất thích hợp sao cho số nợ
không bị gia tăng do việc ra đời của đồng EURO.
b.- Đối với thế giới :
• Tạo sự thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới.
Hệ thống tiền tệ quốc tế với đồng USD giữ vai trò khống chế trong suốt nửa thế
kỷ qua sẽ bị thay thế bởi hệ thống tiền tệ với hai đồng tiền quan trọng nhất là đồng
USD và đồng EURO chi phối. Với một nền kinh tế phát triển của 11 nước châu Âu
có 290 triệu dân, tổng sản phẩm quốc dân chiếm tới 19,6% của thế giới và 18,6%
thương mại toàn cầu, đồng EURO sẽ trở thành một đồng tiền ngoại tệ lớn và là đối
Nhóm thực hiện: 12
Trang 16
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
thủ đáng gờm đối với đồng USD. Các nước EU có 370 triệu dân với GDP 7.900 tỷ
USD, chiếm 20% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Trong khi đó Mỹ có 268 triệu
dân với GDP là 8.000 tỷ USD lại chỉ chiếm 15% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới.
Nếu đồng EURO giữ được ổn định thì sẽ có sức cạnh tranh mạnh và vị trí truyền
thống của đồng USD sẽ ngày càng bị suy giảm mạnh.

• Sự thách thức của đồng EURO đối với đồng USD thể hiện trên các lĩnh
vực dự trữ ngoại tệ, trao đổi ngoại thương và giá trị cổ phiếu trên các thị
trường chứng khoán.
Về dự trữ ngoại tệ : Khi EURO ra đời, ngoại thương của các nước tham gia sẽ
trở thành nội thương, nợ giữa các nước thành viên sẽ trở thành nợ bên trong, vì vậy
nhu cầu về dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ giảm mạnh. Do
đó, nhiều khả năng Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ bán đi một số lượng lớn
USD. Mặt khác khi đồng EURO trở thành đồng tiền chung của một khối kinh tế
mạnh thì nhiều nước trên thế giới (nhất là Nhật do hầu hết dự trữ ngoại tệ là USD) sẽ
giảm bớt một phần dự trữ bằng đồng USD để mua thêm đồng EURO (mức độ ít
nhiều còn tuỳ thuộc vào khả năng ổn định của đồng EURO). Đây có thể là một nhân
tố gây tác động làm giảm giá đồng đô la Mỹ. Thêm vào đó nhu cầu dự trữ về vàng
cũng sẽ giảm vì trước đây các nước chủ yếu dự trữ bằng vàng và USD, nay lại có
thêm một đồng tiền mạnh và ổn định có thể được sử dụng để dự trữ, do vậy trong
tương lai vàng sẽ bị bán ra nhiều nên giá vàng cũng sẽ bị giảm. Đây là điều mà
chúng ta phải tính đến trong cơ cấu dự trữ của ta sau này.
Về ngoại thương: trao đổi trong nội bộ khối trước đây (chiếm khoảng 60%
xuất khẩu) dùng nhiều USD (ngay cả những nước như Pháp và Hà Lan vốn rất gắn
chặt với đồng mác Đức cũng có xu hướng thanh toán với nhau bằng USD hơn là
bằng mác Đức) nay chuyển sang thanh toán bằng đồng EURO sẽ làm cho kim ngạch
thanh toán bằng đồng đô la Mỹ bị giảm sút đáng kể. Hiện nay trong tổng kim ngạch
xuất khẩu của EU thì phần tính bằng USD chiếm 48%, bằng tiền của các nước EU
chiếm 33%. Xét tổng thể, nền kinh tế các nước EU gần tương đương Mỹ, nhưng
tổng giá trị ngoại thương lại vượt hẳn Mỹ. Theo các nhà phân tích kinh tế, sau khi ra
đời, đồng EURO có thể chiếm khoảng 35-40% các khoản giao dịch và buôn bán
quốc tế. Trong buôn bán với Mỹ, các nước EU cũng sẽ buộc Mỹ phải sử dụng đồng
EURO, nên Mỹ cũng sẽ phải dự trữ cả EURO. Đối với thương mại thế giới khi đồng
EURO ra đời và được thừa nhận là đồng tiền mạnh và ổn định thì sẽ có xu hướng các
nước cũng sẽ sử dụng EURO thay thế USD trong thanh toán một số giao dịch ngoại
thương với nhau và trong buôn bán giữa EU với các nước khác, do đó sẽ làm giảm

nhu cầu sử dụng USD trong thương mại thế giới.
