Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ CNHHĐH đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.17 KB, 33 trang )

KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ
BỘ MÔN QUẢN TRỊ

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: NGUỒN NHÂN LỰC
Đề tài:
“Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước”.
-1-
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 5
1.1. Các khái niệm về nguồn nhân lực 5
1.2. Sự cần thiết khách quan của việc xây dựng con người Việt Nam trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp, hóa hiện đại hóa 6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 7
2.1. Số lượng lao động 7
2.2. Cơ cấu nguồn lao động có nhiều bất cập 9
2.3. Nguyên nhân gây ra những bất cập 17
CHƯƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN
LỰC TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC 22
4.1. Những giải pháp chung 22
4.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa 25
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
-2-
Trong thời đại ngày nay, thời đại mà khoa học đã thực sự trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa học và công nghệ


hiện đại, con người càng tỏ rõ vai trò của mình trong tiến trình phát triển của xã hội.
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội.
Song con người chỉ trở thành động lực cho sự phát triển khi và chỉ khi họ có điều kiện
đã sử dụng sức lao động của họ để tạo ra của cải vật chất, tinh thần cho xã hội. Quá
trình kết hợp sức lao động và điều kiện sản xuất là quá trình người lao động làm việc
hay nói cách khác là khi họ có được việc làm.
Lao động là vốn quý, là yêu tố cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của
mọi hình thức kinh tế xã hội, chính vì lẽ đó Đảng và nhà nước ta luôn đặt vấn đề về
dân số, lao động, việc làm vào vị trí hàng đầu trong các chính sách kinh tế xã hội.
Chính sách đó được thể hiện trong việc hoạch định các chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của đất nước, đặt con người và việc làm là vị trí trung tâm lấy lợi ích của con
ngtười làm điểm xuất phát của mọi chương trình kế hoạch phát triển.
Con người không chỉ là mục tiêu, động lực của sự phát triển, thể hiện mức độ
chế ngự thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho con người, mà còn tạo ra những điều
kiện để hoàn thiện chính bản thân con người.
Đối với Việt Nam, là một nước đông dân trên thế giới, có nguồn lao động dồi
dào nhưng trình độ còn thấp, muốn đáp vứng được yêu cầu của công cuộc công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước, nhất là đáp ứng cho yêu cầu của kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội cần phải có một kế hoạch rõ ràng về đào tạo, huy động, và sử dụng lực lượng
lao động.
Nước ta tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá trong điều kiện tiềm lực kinh tế
còn nhỏ bé, tích luỹ từ nội bộ kinh tế còn thấp. Ngoài ra tiềm lực con người, tài
nguyên khoáng sản không nhiều… Do đó để tiếp cận với nền khoa học, kỹ thuật đang
tiến nhanh như vũ bão của thế giới, từng bước rút ngắn và đuổi kịp với sự phát triển
của các nước; Đảng ta đã xác định phát triển nguồn nhân lực là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong suốt quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá, là
nhân tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Sự khẳng định này là bài học rút
-3-
ra từ lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Nguyên nhân của mọi nguyên
nhân dẫn đến thành công hay thất bại đều do chính con người quyết định.

