Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

giải pháp nâng cao hiệu quả chuỗi cung cấp sản phẩm nông nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.11 KB, 69 trang )

Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
ĐỀ TÀI: “ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CHUỖI CUNG ỨNG SẢN PHẨM NÔNG NGHIỆP Ở
VIỆT NAM”.
GVHD : GS.TS Đặng Đình Đào
Sinh viên thực hiện : Ngô Thị Thuỳ Liên.
Mã sinh viên : CQ532085
Lớp : QTKD thương mại 53B
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
1
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC VIẾT TẮT
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
2
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
SCM : Supply Chain Management
RFID : Radio Frequency Identification (Nhận dạng tần số sóng vô
tuyến)
GĐLH : Gặt đập liên hợp.
ĐBSCL : đồng bằng sông Cửu Long.
NNPTNT : nông nghiệp phát triển nông thôn


PHẦN MỞ ĐẦU
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
3
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
1.Lý do và ý nghĩa nghiên cứu đề tài.
Năm 2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương
mại thế giới WTO.Điều này mở ra cơ hội mới cho nền kinh tế Việt Nam nói
chung cũng như các doanh nghiệp nói riêng.Việc gia nhập WTO vừa tạo cơ
hội cũng như thách thức đối với các doanh nghiệp ở nước ta. Đó là sự cạnh
tranh vô cùng khốc liệt trong thị trường rộng lớn đó, để không bị thất bại và
có cơ hội vươn ra thị trường thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp phải không
ngừng hoàn thiện, cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh
tranh của doanh nghiệp.Trước đây hàng hoá không ngừng được sản xuất ra
nhưng chỉ sản xuất những thứ doanh nghiệp có,việc sản xuất đúng nơi, đúng
lúc, đúng nhu cầu không được quan tâm. Bởi vậy gây ra chi phí sản xuất cao,
cung lớn hơn cầu, giá trị sản phẩm không cao, không thoả mãn tối đa nhu cầu
của khách hàng…làm cho hiệu quả kinh doanh thấp.
Việc ra đời của logistic và hình thành chuỗi cung ứng sản phẩm đã giúp cho
các doanh nghiệp sử dụng nguồn lực một cách tối ưu. Chính nhờ hoạt động
hậu cần mà giá trị sản phẩm được tăng lên, đồng thời nhờ sự kết hợp chặt chẽ
từ khâu nguyên liệu đầu vào tới khâu tiêu thụ sản phẩm đẩu ra đã giảm thiểu
chi phí sản xuất kinh doanh tạo lợi thế cạnh tranh.Việc các doanh nghiệp xây
dựng cho mình một chuỗi cung ứng hoàn chỉnh sẽ tạo nền tảng cho doanh
nghiệp tiết kiệm chi phí không cần thiết, nâng cao giá trị cho sản phẩm, tăng
sức cạnh tranh trên thị trường.
Về ngành nông nghiệp ở nước ta, trong các sản phẩm của ngành nông
nghiệp thì lúa gạo là ngành sản xuất truyền thống của ta, xuất khẩu gạo chiếm
vị trí quan trọng trong nền Kinh tế quốc dân, là nguồn thu ngoại tệ quan trọng

của đất nước vì kim ngạch xuất khẩu gạo hiện đang đứng đầu trong kim
ngạch xuất khẩu hàng nông sản. Sản phẩm gạo của nước ta do hàng triệu hộ
nông dân sản xuất ra, là một mặt hàng có vị trí hết sức quan trọng bảo đảm an
ninh lương thực quốc gia. Từ chỗ là nước nhập khẩu gạo, Việt Nam đã vươn
lên sản xuất đủ ăn, có thừa để xuất khẩu. Từ đầu thập niên 1990s đến nay,
Việt Nam đã trở thành một trong ba quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Song, vị thế cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới vẫn thường
xuyên đứng sau Thái Lan với một khoảng cách khá xa. Mặt khác, gạo cũng là
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
4
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
một trong 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam,
nhưng xét về hiệu quả đóng góp của ngành hàng này cho nền kinh tế thì vẫn
còn nhiều hạn chế. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật; nhu cầu tiêu
dùng của thị trường thế giới và thị trường trong nước đòi hỏi ngày càng cao
hơn về chất lượng, tiện lợi trong tiêu dùng; sự cạnh tranh ngày càng gay
gắt .Việt Nam là nước nông nghiệp truyền thống- đây là thế mạnh, nhưng
cũng là điểm yếu nếu ta tưởng rằng đã biết quá rõ về nông nghiệp và không
thấy cần phải thay đổi.Cách cung ứng là cách truyền thống. Việt Nam là nước
nông nghiệp, có hàng nghìn năm phát triển nông nghiệp đã tạo cho chúng ta
nhiều “lối mòn” trong tư duy sản xuất – cung ứng – tiêu thụ sản phẩm. Chính
điều này vô hình trung đang gây thiệt thòi cho cả nông dân và người tiêu
dùng. Xét về vấn đề hình thành chuỗi cung ứng trên thế giới, với một số nước
tiên tiến, do mở rộng theo chiều dọc của chuỗi giá trị nên các đại gia bán lẻ,
siêu thị ngày càng tiến tới gần hơn, tiếp cận được nhiều hơn với việc sản xuất
- chế biến nông sản. Họ từ người bán lẻ trở thành nhà sản xuất toàn cầu, tự
mình đặt hàng, mua hàng và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong toàn bộ
chuỗi cung ứng. Các nhà bán lẻ, siêu thị trở thành các “người giữ cửa”, định

đoạt việc tham gia vào các thị trường khu vực và thế giới. Họ thường làm việc
trực tiếp với nông dân, nhà sản xuất nhỏ và chỉ sử dụng một số rất ít nhà cung
ứng cấp một quen thuộc, đáp ứng được các tiêu chuẩn cao và rất chuyên biệt
của họ. Họ luôn nâng cao khả năng kiểm soát đối với sản phẩm (ví dụ chất
lượng), đối với thông tin (ví dụ khả năng theo dõi sản phẩm trong suốt chuỗi
cung ứng). Qua đó, họ áp dụng các mô hình trong công nghiệp hiện đại vào
nông nghiệp như hệ thống sản xuất theo thời gian thực và hệ thống quản lý
chất lượng tổng thể. Tính cạnh tranh thấp, sự đổ vỡ của chuỗi cung ứng nông
sản Việt, thua lỗ của công ty chế biến nông sản và nông dân, sự chiếm lĩnh thị
trường của các đại gia bán lẻ, siêu thị ngoại ở Việt Nam, nông dân bán nông
sản cho thương lái nước ngoài mà không cho nhà chế biến Việt Nam… không
còn là viễn cảnh, mà nó hiển hiện ngay trước mắt chúng ta. Điều này cho thấy
đây không phải lỗi của nhà sản xuất riêng lẻ, người nông dân mà chủ yếu là
lỗi mang tính hệ thống, của quản lý, của nhà hoạch định.
Tuy nhiên, khi thực sự mở cửa thị trường bán lẻ, khi hàng loạt các đại gia
bán lẻ, siêu thị nước ngoài “nhảy vào”, nếu không có chính sách quản lý tốt,
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
5
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
chuỗi cung ứng nông sản cũng khó mà hoạt động một cách minh bạch, công
khai. Và khi đó, nông sản khó mà đến tay người dùng với giá tiệm cận giá
thành sản xuất.
Vấn đề đặt ra là, có phải những bất cập trong cơ chế quản lý đã làm cho
ngành lúa gạo Việt Nam chưa thực sự phát triển hướng vào xuất khẩu một
cách đúng nghĩa? Dưới đây, chúng ta sẽ cùng điểm lại tình hình sản xuất, chế
biến, xuất khẩu gạo để có thể nhận diện rõ những hạn chế đó và tìm ra những
điểm cần hoàn thiện, bổ sung để nâng cao tính cạnh tranh của mặt hàng này
trên thị trường thế giới trong tương lai trên căn bản tham gia tích cực hơn vào