Nhóm thực hiện: 12
Trang 17
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
• Sự cạnh tranh về tiền tệ giữa đồng USD và đồng EURO có thể sẽ gây ra
một số rạn nứt trong quan hệ giữa Mỹ và EU và thúc đẩy xu thế đa cực, đa
trung tâm trong quan hệ quốc tế phát triển.
Chính phủ Mỹ tuy bên ngoài đã có những tuyên bố hoan nghênh sự ra đời của
đồng EURO và EMU, nhưng thực tế bên trong cũng hết sức lo ngại. Trước hết như
đã phân tích, đồng EURO ra đời sẽ là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm đối với đồng
USD và từng bước làm giảm vị trí truyền thống của đồng USD. Để đảm bảo cho
đồng EURO ổn định và vững mạnh, các chính phủ các nước tham gia EMU cũng
như Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ cần phải có những chính sách bảo vệ và
khuyến khích sử dụng đồng EURO, điều này chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng bất lợi cho
vị trí của đồng USD ở châu Âu và do đó sẽ gây một số thiệt hại về lợi ích cho Mỹ ở
châu lục này. Cuộc đấu tranh vì lợi ích và ảnh hưởng kinh tế ở châu Âu giữa Mỹ và
Liên minh Châu Âu sẽ trở nên quyết liệt hơn.
c. Đối với thị trường tài chính
Sự ra đời của EURO còn làm đa dạng hoá các thị trường chứng khoán. Tỷ lệ
chứng khoán tư nhân được phát hành bằng các đồng tiền Châu Âu năm 1981 là 13%
đã tăng lên 37%. Các đồng tiền Châu Âu trong trái phiếu quốc tế đã tăng lên gấp đôi
và hiện nay đạt tới 37%. Ngay sau khi đồng EURO ra đời các nước trong liên minh
tiền tệ Châu Âu sẽ phát hành trái phiếu nợ nhà nước bằng đồng EURO, nhiều nước
thành viên EMU trong đó có Pháp đã có ý định chuyển đổi toàn bộ số nợ nhà nước
sang đồng EURO ngay từ 1-1-1999. Đến năm 2002, toàn bộ số nợ nhà nước của các
nước thành viên EMU sẽ được chuyển sang EURO. Kết quả là ở Châu Âu sẽ hình
thành một tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán khổng lồ. Trên thực tế,
ngay sau khi đồng EURO ra đời, nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới đã tiến
hành buôn bán bằng EURO, và có lẽ thị trường hối phiếu sử dụng EURO sẽ là thị
trường lớn nhất thế giới. Dung lượng và khả năng thị trường tài chính của EU và Mỹ

là gần tương đương nhau... Trong tổng vốn đầu tư của tư nhân trên thị trường quốc
tế, phần đầu tư bằng đô la Mỹ chiếm 40%, bằng tiền của EU chiếm 37%, bằng Yên
Nhật chiếm 12%. Sau năm 2002 có khoảng 3000 tỷ đô la vốn đầu tư quốc tế sẽ
chuyển sang đồng EURO, trong đó có từ 700 đến 1000 tỷ là từ đồng đô la Mỹ. Do
đó, khi EURO xuất hiện trên thị trường tài chính thế giới thì trong các giao dịch tại
thị trường chứng khoán và trong việc phát hành công trái, các nước trước hết là các
nước EU sẽ dùng EURO, do vậy nhu cầu về USD trên thị trường tài chính sẽ giảm
một cách đáng kể.