Xuất phát từ những nhận thức trên, em đã chọn đề tài “Thực trạng và giải
pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước” để
hoàn thành bài tiểu luận này.
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN
-4-
1.1. Các khái niệm về nguồn nhân lực
- Nguồn nhân lực với tư cách là nơi cung cấp cho xã hội, nó bao gồm toàn bộ
dân cư có cơ thể phát triển bình thường, không kể bị khuyết và dị tật bẩm sinh.
- Nguồn nhân lực có thể với tư cách là một nguồn lực cho sự phát triển kinh tế –
xã hội, là khả năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm
dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động.
- Nguồn nhân lực còn được hiểu với tư cách là tổng hợp cá nhân những con
người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh
thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này, nguồn nhân lực bao
gồm những người bắt đầu bước vào tuổi lao động trở lên có tham gia vào nền sản xuất
xã hội.
- Là toàn bộ những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người trong
độ tuổi lao động, có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm
nội trợ trong gia đình mình hoặc chưa có nhu cầu làm việc và những người thuộc tình
trạng khác (những người nghỉ việc hoặc hưu trước tuổi theo quy định của bộ luật lao
động ).
- Nguồn nhân lực là tiềm năng của lao động trong thời kỳ xác định của một
quốc gia, suy rộng ra có thể xác định trên một địa phương, một ngành hay một vùng.
Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế xã hội.
Nguồn nhân lực được xác định bằng số lượng và chất lượng của bộ phận dân số
có thể tham gia vào hoạt động kinh tế xã hội. Số lượng nguồn nhân lực được thể hiện
bằng các chỉ tiêu về quy mô và tốc độ phát triển. Chất lượng nguồn nhân lực được thể
hiện bằng các chỉ tiêu về tình trạng phát triển thể lực, trình độ kiến thức, tay nghề, tác
phong nghề nghiệp, cơ cấu nguồn nhân lực về tuổi, giới tính, thiên hướng ngành nghề,

phân bố lãnh thổ, khu vực thành thị – nông thôn… các phương thức tác động và sự
phát triển về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực bao gồm : công tác dân số kế
hoạch hoá gia đình, công tác phân bố nguồn nhân lực theo vùng, lãnh thổ, các chương
trình dinh dưỡng, công tác y tế chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, công tác giáo dục đào
tạo và dạy nghề
-5-
Nguồn nhân lực gồm hai bộ phận:
- Bộ phận hoạt động;
- Bộ phận chưa hoạt động.
2.2. Sự cần thiết khách quan của việc xây dựng con người Việt Nam trong
quá trình đẩy mạnh công nghiệp, hóa hiện đại hóa.
- Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa.
- Phát huy nguồn nhân lực con người là vấn đề chiến lược trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH
CNH-HĐH Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
-6-
2.1. Số lượng lao động
Việt Nam là một nước có tổng số dân số thuộc loại cao trên thế giới. Trong
những năm vừa qua, chúng ta đã cố gắng giảm tốc độ tăng dân số tự nhiên và đã đạt
được những thành công đáng kể. Đó là giảm được tốc độ tăng dân số từ trên 2%/năm
xuống còn 1,7%/năm vào năm 1999. Tuy nhiên với tình hình dân số đông như vậy vẫn
là một áp lực lớn cho toàn xã hội. Ta hãy xét bảng sau để đánh giá tình hình dân số
cũng như lực lượng lao động của Việt Nam:
Bảng 1: Dự báo dân số việt Nam 1/4 năm 1994-2024
(Đơn vị: Nghìn người)

Nhóm tuổi 1994 1999 2004 2009
0 - 9 17381,4 16592,5 15780,5 15320,0
10 - 14 8542,5 8853,3 8270,1 8112,5
Dân số trong tuổi lao động 38462,0 44470,2 50656,3 55606,0
60-64 1814,4 1704,9 1678,3 1868,1
65 trở lên 3559,4 4168,0 4537,2 4752,7
Dân số cả nước 70777,9 76787,1 82004,2 87218,1
Tỷ lệ % so với dân số 54,34 57,91 61,77 63,76
Nhóm tuổi 2014 2019 2024
0 - 9 15424,8 15056,7 14270,9
10 - 14 7506,4 7680,6 7632,1
Dân số trong tuổi lao động 59253,1 61264,5 62947,2
60-64 2756,8 3914,3 4733,5
65 trở lên 5060,6 6105,0 8077,9
Dân số cả nước 92216,5 96706,2 100491,4
-7-
Tỷ lệ % so với dân số 64,25 63,75 62,64
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Như vậy, nhìn vào bảng trên ta có thể thấy giai đoạn 2001-2005 , hay cụ thể
hơn vào năm 2004, dân số nước ta là 82004,5 nghìn người, trong đó dân số ở độ tuổi
lao động là 50656,3 nghìn người, chiếm 61,77% so với dân số. Đây là một áp lực lớn
cho xã hội trong việc giải quyết việc làm.
Bước sang năm 2005, theo dự báo của bảng trên sẽ có khoảng 8853,3 nghìn
người bước vào độ tuổi lao động và đây là con số đủ khả năng cung cấp nhu cầu lao
động của xã hội.
Nhìn vào bảng trên ta cũng thấy dân số trong độ tuổi lao động liên tục tăng qua
các năm. Cụ thể , năm 1994 chiếm 53,34% so với dân số, năm 1999 chiếm 57,91% và
năm 2004 sẽ chiếm khoảng 61,77%. Con số này cho chúng ta biết tỷ lệ tăng trưởng
dân số tuy đã hạ xuống nhưng vẫn ở mức cao, áp lực công việc nặng nề, nếu không có
những phương pháp giải quyết thích hợp sẽ dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp cao.

Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao cũng cho chúng ta thấy một khả năng
dồi dào về lao động, có đủ khả năng giải quyết mọi công việc. Trên thực tế, năm 1998,
cả nước có khoảng 45,2 triệu lao động, so với năm 1995 tăng 3,91 triệu người, trung
bình tăng 1,3 triệu người hàng năm. Đây là kết quả của tốc độ tăng dân số tương đối
cao và ổn định của những năm trước. Trong đó số lao động có khả năng lao động cũng
tăng từ 83,7% năm 1995 lên 84,4% năm 1998. Năm 1996, lực lượng lao động nước ta
là 35,9 triệu người. Tốc độ tăng bình quân 2,95%/năm.Với số lao động mới tăng thêm,
4 triệu người, số lao động thất nghiệp hoàn toàn chưa được giải quyết việc làm năm
1996 là 0,7 triệu người, năm 1997 là 1,05 triệu người; số lao động dôi ra do chuyển
dịch cơ cấu kinh tế dưới tác động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sắp
xếp lại doanh nghiệp phải tìm việc làm mới cho khoảng 3 triệu người; yêu cầu của
việc nâng quỹ thời gian lao động trong nông thôn đã được sử dụng 72,11% năm 1996
lên 75% năm 2000. Trong 4 năm (1996-2000) đã có 8 triệu người cần được giải quyết
việc làm.
-8-
2.2. Cơ cấu nguồn lao động có nhiều bất cập.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước không chỉ đòi
hỏi đội ngũ lao động có trình độ cao về tay nghề và trí tuệ mà còn phải có cơ cấu hợp
lý. Chất lượng nguồn lao động nước ta hiện nay nhìn chung thấp, điều đó không chỉ
thể hiện ở tình trạng sức khoẻ và trình độ chuyên môn kỹ thuật yếu mà còn thể hiện ở
những bất cập trong cơ cấu nguồn lao động.
Về sức khoẻ, mặc dù đã có những tiến bộ trong công tác chăm sóc sức khỏe cho
người dân nhưng do xuất phát điểm là một nước nghèo, đông dân nên phần lớn dân số
nước ta chưa đảm bảo về sức khoẻ, đặc biệt là trẻ em và bộ phận dân số ở khu vực
nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Về lề lối, tác phong làm việc, do ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung
nên còn chậm chạp, thiếu động lực sáng tạo trong lao động.
Về mặt cơ cấu lao động của nước ta quả thật còn rất nhiều nan giải cần phải giải
quyết được thể hiện qua thực trạng sau:
Thứ nhất, tuy tỷ lệ biết chữ của nước ta cao so với một số nước nhưng trình độ