chuỗi cung ứng gạo toàn cầu.
2.Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liêu tham khảo, phụ lục đề án
được trình bày thành 3 chương:
Chương I: Những lý luận cơ bản về chuỗi cung ứng sản phẩm.
Chương II: Thực trạng về chuỗi cung ứng gạo ở nước ta hiện nay.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng gạo xuất khẩu ở
nước ta hiện nay.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
6
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHUỖI CUNG ỨNG SẢN PHẨM
I.Khái quát về chuỗi cung ứng sản phẩm
1.Bản chất chuỗi cung ứng sản phẩm.
1.1.Khái niệm chuỗi cung ứng sản phẩm.
Cạnh tranh một cách thành công trong bất kỳ môi trường kinh doanh nào
hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải tham gia vào công việc kinh doanh
của nhà cung cấp cũng như khách hàng của nó. Điều này yêu cầu các doanh
nghiệp khi đáp ứng sản phẩm hoặc dịch vụ cho khách hàng cần phải quan tâm
sâu sắc hơn đến dòng dịch chuyển nguyên vật liệu, cách thức thiết kế và đóng
gói sản phẩm và dịch vụ của nhà cung cấp, cách thức vận chuyển và bảo quản
sản phẩm hoàn thành và những điều mà người tiêu dùng hoặc khách hàng
cuối cùng thực sự yêu cầu (ví dụ như có nhiều doanh nghiệp có thể không biết
sản phẩm của họ được sử dụng như thế nào trọng việc tạo ra sản phẩm cuối
cùng mà khách hàng sử dụng). Hơn nữa, trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt ở
thị trường toàn cầu hiện nay, việc giới thiệu sản phẩm mới với chu kỳ sống
ngày càng ngắn hơn, cùng với mức độ kỳ vọng ngày càng cao của khách hàng

đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải đầu tư, và tập trung nhiều vào chuỗi cung
ứng của nó. Điều này, cùng với những tiến bộ liên tục trong công nghệ truyền
thông và vận tải (ví dụ, truyền thông di động, Internet và phân phối hàng qua
đêm), đã thúc đẩy sự phát triển không ngừng của chuỗi cung ứng và những kỹ
thuật để quản lý nó.
Trong một chuỗi cung ứng điển hình, nguyên vật liệu được mua ở một
hoặc nhiều nhà cung cấp; các bộ phận được sản xuất ở một nhà máy hoặc
nhiều hơn, sau đó được vận chuyển đến nhà kho để lưu trữ ở giai đoạn trung
gian và cuối cùng đến nhà bán lẻ và khách hàng. Vì vậy, để giảm thiểu chi phí
và cải tiến mức
phục vụ, các chiến lược chuỗi cung ứng hiệu quả phải xem xét đến sự
tương tác ở các cấp độ khác nhau trong chuỗi cung ứng. Chuỗi cung ứng,
cũng được xem như mạng lưới hậu cần, bao gồm các nhà cung cấp, các trung
tâm sản xuất, nhà kho, các trung tâm phân phối, và các cửa hàng bán lẻ, cũng
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
7
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
như nguyên vật liệu, tồn kho trong quá trình sản xuất và sản phẩm hoàn thành
dịch chuyển giữa các cơ sở.Vậy chuỗi cung ứng là gì?
"Chuỗi cung ứng là một chuỗi hay một tiến trình bắt đầu từ nguyên liệu thô
cho tới khi sản phẩm làm ra hay dịch vụ tới tay người tiêu dùng cuối cùng.
Chuỗi cung ứng là một mạng lưới các lựa chọn về phân phối và các phương
tiện để thực hiện thu mua nguyên liệu, biến đổi các nguyên liệu này qua khâu
trung gian để sản xuất ra sản phẩm, phân phối sản phẩm này tới tay người tiêu
dùng" (Introduction to supply Chain Management-Ganeshan&Harrison).
"Chuỗi cung ứng là hệ thống các công cụ để chuyển hoá nguyên liệu thô từ
bán thành phẩm tới thành phẩm, chuyển tới người tiêu dùng thông qua hệ
thống phân phối" (The evolution of Supply Chain Management Model and

Practice-Lee& Billington).
"Chuỗi cung cấp là một mạng lưới gồm các tổ chức có liên quan, thông qua
các mối liên kết phía trên và phía dưới trong các quá trình và hoạt động khác
nhau sản sinh ra giá trị dưới hình thức sản phẩm dịch vụ trong tay người tiêu
dùng cuối cùng" (bài giảng của GS.Souviron về quản trị chuỗi cung cấp).
"Chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các doanh nghiệp tham gia, một cách trực
tiếp hay gián tiếp, trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chuỗi cung ứng
không chỉ bao gồm nhà sản xuất và nhà cung cấp, mà còn công ty vận tải, nhà
kho, nhà bán lẻ và khách hàng của nó. Những chức năng này bao gồm, nhưng
không bị hạn chế, phát triển sản phẩm mới, marketing, sản xuất, phân phối, tài
chính và dịch vụ khách hàng".
Trong một chuỗi cung ứng điển hình, nguyên vật liệu được mua ở một
hoặc nhiều nhà cung cấp; các bộ phận được sản xuất ở một nhà máy hoặc
nhiều hơn, sau đó được vận chuyển đến nhà kho để lưu trữ ở giai đoạn trung
gian và cuối cùng đến nhà bán lẻ và khách hàng. Vì vậy, để giảm thiểu chi phí
và cải tiến mức phục vụ, các chiến lược chuỗi cung ứng hiệu quả phải xem
xét đến sự tương tác ở các cấp độ khác nhau trong chuỗi cung ứng. Chuỗi
cung ứng cũng được xem như mạng lưới hậu cần, bao gồm các nhà cung cấp,
các trung tâm sản xuất, nhà kho, các trung tâm phân phối và các cửa hàng bán
lẻ cũng như nguyên vật liệu, tồn kho trong quá trình sản xuất và sản phẩm
hoàn thành dịch chuyển giữa các cơ sở.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
8
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
Cùng với sự phát triển của sản xuất, của công nghệ thông tin, thì dây
chuyền cung ứng này càng phức tạp, vai trò của công nghệ thông tin trong
quản trị dây chuyền cung ứng ngày càng lớn. Tất cả các sản phẩm đến tay
người tiêu dùng thông qua một vài hình thức của chuỗi cung ứng, có một số