Nhóm thực hiện: 12
Trang 18
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
Trong thời gian gần đây, vị thế của đồng euro đã được nâng cao trên thi
trường tài chính quốc tế. Nó được xem như là một đồng tiền tham chiếu trong tỷ giá
hối đoái. Đồng thời cũng là đồng tiền dự trữ và can thiệp. Hiện tại có khoảng 150
quốc gia đang duy trì cơ chế tỷ giá hối đoái tính theo một đồng tiền hoặc một giỏ các
đồng tiền tham chiếu. Trong số đó có 40 quốc gia dùng đồng euro làm đồng tiền
tham chiếu duy nhất hoặc có đồng euro trong giỏ tiền tệ tham chiếu của mình.
Trong năm 1999 21,7% tất cả các giấy nợ quốc tế được tính bằng Euro, trong
năm 2001 là 27,4% và trong năm 2003 đã là 33%. Năm 2004 đồng Đô la Mỹ đã
chấm dứt vai trò là tiền tệ quan trọng nhất cho các loại trái phiếu và công trái với lãi
suất cố định và lãi suất thả nổi (tiếng Anh: Floating Rate Notes): Trong cuối tháng 9
năm 2004 có trên 12.000 tỉ đô la trái phiếu và công trái quốc tế lưu hành trên toàn thế
giới. Trong đó có 5.400 tỉ là đồng Euro, 4.800 tỉ là đồng Đô la Mỹ, 880 tỉ đồng Bảng
Anh, 500 tỉ tiền Yen và 200 tỉ là đồng Franc Thụy Sĩ. Tỷ lệ của đồng Đô la Mỹ trong
tổng số tiền gửi tại các tài khoản của các quốc gia OPEC giảm từ 75% trong mùa hè
2001 xuống còn 61,5% trong mùa hè 2004. Tỷ lệ tiền Euro tăng trong cùng khoảng
thời gian từ 12% lên 20%. Trong năm 2003 tỷ lệ mua bán Euro trên các thị trường
ngoại tệ là 25% so với 50% của đồng Đô la Mỹ và 10% cho hai loại tiền Bảng Anh
và Yen Nhật. Đồng Euro vì vậy là tiền tệ quan trọng đứng thứ nhì hiện thời.
Ngày 1/1/2011, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) quyết định, sức nặng của bốn đồng

tiền trong SDR (Quyền rút vốn đặc biệt) như sau: đồng USD: 41,9% (giảm so với
mức 44% của đợt xem xét năm 2005), đồng EUR: 37,4% (tăng so với mức 34% của
năm 2005), đồng Bảng: 11,3% (tăng so với 11% của năm 2005) và đồng Yen: 9,4%
(giảm so với 11% của năm 2005).
Tóm lại, sau khi đồng EURO ra đời hệ thống tài chính thế giới sẽ bị thay đổi
cơ bản. Những thay đổi này sẽ bắt đầu từ việc thanh toán các loại dịch vụ và buôn
bán quốc tế, kể cả các giao dịch thị trường chứng khoán, sau đó đến việc giải toả dự
trữ ngoại tệ ở các quốc gia. Hơn nữa, bên cạnh việc sử dụng USD như trước đây,
trên thị trường sẽ xuất hiện thêm EURO, do đó trong tương lai không xa, nhu cầu sử
dụng USD giảm bắt buộc sẽ dẫn đến việc giảm giá của USD, và như vậy việc ra đời
của EURO không chỉ tác động đến lĩnh vực tiền tệ mà sẽ tác động cả đến lĩnh vực
kinh tế và chính sách kinh tế của các quốc gia.