thì lớn hơn và một số thì phức tạp hơn rất nhiều. Với ý tưởng chuỗi cung ứng
này, ta dễ dàng nhận thấy rằng chỉ có một nguồn tạo ra lợi nhuận duy nhất
cho toàn chuỗi đó là khách hàng cuối cùng. Khi các doanh nghiệp riêng lẻ
trong chuỗi cung ứng ra các quyết định kinh doanh mà không quan tâm đến
các thành viên khác trong chuỗi, điều này sẽ dẫn đến giá bán cho khách hàng
cuối cùng là rất cao, mức phục vụ chuỗi cung ứng thấp và điều này làm cho
nhu cầu khách hàng tiêu dùng cuối cùng trở nên thấp.
Về mặt lý thuyết, chuỗi cung ứng hoạt động như một đơn vị cạnh tranh
riêng biệt và cố hữu, thực hiện những việc mà nhiều doanh nghiệp lớn, các
doanh nghiệp hội nhập dọc cố gắng đạt được và đã thất bại trong việc thực
hiện mục tiêu này. Điểm khác biệt chính là các doanh nghiệp trong chuỗi
cung ứng hoàn toàn tự do trong việc quyết định thâm nhập hoặc rời khỏi mối
quan hệ chuỗi nếu quan hệ này không đem lại lợi ích cho họ; đó chính là tổ
chức thị trường tự do nhằm giúp đỡ chuỗi cung ứng vận hành một cách hiệu
quả hơn khối liên kết dọc.
1.2.Quản trị chuỗi cung ứng sản phẩm.
Có rất nhiều định nghĩa về quản trị chuỗi cung ứng (Supply Chain
Management-SCM)
Theo Viện quản trị cung ứng mô tả quản trịchuỗi cung ứng là việc thiết kế
và quản lý các tiến trình xuyên suốt, tạo giá trịcho các tổchức để đáp ứng nhu
cầu thực sựcủa khách hàng cuối cùng. Sựphát triển và tích hợp nguồn lực
con người và công nghệ là then chốt cho việc tích hợp chuỗi cung ứng thành
công.
Theo Hội đồng chuỗi cung ứng thì quản trị chuỗi cung ứng là việc quản lý
cung và cầu, xác định nguồn nguyên vật liệu và chi tiết, sản xuất và lắp ráp,
kiểm tra kho hàng và tồn kho, tiếp nhận đơn hàng và quản lý đơn hàng, phân
phối qua các kênh và phân phối đến khách hàng cuối cùng.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
9

Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
Theo hội đồng quản trị hậu cần, một tổ chức phi lợi nhuận thì quản trị
chuỗi cung ứng là“…sự phối hợp chiến lược và hệ thống các chức năng kinh
doanh truyền thống và các sách lược xuyên suốt các chức năng này trong một
công ty cụthểvà giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng với mục đích
cải thiện thành tích dài hạn của các công ty đơn lẻ và của cả chuỗi cung
ứng”.
Theo TS. Hau Lee và đồng tác giả Corey Billington trong bài báo nghiên
cứu thì quản trịchuỗi cung ứng như là việc tích hợp các hoạt động xảy ra ở
các cơ sở của mạng lưới nhằm tạo ra nguyên vật liệu, dịch chuyển chúng vào
sản phẩm trung gian và sau đó đến sản phẩm hoàn thành cuối cùng, và phân
phối sản phẩm đến khách hàng thông qua hệ thống phân phối.
Quản trị chuỗi cung ứng là tập hợp những phương thức sử dụng một cách
tích hợp và hiệu quả nhà cung cấp, người sản xuất, hệ thống kho bãi và các
cửa hàng nhằm phân phối hàng hóa được sản xuất đến đúng địa điểm, đúng
lúc với đúng yêu cầu về chất lượng, với mục đích giảm thiểu chi phí toàn hệ
thống trong khi vẫn thỏa mãn những yêu cầu về mức độ phục vụ. Tính nhất
quán thể hiện trong các định nghĩa này đó chính là ý tưởng của sự phối hợp
và hợp nhất số lượng lớn các hoạt động liên quan đến sản phẩm trong số các
thành viên của chuỗi cung cấp nhằm cải thiện năng suất hoạt động, chất
lượng, và dịch vụ khách hàng nhằm đạt được lợi thế cạnh tranh bền vững cho
tất cả các tổ chức liên quan đến việc cộng tác này. Vì thế, để quản trị thành
công chuỗi cung ứng, các doanh nghiệp phải làm việc với nhau bằng cách
chia sẻ thông những thay đổi về công suất; các chiến lược marketing mới; sự
phát triển mới sản phẩm và dịch vụ; sự phát triển công nghệ mới; các kế
hoạch thu mua; ngày giao hàng và bất kỳ điều gì tác động đến các kế hoạch
phân phối, sản xuất và thu mua. Ví dụ, khi một nguyên liệu hoặc sản phẩm cụ
thể có giá tăng trong cung ngắn hạn thì một doanh nghiệp có thể nhận thấy sẽ
có lợi nếu chọn lựa trong số nhà cung ứng một doanh nghiệp thích hợp nhằm

đảm bảo nguồn cung liên tục chi tiết khan hiếm này. Việc cân nhắc này có thể
có lợi cho cả đôi bên - thị trường mới cho nhà cung cấp, điều này dẫn đến cơ
hội kinh doanh sản phẩm mới trong tương lai; và việc cung ứng tiếp tục trong
dài hạn với mức giá ổn định cho người mua. Sau đó, khi đối thủ cạnh tranh
mới bắt đầu sản xuất sảm phẩm khan hiếm hoặc khi nhu cầu sụt giảm, nhà
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
10
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
cung cấp có thể không được các hãng mua đánh giá cao; thay vào đó, doanh
nghiệp có thể nhận thấy sẽ có lợi hơn trong việc thương lượng với người mua
tiềm năng khác và sau đó chấm dứt với người mua ban đầu. Thông qua ví dụ
này, chúng ta có thể nhận thấy rằng chuỗi cung cấp và động và linh hoạt và vì
thế nảy sinh nhiều vấn đề trong việc quản lý chúng một cách hiệu quả.
Trong khi quản trị chuỗi cung cấp có thể cho phép các tổ chức nhận thức
rõ thuận lợi của việc tích hợp dọc trên cơ sở những điều kiện chính yếu cho
việc quản trị hiệu quả việc này. Có lẽ một yếu tố quan trọng nhất đó chính là
sự thay đổi về văn hóa tổ chức của tất cả thành viên tham gia trong chuỗi
cung ứng làm cho họ có lợi hơn và quản lý hiệu quả quản trị chuỗi cung ứng.
Với các công ty có văn hóa tổ chức theo kiểu truyền thống, quan tâm đến lợi
ích ngắn hạn vì thế hành động theo định hướng thành tích theo nhiều cách có
thể tạo ra xung đột với mục tiêu của việc quản trị chuỗi cung ứng. Quản trị
chuỗi cung ứng nhấn mạnh đến việc định vị các tổ chức theo cách thức giúp
cho tất cả các thành viên trong chuỗi đều được lợi. Vì thế, quản trị chuỗi cung
ứng một cách hiệu quả lệ thuộc rất lớn vào mức độ tin tưởng, sự hợp tác, sự
cộng tác và thông tin một cách trung thực và chính xác.
Các nhà quản trị phụ trách thu mua, sản xuất, hậu cần và vận tải không chỉ
phải được trang bị những kiến thức cần thiết về các chúc năng chuỗi cung ứng
quan trọng mà còn phải đánh giá và am hiểu mức độ tương tác và ảnh hưởng

của các chức năng này đến toàn chuỗi cung ứng. Rebecca Morgan, chủ tịch
của Fulcrum Consulting Works, một công ty tư vấn về quản trị chuỗi cung
ứng có trụ sở ở bang Ohio, phát biểu rằng: "rất nhiều công ty đi đến các thỏa
thuận mà họ gọi là sự cộng tác, sau đó cố gắn kiểm soát mối quan hệ này từ
đầu đến cuối. Nhiều công ty sản xuất xe hơi thực hiện điều này ở giai đoạn
bắt đầu”, bà ta nói. “Họ đưa ra nguyên tắc đơn phương: anh sẽ thực hiện điều
này cho tôi nếu anh muốn làm ăn với tôi, không cần biết nó có ý nghĩa gì với
anh hay không”.
Ranh giới của các chuỗi cung ứng tích hợp cũng rất linh động. Mọi người
thường nói rằng ranh giới chuỗi cung ứng kéo dài từ “nhà cung cấp cho nhà
cung cấp của doanh nghiệp đến khách hàng của khách hàng của họ”; ngày
nay, hầu hết những nỗ lực phối hợp quản trị chuỗi cung ứng của doanh nghiệp
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
11
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
không vượt ra giới hạn này. Thực ra, trong nhiều trường hợp, các doanh
nghiệp nhận thấy rằng thực sự khó khăn để gia tăng nỗ lực phối hợp ngoài
những khách hàng và nhà cung cấp trực tiếp quan trọng nhất của doanh
nghiệp (thực ra trong một nghiên cứu khảo sát các doanh nghiệp thì rất nhiều
đại diện của doanh nghiệp phát biểu rằng đa số các nỗ lực trong chuỗi cung
ứng chỉ đối với khách hàng và nhà cung cấp bên trong của doanh nghiệp mà
thôi). Tuy nhiên, theo thời gian và những kết quả thành công bước đầu, nhiều
doanh nghiệp đang mở rộng ranh giới chuỗi cung ứng của nó.
2.Vai trò của chuỗi cung ứng sản phẩm.
Trong doanh nghiệp, chuỗi cung ứng giữ một vai trò quan trọng. Quản lý
chuỗi cung ứng (SCM) gắn liền với hầu như tất cả các hoạt động của các
doanh nghiệp sản xuất,từ việc hoạch định và quản lý quá trình tìm nguồn
hàng, thu mua, sản xuất thành phẩm,…đến việc phối hợp với các đối tác, nhà