d. Đối với nền kinh tế quốc tế
Từ ngày 1-1-1999 trong toàn khối EURO, giá cả của mọi hàng hoá và dịch vụ sẽ
được tính toán và biểu thị bằng một đồng tiền duy nhất là đồng EURO. Đồng EURO
thay thế các đồng bản tệ trong thị trường vốn, thị trường chứng khoán Châu Âu. Do
Nhóm thực hiện: 12
Trang 19
Đề tài: Đồng tiền chung GVHD: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
vậy, cạnh tranh trên thị trường thương mại, thị trường vốn và thị trường chứng khoán
sẽ quyết liệt hơn. Đồng thời do thống nhất giá, phạm vi thị trường cũng được mở
rộng hơn. Người tiêu dùng trong khu vực, các nhà đầu tư trong và ngoài khối sẽ dễ
dàng so sánh hiệu quả đầu tư của các phương án đầu tư giữa các nước trong khu vực
EURO. Vì vậy, họ sẽ có những quyết định tiêu dùng ở thị trường nào có lợi nhất
cũng như đầu tư ở đâu sẽ có hiệu quả nhất vì sẽ không còn bất kỳ ràng buộc địa lý
hoặc tiền tệ nào cản trở họ. Do vậy, tổng nhu cầu nội bộ trong khối sẽ tăng, sẽ kích
thích sản xuất và đầu tư, đẩy mạnh lưu thông vốn và hàng hoá, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế theo dự tính. Nhờ có EURO, tăng trưởng kinh tế EU tăng thêm từ 0,5% đến
1% /năm.
Sau khi EURO ra đời, do những thuận lợi của thị trường thống nhất có trình

độ phát triển cao và ổn định, khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài
của các nước EU sẽ mạnh hơn trên các mặt hàng công nghệ cao và đòi hỏi vốn lớn.
Do đó có thể thấy trước được là một phần vốn đầu tư của thế giới sẽ dồn vào các
nước EU sau khi đồng EURO ra đời. Trong mấy năm qua, các công ty lớn của Mỹ và
Nhật đã có những biện pháp và chuẩn bị cho sự kiện này và họ đã ít nhiều thiết lập
được chỗ đứng của mình thông qua các đối tác nội địa để tận dụng được lợi thế của
việc sản xuất tại chỗ đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tránh được thuế nhập khẩu
khi liên minh hình thành.
Cũng nhờ có sự tác động của đồng EURO, thị trường Châu Âu thống nhất
hơn, điều kiện cạnh tranh quyết liệt hơn. Trong điều kiện đó, các công ty EU muốn
tồn tại và phát triển sẽ phải cơ cấu lại, trong đó xu hướng sáp nhập quy mô lớn sẽ
diễn ra mạnh hơn. Đây sẽ là bước khởi đầu cho cuộc cách mạng về năng suất lao
động, tiền đề quan trọng cho việc tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị
trường thế giới.
Sự gia tăng của các giây nhận nợ tính bằng Euro trên thị trường tài chính quốc
tế thể hiện được vị trí cũng như vai trò của đồng tiền này, thể hiện được lòng tin và
tính thanh khoản cao của các quốc gia đối với EUR. Do vậy, chỉ cần một sự biến
động động của EUR cũng sẽ ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế quốc tế. Đồng euro đã
trở thành một công cụ thanh toán toàn cầu, một đối trọng của đồng đôla Mỹ
Sự ảnh hưởng của đồng Euro trong thương mại quốc tế tăng:
Do vị thế của Hoa Kỳ như là một đối tác thương mại với nhiều quốc gia trên
thế giới, đồng đôla Mỹ có truyền thống được giữ như là loại tiền tệ dự trữ được lựa
chọn bởi nhiều đối tác thương mại lớn của Mỹ. Tuy nhiên, như việc sử dụng đồng
tiền chung khiến các quốc gia thành viên phải đi theo loại tiền tệ khu vực của họ là
Nhóm thực hiện: 12
Trang 20

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×