cung ứng,các kênh trung gian, nhà cung cấp dịch vụ cho đến khách hàng.
- SCM giải quyết cả đầu ra lẫn đầu vào của doanh nghiệp một cách có hiệu
quả nhờ vào thay đổi các nguồn nguyên vật liêu đầu vào hoặc tối ưu hoá quá
trình luân chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá, dịch vụ (có thể tiết kiệm chi phí,
tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp).
Có không ít doanh nghiệp đã gặt hái thành công lớn nhờ soạn thảo chiến
lược và giải pháp SCM thích hợp, ngược lại có nhiều doanh nghiệp gặp khó
khăn thất bại do đưa ra quyết định sai lầm như chọn sai nguồn cung cấp
nguyên vật liệu, chọn sai vị trí kho bãi, tính toán lượng dự trữ không phù hợp,
tổ chức vận chuyển chồng chéo.
- SCM hỗ trợ đắc lực cho hoạt động tiếp thị đặc biệt là tiếp thị hỗn hợp.
SCM đóng vai trò then chốt trong việc đưa sản phâmt đến đúng nơi cần
đến và vào đúng thời điểm thích hợp. Mục tiêu lớn nhất của SCM là cung cấp
sản phẩm,dịch vụ cho khách hàng với tổng chi phí nhỏ nhất.
-Từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất của công ty và tạo điều
kiện cho chiến lược thương mại điện tử phát triển.
-Điều phối khả năng sản xuất có giới hạn và thực hiện lên kế hoạch sản
xuất nhằm làm cho kế hoạch sản xuất đạt hiệu quả cao nhất.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
12
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
-Cung cấp khả năng trực quan hoá đối với các dữ liệu liên quan đến sản
xuất và khép kín dây chuyền cung cấp tạo điều kiện cho việc tối ưu hoá sản
xuất đúng lúc bằng các hệ thống sắp xếp và lập kế hoạch.
-Phân tích dữ liệu thu thập được và lưu trữ hỗ sơ với chi phí thấp nhất.
Hoạt động này nhằm phục vụ cho những mục đích liên quan đến hoạt động
sản xuất (dữ liệu thông tin về sản phẩm, dữ liệu về nhu cầu thị trường ) để
đáp ứng đòi hỏi của khách hàng.

II.Nội dung của chuỗi cung ứng sản phẩm
1.Nội dung của chuỗi cung ứng sản phẩm
1.1.Cấu trúc và các thành viên của chuỗi cung ứng
* Cấu trúc chuỗi cung ứng
Một dây chuyền chuỗi cung ứng sản xuất bao gồm tối thiểu ba yếu tố: nhà
cung cấp, bản thân đơn vị sản xuất và khách hàng.
-Nhà cung cấp là các công ty bán sản phẩm dịch vụ là nguyên liệu đầu vào
cần thiết cho quá trình sản xuất, kinh doanh.Thông thường nhà cung cấp được
hiểu là đơn vị cung cấp nguyên liệu trực tiếp như vật liệu thô, các ch tiêt của
sản phẩm, bán thành phẩm.Các công ty cung cấp dịch vụ cho sản xuất, kinh
doanh được gọi là nhà cung cấp dịch vụ.
-Đơn vị sản xuất là nơi sửdụng nguyên liệu, dịch vụ đầu vào và áp dụng
các quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Các nghiệp vụ về quản
lý sản xuất được sử dụng tối đa ở đây nhằm tăng hiệu quả, nâng cao chất
lượng sản phẩm tạo nên sự thông suốt của dây chuyền cung ứng;
-Khách hàng là người sử dụng sản phẩm của đơn vị sản xuất.
Như vậy, chuỗi cung ứng là một tổng thể giữa nhiều nhà cung ứng và
khách hàng được kết nối với nhau; trong đó mỗi khách hàng đến lượt mình lại
là nhà cung ứng cho tổ chức tiếp theo cho đến khi thành phẩm tới được tay
người tiêu dùng. Nói một cách khác có thể xem chuỗi cung ứng là một mạng
lưới bao gồm những đơn vị, công đoạn có liên quan với nhau trong việc khai
thác tài nguyên nhằm sản xuất ra sản phẩm phục vụ cho người tiêu dùng kể cả
công đoạn trung gian như vận tải, kho bãi, bán buôn, bán lẻ và bản thân khách
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
13
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
hàng. Bản thân mỗi doanh nghiệp cũng là một chuỗi cung ứng thu nhỏ bao
gồm các bộ phận sản xuất, các bộ phận có chức năng liên quan đến thoả mãn

nhu cầu khách hàng như tài chính,công nghệ thông tin, phát triển sản phẩm
mới, tiếp thị, bán hàng, phân phối, dịch vụ khách hàng.
Ba dòng luân chuyển được xem xét trong bất kì chuỗi cung ứng nào:
-Dòng vật liệu là dòng dịch chuyển từ nhà cung cấp đến nhà bán lẻ trong
đó nguyên vật liệu được chuyển đổi thành sản phẩm và sau đó chuyển đến
khách hàng.
-Dòng thông tin bao gồm dữ liệu được lưu trữ và truy xuất mỗi khi trạng
thái hệ thống thay đổi.
-Dòng tiền bao gồm chi phí sản xuất, chi phí tồn kho,
*Các hoạt động của chuỗi cung ứng
Hoạt động của chuỗi cung ứng là một vòng quay gồm 5 giai đoạn:
-Lập kế hoạch
Trong hoạt động của chuỗi cung ứng, lập kế hoạch là khâu quan trọng nhất
bao trùm lên các hoạt động khác.Việc lập kế hoạch ở đâu được thực hiện ở
hai cấp độ: một là kế hoạch tổng thể cho toàn chuỗi mang tính trung hạn và
dài hạn, mặt khác kế hoạch cũng phải được thực hiện ở từng khâu của chuỗi.
Sau khi lập kế hoạch, thông tin sẽ được truyền đến tất cả các khâu trong chuỗi
nhờ đó mọi hoạt động trong chuỗi được tổ chức thống nhất và có tính hệ
thống. Ví dụ: kế hoạch tìm nguồn hàng, kế hoạch sản xuất nhằm đưa ra lượng
nguyên vật liệu cần thiết, nguồn cung những nguyên vật liệu này, số lượng
hàng cần sản xuất; kế hoạch giao hàng cung cấp những thông tin cần thiết để
đáp ứng nhu cầu khách hàng; kế hoạch hàng trả về (bao gồm trả về ở khâu
nguyên liệu và khâu thành phẩm) cung cấp thông tin về kế hoạch trả hàng để
có phương án đặt hàng mới….Để có được kế hoạch tốt chúng ta phải có
nguồn thông tin tốt. Nếu muốn xác định lượng hàng cần thiết cho thị trường ta
phải dựa vào các yếu tố như mức độ tiêu dùng, tồn kho, điều kiện kinh tế, thị
trường và những thông tin về đối thủ cạnh tranh…Muốn lập kế hoạch cung
ứng người lập phải hiểu được các nguồn lực cả bên trong và ngoài doanh
nghiệp như lực lượng lao động, công suất, kho bãi, phương tiện vận
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD

Thương mại 53B
14
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
chuyển… Kế hoạch phải rõ ràng, cụ thể, tập trung được nguồn lực vào những
lĩnh vực cần ưu tiên và quan trọng là nó phải phù hợp với chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp, có khả năng hỗ trợ chiến lược chung của doanh
nghiệp.
-Tìm nguồn hàng và mua hàng
Thực hiện quá trình mua hàng gồm đặt hàng, nhận hàng, kiểm tra, thanh
toán trên cơ sở kế hoạch về nguồn hàng đã được lập, ngoài ra nó còn liên
quan đến việc tìm, lựa chọn và quản lý quan hệ với các nhà cung cấp. Mục
đích của hoạt động này là tìm được nguồn hàng có chất lượng ổn định, phù
hợp với những yêu cầu trong sản xuất của doanh nghiệp, tiết giảm chi phí
thông qua lợi thế về quy mô, tăng khả năng linh hoạt trong sản xuất nhờ mối
quan hệ tốt với nhà cung cấp- hỗ trợ về điều kiện giao hàng, thanh toán…
-Sản xuất
Là công đoạn biến nguyên vật liệu thành thành phẩm theo quy cách, chất
lượng đã đề ra. Ngày nay, để tăng khả năng linh hoạt của doanh nghiệp, giảm
chi phí, ngày càng nhiều doanh nghiệp sử dụng các đối tác bên ngoài gia công
một phần hoặc sản xuất hoàn thiện toàn bộ sản phẩm. Trong hoạt động này
mục tiêu không chỉ là chi phí thấp mà còn là yêu cầu về tốc độ và mức độ linh
hoạt. Bên cạnh đó, một yêu cầu cũng không kém phần quan trọng là kiểm soát
chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ngành nghề đăng kí hoặc do doanh
nghiệp tự đề ra.
-Giao hàng
Quá trình giao hàng được bắt đầu từ việc nhận đơn hàng bao gồm cả
những hoạt động cần thiết để có được đơn hàng đó như chào giá cho đến thu
được tiền của khách hàng. Giai đoạn này cần chú ý: mức độ dịch vụ phải
tương xứng với chi phí. Do đó những khách hàng có thế mang lại nhiều lợi

nhuận cho doanh nghiệp hơn những khách hàng khác.Vì vậy điều đầu tiên là
phải phân khúc thị trường, sau đó đưa ra những mức độ dịch vụ cho các đối
tượng khách hàng khác nhau. Giảm thời gian và chi phí nhờ hệ thống trao đổi
thông tin, thiết lập hệ thống truy xuất về tình trạng hàng hoá tại những khâu
khác nhau trong chuỗi.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
15
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
-Hàng trả về
Áp dụng cho những nguyên vật liệu nhập về do không đúng tiêu chuẩn
hoặc những hàng hoá bán ra thi trường không đảm bảo chất lượng. Để quản lý
hoạt động này, điều đầu tiên là phải xác định những điều kiện nào thì hàng
hoá nguyên liệu sẽ được trả về. Bên cạnh đó, thông tin hàng trả về phải được
phổ biến đến tất cả các khâu trong chuỗi nhằm đưa ra các biện pháp phòng
ngừa và xử lý kịp thời.
1.2.Mối quan hệ giữa chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng.
Mọi người sử dụng những tên gọi khác nhau cho các chuỗi hoạt động và
tổ chức. Khi con người nhấn mạnh đến họat động sản xuất, họ xem chúng như
là các quy trình sản xuất; khi họ nhấn mạnh đến khía cạnh marketing, họ gọi
chúng là kênh phân phối; khi họ nhìn ở góc độ tạo ra giá trị, họ gọi chúng là
chuỗi giá trị, khi họ nhìn nhận về cách thức thỏa mãn nhu cầu của khách
hàng, họ gọi nó là chuỗi nhu cầu. Ở đây chúng ta tập trung vào sự dịch
chuyển nguyên vật liệu và thuật ngữ chung nhất là chuỗi cung cấp.
Một câu hỏi thường đặt ra nhưng chưa có câu trả lời rõ ràng- liên quan đến
việc phân biệt và làm rõ sự khác nhau giữa chuỗi giá trị và chuỗi cung cấp.
Micheal Porter- người đầu tiên phát biểu khái niệm chuỗi giá trị vào thập niên
1980, biện luận rằng chuỗi giá trị của một doanh nghiệp bao gồm các hoạt
động chính và các hoạt động bổ trợ tạo nên lợi thế cạnh tranh khi được cấu

hình một cách thích hợp. Tuy nhiên khái niệm chuỗi giá trị cũng đã được phát
triển như là một công cụ để phân tích cạnh tranh và chiến lược. Porter phân
biệt các hoạt động chính và hoạt động bổ trợ. Các hoạt động chính là những
hoạt động hướng đến việc chuyển đổi về mặt vật lý và quản lý sản phẩm hoàn
thành để cung cấp cho khách hàng. Hậu cần đến và hậu cần ra ngoài là các
thành tố quan trọng và then chốt của chuỗi giá trị, đây chính là yếu tố tạo ra
“giá trị” cho khách hàng của doanh nghiệp và mang lại lợi ích tài chính cho
công ty. Việc tích hợp một cách sâu rộng các chức năng sản xuất, bán hàng,
marketing với hậu cần cũng là một tiêu thức quan trọng của chuỗi giá trị. Các
hoạt động của Chuỗi giá trị chung
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
16
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
-Hình 1-
Porter phân biệt và nhóm gộp thành năm hoạt động chính:
• Hậu cần đến(inbound logistics): những hoạt động này liên quan đến việc
nhận, lưu trữ và dịch chuyển đầu vào vào sản phẩm, chẳng hạn như quản trị
nguyên vật liệu, kho bãi, kiểm soát tồn kho, lên lịch trình xe cộ và trả lại sản
phẩm cho nhà cung cấp.
• Sản xuất: các họat động tương ứng với việc chuyển đổi đầu vào thành
sản phẩm hoàn thành, chẳng hạn như gia công cơ khí, đóng gói, lắp ráp, bảo
trì thiết bị, kiểm tra, in ấn và quản lý cơ sở vật chất.
• Hậu cần ra ngoài(outbound logistics): đây là những hoạt động kết hợp
với việc thu thập, lưu trữ và phân phối hàng hóa vật chất sản phẩm đến người
mua, chẳng hạn như quản lý kho bãi cho sản phẩm hoàn thành, quản trị
nguyên vật liệu, quản lý phương tiện vận tải, xử lý đơn hàng và lên lịch trình-
kế hoạch.
• Marketing và bán hàng những hoạt động này liên quan đến việc quảng

cáo, khuyến mãi, lựa chọn kênh phân phối, quản trị mối quan hệ giữa các
thành viên trong kênh và định giá.
• Dịch vụ khách hàng các hoạt động liên quan đến việc cung câp dịch vụ
nhằm gia tăng hoặc duy trì giá trị của sản phẩm, chẳng hạn như cài đặt, sửa
chữa và bảo trì, đào tạo, cung cấp thiết bị thay thế và điều chỉnh sản phẩm.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
17
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
Các hoạt động bổ trợ được nhóm thành bốn loại:
• Thu mua: thu mua liên quan đến chức năng mua nguyên vật liệu đầu vào
được sử dụng trong chuỗi giá trị của công ty. Việc này bao gồm nguyên vật
liệu, nhà cung cấp và các thiết bị khác như máy móc, thiết bị thí nghiệm, các
dụng cụ văn phòng và nhà xưởng. Những ví dụ này minh họa rằng các đầu
vào được mua có thể liên hệ với các họat động chính cũng như các hoạt động
bổ trợ. Đây chính là lý do khiến Porter phân loại thu mua như một hoạt động
bổ trợ chứ không phải là họat động chính.
• Phát triển công nghệ: “Công nghệ” có ý nghĩa rất rộng trong bối cảnh
này, vì theo quan điểm của Porter thì mọi họat động đều gắn liền với công
nghệ, có thể là bí quyết, các quy trình thủ tục hoặc công nghệ được sử dụng
trong tiến trình hoặc thiết kế sản phẩm. Đa phần các họat động giá trị sử dụng
một công nghệ kết hợp một số lượng lớn các tiểu công nghệ khác nhau liên
quan đến các lĩnh vực khoa học khác nhau.
• Quản trị nguồn nhân lực: đây chính là những hoạt động liên quan đến
việc chiêu mộ, tuyển dụng, đào tạo, phát triển và quản trị thù lao cho toàn thể
nhân viên trong tổ chức, có hiệu lực cho cả các họat động chính và hoạt động
bổ trợ.
• Cơ sở hạ tầng công ty: công ty nhìn nhận ở góc độ tổng quát chính là
khách hàng của những hoạt động này. Chúng không hổ trợ chỉ cho một hoặc

nhiều các hoạt động chính-mà thay vào đó chúng hỗ trợ cho cả tổ chức. Các
ví dụ của những hoạt động này chính là việc quản trị, lập kế hoạch, tài chính,
kế toán, tuân thủ quy định của luật pháp, quản trị chất lượng và quản trị cơ sở
vật chất. Trong các doanh nghiệp lớn, thường bao gồm nhiều đơn vị hoạt
động, chúng ta có thể nhận thấy rằng các hoạt động này được phân chia giữa
trụ sở chính và các công ty hoạt động. Cơ sở hạ tầng chính là đề tài được bàn
cải nhiều nhất về lý do tại sao nó thay đổi quá thường xuyên đến vậy.
Ta đã biết quản trị chuỗi cung ứng trở nên thịnh hành trong suốt thập niên
1990 và tiếp tục là tâm điểm giúp các tổ chức nâng cao khả năng cạnh tranh
trong thị trường toàn cầu. Quản trị chuỗi cung ứng được xem như đường ống
hoặc dây dẫn điện nhằm quản trị một cách hữu hiệu và hiệu quả dòng sản
phẩm/nguyên liệu, dịch vụ, thông tin và tài chính từnhà cung cấp của nhà
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
18
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
cung cấp xuyên qua các tổ chức/ công ty trung gian nhằm đến với khách hàng
của khách hàng hoặc một hệ thống mạng lưới hậu cần giữa nhà cung cấp đầu
tiên đến khách hàng cuối cùng. Chuỗi cung ứng tổng quát:
Nhà cung cấp(nhà buôn) → Nguồn →Lưu trữ, vận chuyển đến →Sản xuất
→ lưu trữ, vận chuyển ra ngoài→ Phân phối tiêu dùng → Khách hàng
Cách thức nhằm xem xét sự khác biệt giữa chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng
là khái niệm hóa chuỗi cung ứng như là tập hợp con của chuỗi giá trị. Tất cả
nhân viên bên trong một tổ chức là một phần của chuỗi giá trị. Điều này lại
không đúng đối với chuỗi cung ứng. Các hoạt động chính đại diện cho bộ
phận hoạt động của chuỗi giá trị, và đây chính là những điều ám chỉ đến chuỗi
cung ứng. Ở cấp độ tổ chức, chuỗi giá trị là rộng hơn chuỗi cung ứng vì nó
bao gồm tất cả các hoạt động dưới hình thức của các hoạt động chính và hoạt
động bổ trợ. Hơn nữa, khái niệm chuỗi giá trị ban đầu tập trung chủ yếu vào

các hoạt động nội bộ, trong khi chuỗi cung ứng, theo định nghĩa, tập trung
vào cả nội bộ và bên ngoài. Để phản ánh ý kiến hiện tại, chúng ta phải mở
rộng mô hình chuỗi giá trị ban đầu, tập trung chủ yếu vào các thành phần nội
bộ, bao gồm cả nhà cung cấp và khách hàng nằm ở vị trí ngược dòng và xuôi
dòng của chuỗi so với tổ chức trọng tâm. Các cấp độ của nhà cung cấp và
khách hàng hình thành cơ sở của chuỗi giá trị mở rộng hoặc khái niệm doanh
nghiệp mở rộng, với tuyên bố rằng sự thành công chính là chức năng quản lý
một cách hiệu quả nhóm các doanh nghiệp liên kết với nhau qua khách hàng
và nhà cung cấp ở cấp độ đầu tiên (nghĩa rằng doanh nghiệp chỉ xem xét nhà
cung cấp và khách hàng của mình mà thôi). Thực ra, các doanh nghiệp tiến bộ
thấu hiểu rằng quản lý chi phí, chất lượng và phân phối yêu cầu phải quan tâm
đến nhà cung cấp ở cấp độ khá xa so với doanh nghiệp (nhà cung cấp cấp hai,
ba ).
Như vậy chúng ta có thể thấy được phần nào mối liên hệ giữa chuỗi cung
ứng và chuỗi giá trị của Porter.
1.3. Phân biệt chuỗi cung ứng và logictics.
Thuật ngữ logistics cũng đã được sử dụng chính thức trong Luật thương
mại 2005, và được phiên âm theo tiếng Việt là “lô-gi-stíc”. Điều 233 Luật
thương mại nói rằng:
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
19
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
“Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức
thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho,
lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng,
đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên
quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao.”
Xét trên góc độ học thuật thì hiện có nhiều định nghĩa học thuật về thuật

ngữ logistics. Theo Hiệp hội các nhà chuyên nghiệp về quản trị chuỗi cung
ứng (Council of Supply Chain Management Professionals - CSCMP), thì
thuật ngữ này được định nghĩa khá đầy đủ như sau: “Quản trị logistics là một
phần của quản trị chuỗi cung ứng bao gồm việc hoạch định, thực hiện, kiểm
soát việc vận chuyển và dự trữ hiệu quả hàng hóa, dịch vụ cũng như những
thông tin liên quan từ nơi xuất phát đến nơi tiêu thụ để đáp ứng yêu cầu của
khách hàng. Hoạt động của quản trị logistics cơ bản bao gồm quản trị vận tải
hàng hóa xuất và nhập, quản lý đội tàu, kho bãi, nguyên vật liệu, thực hiện
đơn hàng, thiết kế mạng lưới logistics, quản trị tồn kho, hoạch định cung/cầu,
quản trị nhà cung cấp dịch vụ thứ ba. Ở một số mức độ khác nhau, các chức
năng của logistics cũng bao gồm việc tìm nguồn đầu vào, hoạch định sản
xuất, đóng gói, dịch vụ khách hàng. Quản trị logistics là chức năng tổng hợp
kết hợp và tối ưu hóa tất cả các hoạt động logistics cũng như phối hợp hoạt
động logistics với các chức năng khác như marketing, kinh doanh, sản xuất,
tài chính, công nghệ thông tin.”
Phân biệt với “Chuỗi cung ứng”
Nếu logistics là một phần của quản trị chuỗi cung ứng như định nghĩa trên,
thì phần còn lại là gì? Phân biệt logistics và chuỗi cung ứng như thế nào? Hay
nói cách khác, logistics khác gì với chuỗi cung ứng?Để có căn cứ phân biệt, ta
quay trở lại với khái niệm "chuỗi cung ứng" cũng của Hiệp hội các nhà
chuyên nghiệp về quản trị chuỗi cung ứng.“Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm
hoạch định và quản lý tất cả các hoạt động liên quan đến tìm nguồn cung,
mua hàng, sản xuất và tất cả các hoạt động quản trị logistics. Ở mức độ quan
trọng, quản trị chuỗi cung ứng bao gồm sự phối hợp và cộng tác của các đối
tác trên cùng một kênh như nhà cung cấp, bên trung gian, các nhà cung cấp
dịch vụ, khách hàng. Về cơ bản, quản trị chuỗi cung ứng sẽ tích hợp vấn đề
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
20
Đề án môn học GVHD: GS.TS

Đặng Đình Đào
quản trị cung cầu bên trong và giữa các công ty với nhau. Quản trị chuỗi
cung ứng là một chức năng tích hợp với vai trò đầu tiên là kết nối các chức
năng kinh doanh và các qui trình kinh doanh chính yếu bên trong công ty và
của các công ty với nhau thành một mô hình kinh doanh hiệu quả cao và kết
dính. Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm tất cả những hoạt động quản trị
logistics đã nêu cũng như những hoạt động sản xuất và thúc đẩy sự phối hợp
về qui trình và hoạt động của các bộ phận marketing, kinh doanh, thiết kế sản
phẩm, tài chính, công nghệ thông tin.”
Nếu so sánh hai định nghĩa trên, có thể thấy sự khác nhau cơ bản. Khái
niệm chuỗi cung ứng rộng hơn và bao gồm cả logistics và quá trình sản xuất.
Ngoài ra, chuỗi cung ứng chú trọng hơn đến hoạt động mua hàng
(procurement) trong khi logistics giải quyết về chiến lược và phối hợp giữa
marketing và sản xuất.
Khi nói đến logistics, bạn có thể hay nghe các công ty dịch vụ nhận mình
là 3PL (Third Party Logistics provider), nghĩa là Công ty cung cấp dịch vụ
logistics bên thứ 3. Câu hỏi đặt ra là: 3PL là gì nếu họ là bên thứ 3, vậy còn
các bên thứ nhất (1PL), thứ hai (2PL), hay bên thứ tư (4PL) là gì?
1PL: là người cung cấp hàng hóa, thường là người gửi hàng (shipper),
hoặc là người nhận hàng (consignee). Các công ty tự thực hiện các hoạt động
logistics của mình. Công ty sở hữu các phương tiện vận tải, nhà xưởng, thiết
bị xếp dỡ và các nguồn lực khác bao gồm cả con người để thực hiện các hoạt
động logistics. Đây là những tập đoàn Logistics lớn trên thế giới với mạng
lưới logistics toàn cầu, có phương cách hoạt động phù hợp với từng địa
phương.
2PL: là người vận chuyển thực tế, chẳng hạn như hãng tàu, hãng hàng
không, hãng xe tải.
3PL: là người cung cấp giải pháp tổng thể cho dịch vụ logistics cho khách
hàng, họ thường đảm nhiệm một phần, hay toàn bộ các công đoạn của chuỗi
cung ứng.

4PL: Thuật ngữ 4PL lần đầu tiên được công ty Accenture sử dụng, và
công ty này định nghĩa như sau: “A 4PL is an integrator that assembles the
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
21
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
resources, capabilities, and technology of its own organization and other
organizations to design, build and run comprehensive supply chain solutions".
Sau đây ta sẽ xét ví dụ cụ thể về logistics cho công ty May 10, trích đăng từ
bài viết trên diễn đàn Vietship của thành viên có tên Dangerous Goods.Công
ty May 10 sản xuất và phân phối quần áo đi khắp nơi trong và ngoài nước,
giao hàng đến tận nơi, đến tận giá bán hàng của các đại lý bán buôn, bán lẻ,
thu hồi sản phẩm hư hỏng, lỗi, bán thanh lý hàng hết mốt, sale,
promotion v.v
Những việc cơ bản họ phải làm hàng ngày là làm hợp đồng, đặt mua vải,
chỉ, cúc, khóa, đinh, dây.v.v ở trong, ngoài nước và sẽ ở nhiều nước khác
nhau, nhiều thành phố khác nhau (vì không thể mua toàn bộ phụ kiện ở 1
nước, 1 thành phố được vì giá cả, mẫu mã, chất lượng ở mỗi nơi sẽ có 1 ưu
thế, mỗi 1 sản phẩm sẽ dùng 1 loại phụ kiện đặc biệt hoặc 1 loại vải theo đúng
style của đơn hàng đó và sẽ phải mua nhiều loại ở nhiều thành phố khác nhau,
rồi sợ chiến tranh, thiên tai, )Công việc vận hành hàng ngày, hàng tuần,
hàng tháng sẽ có những đơn hàng theo lịch trình lập trước gửi cho các công ty
vận tải (công ty logistics) đến giờ này, ngày này, tháng này công ty May 10 sẽ
cần bao nhiêu cont vải của Italy, bao nhiêu kg cúc của Hàn Quốc, bao nhiêu
chỉ từ nhà máy trong Biên Hòa chuyển ra để làm đơn hàng A trong bao nhiêu
ngày, Căn cứ theo Order của may 10, công ty vận tải lên kế hoạch và trao
đổi cùng May 10 để quyết định ngày nào thì nhập cái gì trước, bằng đường
nào, có thể kết hợp hay ghép hàng với đơn hàng khác hoặc của đơn vị khác
hay không, v.v , mục đích nhằm tiết kiệm tiền vận chuyển tối đa cho May

10, kịp tiến độ sản xuất hàng ngày mà lại không mất nhiều chi phí lưu kho
(việc này thì công ty May 10 không thể có điều kiện ghép hàng, không có hệ
thống đại lý toàn cầu và có phương án làm tốt bằng đơn vị vận tải được). Nếu
mọi việc đều xuôn xẻ, công nhân không ai ốm, điện không bị mất, không
mưa, không bão, không động đất, không thay đổi đơn hàng, kiểu dáng, không
thừa thiếu, không thay đổi giá cả, không có sự cạnh tranh, đổi nhà cung cấp
vv và vv thì công ty vận tải cứ thế mà làm và thu tiền.Nhưng, lúc nào cũng
sẽ có chữ “nhưng”, sẽ có lúc 1 trong những nguyên nhân khách quan đem
đến, May 10 buộc phải nhập nguyên phụ liệu gấp để kịp về sản xuất, đây là
lúc các anh chị vận tải sẽ phải đưa ra phương án tối ưu cho khách hàng, đi
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
22
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
bằng gì Sea (LCL; FCL), Truck, Rail, Sea-Air hay Air Vậy là các công ty
giao nhận vận tải (công ty logistics) phải tham gia sâu hơn vào công việc sản
xuất kinh doanh của May 10.
Hàng sản xuất ra sẽ cần đến 1 hãng tàu, 1 công ty Logistics hay 1 cty
FWD nào đó cho 1 vài anh chị khéo miệng đến nói dăm ba câu phải trái, hạ
giá, nâng hoa hồng để giành việc vận chuyển nhưng, lại có 1 chữ “nhưng”,
cạnh tranh thế thì khó lắm, công ty đang làm vận tải cho may 10 họ phải dán
tem mã, đánh số từng sản phẩm, từng thùng hàng, từng đơn hàng, từng lô
hàng, còn 1 số động tác nữa xin được bỏ qua, họ phải quét mã để có số liệu
hàng hóa để đưa lên mạng của công ty vận tải và để cùng quản lý lượng hàng,
phụ liệu vào/ ra với May 10 nữa. Hàng chuẩn bị ra lò rồi thì kế hoạch phân
phối đi nội địa bao nhiêu, nước ngoài bao nhiêu, cửa hàng này bao nhiêu sản
phẩm, cửa hàng kia bao nhiêu sản phẩm thì các anh vận tải cũng có rồi, lúc
này thì công ty vận tải sẽ lên kế hoạch đóng đơn nào, đi đâu trước, có thể có
hàng lẻ, hàng cont, hàng bộ, hàng Air nhưng các anh hàng không hoặc các

anh hãng tàu hay các anh bảo là có Contract giá tốt đợi đấy mà vào cạnh tranh
được (các anh có thể làm sub-contract thôi thì được) vì công ty vận tải người
ta đã làm bao nhiêu công đoạn có lãi rồi, nếu cần cạnh tranh bằng giá, họ sẵn
sàng cạnh tranh giá thấp hơn và sẽ sử dụng dịch vụ của hãng vận tải giá cao/
dịch vụ tốt hơn ông giá rẻ/ dịch vụ kém và hơn nữa họ có 1 loạt công cụ mà
hãng vận tải trực tiếp không bao giờ cạnh tranh được thì chắc chắn May 10 sẽ
không bỏ công ty vận tải trọn gói kia được và lúc đó hãng vận tải trực tiếp chỉ
đi săn đón các ông làm vận tải trọn gói cho các nhà máy như May 10.Hàng
chuyển đến cảng đích rồi việc của công ty logistics lại tiếp tục làm thủ tục hải
quan, chuyển hàng đến kho phân phối hoặc chuyển trực tiếp đến từng cửa
hàng đặt sản phẩm hoặc đại lý bán hàng cho May 10 v.v Công ty logisitcs
có thể thu tiền, ghi lại báo cáo lượng hàng tiêu thụ, hàng tồn, hàng đổi, bảo
hành, yêu cầu chuyển thêm hàng vào ngày mai, v.v cho may 10 từ đó May
10 có kế hoạch sản xuất, phân phối, thu đổi, bảo hành, khiếu nại nhà cung cấp
vật liệu, và báo cho công ty vận tải kế hoạch vận chuyển, thị trường này
đang cần hàng này, không cần hàng kia, thị trường này bán ế move qua thị
trường khác để clear hàng. Đơn nào còn đang nằm trong kho, đơn nào đã ra
thị trường và nằm tại shop nào, ngày tháng nào thì Sale, promotion đơn nào,
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
23
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
loại gì. Tất cả, tất cả những sản phẩm của May 10 đang nằm tại đâu, đất nước
nào, thành phố nào, kho hàng nào đều được công ty vận tải quản lý và cập
nhật thay đổi hàng ngày với May 10. Thậm chí các công việc tìm kiếm mở
rộng thị trường phân phối tại các nước, các yêu cầu, phản hồi từ các đại lý bán
hàng, từ công tác thị trường, từ khách hàng công ty vận tải có thể giúp May
10 luôn vì công ty vận tải họ có hệ thống toàn cầu, biết về các công ty bản địa
nên thuận lợi hơn trong việc cầu nối thương mại.

2.Xu hướng phát triển của quản trị chuỗi cung ứng
* Xuất hiện mô hình chuỗi cung ứng mới
Với sự phát triển của quản trị chuỗi cung ứng như hiện nay, nhiều mô hình
quản trị chuỗi cung ứng sẽ ra đời và được ứng dụng rộng rãi trong thực tế.
Các doanh nghiệp sẽ có nhiều mô hình để lựa chọn sao cho phù hợp với tình
hình hoạt động và tài chính của doanh nghiệp mình.
*Hợp nhất các chuỗi cung ứng
Sự hợp nhất các chuỗi cung ứng cũng là hiện tượng nổi trội, ba yếu tố
chính sẽ tác động trực tiếp tới sự thay đổi cấu trúc để làm sao các doanh
nghiệp duy trì hoạt động của chuỗi cung ứng đó:
-Các doanh nghiệp sẽ liên kết chuỗi cung ứng nội bộ với các chuỗi cung ứng
của đối tác và hợp nhất hoạt động với nhau.
-Công nghệ và internet là chìa khoá để cải thiện chiến lược quản trị chuỗi
cung ứng.
-Tái cơ cấu hoạt động chuỗi cung ứng để đạt được mục tiêu cua doanh
nghiệp.
*Công nghệ RFID sẽ phát triển nổi trội
Công nghệ RFID sẽ phát triển và được ứng dụng rộng rãi trong quản trị chuỗi
cung ứng, đặc biệt trong ngành hàng tiêu dùng. Công nghệ này giúp định
dạng sản phẩm, vận chuyển và kiểm soát hàng tồn kho, tránh hàng hoá trong
kho không đủ để phục vụ nhu cầu của thị trường đồng thời giảm thời gian
hàng hoá, nguyên vật liệu bị lưu kho chờ sản xuất hay xuất xưởng đưa ra phân
phối trên thị trường.
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD
Thương mại 53B
24
Đề án môn học GVHD: GS.TS
Đặng Đình Đào
III.Các nhân tố tác động đến chuỗi cung ứng sản phẩm.
1.Các nhân tố cơ bản

1.1.Nguồn vốn.
Tiết kiệm nguồn vốn, tận dụng tài nguyên
Hiện nay, khi các công cụ Internet gần như đã vươn đến mọi ngóc ngách
trên trái đất với mức chi phí vô cùng thấp, thì chúng ta hoàn toàn có thể kết
nối dây chuyền cung ứng của bạn với dây chuyền cung ứng của các nhà cung
cấp, kể cả các khách hàng trong một mạng lưới rộng khắp nhằm tối ưu hoá
chi phí và cơ hội cho tất cả các thành phần có liên quan.Dây chuyền cung ứng
tại phần lớn các ngành công nghiệp được xem như một ván bài lớn. Người
chơi không muốn phơi bày các quân bài của họ, bởi vì họ không tin tưởng bất
kỳ ai. Nhưng trên thực tế, nếu họ lật ngửa quân bài của mình, thì tất cả đều có
thể được hưởng lợi. Các nhà cung cấp sẽ không phải dự đoán xem có bao
nhiêu nguyên liệu thô sẽ được đặt hàng, các nhà cung cấp sẽ không phải thu
mua quá số lượng họ cần dự phòng trong trường hợp nhu cầu về sản phẩm đột
ngột tăng cao, các nhà bán lẻ sẽ không phải để trống các kệ hàng nếu họ chia
sẻ với nhà sản xuất các thông tin họ có về tình hình buôn bán sản phẩm của
nhà sản xuất…Internet đã giúp cho việc trao đổi thông tin này trở nên dễ
dàng, nhưng hàng thế kỷ việc không tin cậy và thiếu hợp tác giữa các bên đã
khiến công việc này gặp nhiều khó khăn.
Những năm gần đây, không ít công ty đã rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng
nam” tức là họ bị buộc phải tham gia vào việc chia sẻ thông tin về dây chuyền
cung ứng với một hoặc một vài công ty lớn trong ngành.
Ưu điểm của việc chia sẻ thông tin day chuyền cung ứng kịp thời, chính
xác là khả năng sản xuất hay vận chuyển một số lượng nhất định sản phẩm
phù hợp với nhu cầu thị trường. Đó là công việc vẫn được biết đến với cái tên
“sản xuất kịp thời” và nó cho phép các công ty có thể giảm thiểu lượng hàng
tồn kho. Đồng thời, các công ty thực chất sẽ cắt giảm được chi phí kể từ khi
họ không còn phải mất tiền để sản xuất và lưu kho các sản phẩm dư thừa nữa.
Công tác dây chuyền cung ứng: Hãy xem xét các sản phẩm tiêu dùng như
một ví dụ của sự cộng tác. Nhiều năm qua, có 2 công ty đã phối kết hợp chặt
SV: Ngô Thị Thùy Liên Lớp: QTKD

Thương mại 53B
25

×