văn hoá vẫn thuộc loại thấp, thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2: Cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt động kinh tế phân theo
trình độ văn hoá (%)
1996 1997 1998
Tổng Trong đó
nữ
Tổng
Trong đó
nữ
Tổng Trong đó nữ
Chưa biết chữ 5,8 62,3 5,1 61,6 3,8 62,4
Chưa tốt nghiệp cấp I 20,9 56,4 20,3 55,5 18,5 56,1
Đã tốt nghiệp cấp I 27,8 49,7 28,1 49,2 29,4 45,3
-9-
Đã tốt nghiệp cấp II 32,1 48,3 32,4 48,1 32,3 48,3
Đã tốt nghiệp cấpIII 13,5 44,1 14,1 44,0 16,0 44,2
Nguồn: Thực trạng lao động - Việc làm ở Việt Nam, nxb Thống kê 1996-1998
Theo số liệu của bảng trên, tỷ lệ người chưa biết chữ đã giảm, là kết quả của
chương trình xoá mù chữ do Chính phủ thực hiện trong những năm qua. Số lao động
chưa tốt nghiệp cấp I trong hai năm 1997-1998 đẫ giảm từ 20,3% xuống 18,5% nhưng
tỷ lệ này vẫn còn cao và tốc độ chậm, trong khi đó cơ cấu lao động theo trình độ cấp I,
II, III chuyển biến còn rất chậm. Thực tế là tỷ lệ lao động tốt nghiệp cấp I năm 1996 là
27,8% nhưng đến năm 1998 cũng mới chỉ là 29,4%; lao động tốt nghiệp cấp III năm
1996 là 13,5% đến năm 1998 là 16%. Trong khi đó, tỷ lệ lao động tốt nghiệp cấp III
chiếm một tỷ lệ không cao trong toàn lao động, do đó cơ hội tìm việc làm là rất khó
khăn.
Thứ hai, vẫn tồn tại một cách quá cao tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu
lao động kỹ thuật. Thực hiện CNH-HĐH là chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến lao động cùng với công nghệ cao,

phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao dộng xã hội cao.
Thực chất đây là quá trình chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công
nghiệp. Bước chuyển này sẽ vô cùng khó khăn nếu không đi trước một bước trong
việc chuẩn bị lực lượng lao động có trình độ học vấn, tay nghề cao, có cơ cấu hợp lý
và đồng bộ.
Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH song tỷ lệ lao động
giản đơn còn quá cao (88%), cơ cấu nguồn lao động còn quá lạc hậu so với nhiều
nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển.
Trong khi lực lượng lao động lành nghề ở các nước công nghiệp chiếm tới 35%
trong tổng số lực lượng lao động xã hội thì nước ta chỉ có 5,5%. Lực lượng lao động
có trình độ chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư, và các nhà khoa học của họ chiếm tới 30%
còn nước ta mới có 6,5%. Chúng ta đang rất thiếu đội ngũ lao động kỹ thuật (tính đến
giữa năm 1999 số này mới có khoảng 14%). Trong một số ngành kinh tế quan trọng
-10-
cần nhiều lao động kỹ thuật nhưng hiện có rất ít. Chẳng hạn, ngành công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng1,6%, ngành nông lâm ngư nghiệp 7% (hiện nay lực lượng lao
động của ngành này chiếm tới 3/4 tổng lao động xã hội). Vùng đồng bằng sông Cửu
Long - một trong những vùng sản xuất lương thực lớn nhất - nhưng lực lượng lao động
đã qua đào tạo chỉ đạt 3,68%, trong đó công nhân kỹ thuật có bằng 0,6%, trung cấp
1,55% và đại học 0,74%. Một số khu chế xuất, khu công nghiệp cần tuyển lao động có
kỹ thuật thì lao động của nước ta chỉ đáp ững được rất ít. Ví dụ: Khu chế xuất Linh
Trung cần tuyển 7000 công nhân nữ có trình độ tay nghề bậc 3/7 trở lên nhưng chỉ đáp
ứng được 1500 người. Khu chế xuất Tân Thuận cũng ở tình trạng tương tự: cần tuyển
15000 công nhân kỹ thuật, ta chỉ đáp ứng được 3000. Cái thiếu của ta là lao dộng kỹ
thuật trong khi lại dư thừa lao động phổ thông. Bởi vậy, cơ cấu nguồn lao động không
đáp ứng được yêu cầu thị trường trong nước, chưa nói đến yêu cầu tham gia cạnh tranh
trên thị trường quốc tế.
Thứ ba, tình trạng thừa thầy thiếu thợ ở mức khá nghiêm trọng. Tức là ngay
trong lực lượng lao động có trình độ chuyên mộ kỹ thuật đã ít lại còn có cơ cấu bất
hợp lý. Có thể thấy tình trạng đó ở bảng sau:

Bảng 3: Cơ cấu lực lượng lao động kỹ thuật ở Việt Nam giai đoạn 1979-1999
1979 1989 1997 1999
Tổng số 100 100 100 100
Công nhân kỹ thuật 68,6 44,9 40,8 30,3
Trung học chuyên nghiệp 21,7 35,2 35,4 36,8
Cao đẳng , đại học 9,7 19,9 23,8 32,9
Nguồn: Thời báo kinh tế, số 13 ngày 31/1/2000
Nhìn vào biểu trên ta thấy, nếu như năm 1979, cơ cấu lực lượng lao động kỹ
thuật của nước ta là tương đối phù hợp với yêu cầu thực hiện CNH-HĐH đất nước (tỷ
lệ phổ biến của cơ cấu lực lượng lao động kỹ thuật của các nước đã thành công trong
-11-
CNH-HĐH là 1 đại học, cao đẳng/ 4 trung học chuyên nghiệp/10 công nhân kỹ thuật
và lúc đó tỷ lệ tương ứng của ta là 1/2, 2/7, 1). Nhưng sau 10 năm (đến năm 1989) tỷ
lệ đó chuyển dịch theo hướng lệch đi (1/1, 8/2 ,2), bộc lộ rõ tình trạng “thừa thầy, thiếu
thợ”, đến năm 1997 là 1/1,5/1,7 và đến năm 1999 tỷ lệ này càng chệch hướng thêm
nữa (1/1,2/0,92), nó gần như “lộn ngược” với các nước khác. Cũng từ biểu trên ta thấy
số lao động có trình độ đại học, cao đẳng trở lên từ năm 1979 đến năm 1989 tăng rất
nhanh (3,4 lần), trong thời gian đó số công nhân kỹ thuật lại giảm rất nhanh (2,26 lần).
Vì thế, chúng ta đang còn ở trong tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” rất nghiêm trọng.
Theo báo cáo của bộ giáo dục và đào tạo, trong 10 năm (1986-1996), số học sinh học
nghề giảm 35%, số giao viên dạy nghề giảm 31%, số trường dạy nghề giảm 41%,
trong khi đó có 70-80% số sinh viên tốt nghiệp đại học cao đẳng ra trường không có
việc làm, riêng nghành y hiện nay có trên 3000 bác sỹ không có việc làm.
Thứ tư, lực lượng lao động là chủ yếu trong cơ cấu lao động trong ngành. Sự
nghiệp CNH đã được tiến hành vài thập kỷ song cho đến nay nền kinh tế nước ta vẫn
còn mang nặng dấu ấn một nền kinh tế thuần nông, thể hiện rõ trong cơ cấu nguồn lao
động theo ngành. Năm 1993, lao động nông nghiệp chiếm tới 71%, trong khi đó lao
động công nghiệp chỉ chiếm 12% và dịch vụ 17% trong tổng lực lượng lao động xã
hội. Năm 1998, cơ cấu lao động theo ngành đã có những chuyển biến tích cực, nhưng
so với yêu cầu còn rất chậm: lao động nông nghiệp giảm còn 66% và lao động công

nghiệp, dịch vụ tăng lên 13% và 21%. So với một số nước trong khu vực, cơ cấu lực
lượng lao động của nước ta như vậy là còn rất lạc hậu. Chẳng hạn, năm 1997, tỷ trọng
lao động nông nghiệp của Mianma giảm xuống còn 51,8%, Malayxia còn 14,8%,
Indonexia còn 39,2%, Phillipin 37,2%, Thái Lan 49,2%.
Để có nền kinh tế tiên tiến, hiệu quả vấn đề không chỉ đơn thuần thay đổi cơ
cấu ngành kinh tế, mà quan trọng hơn là thay đổi cơ cấu lao động, cơ cấu dân số. Hiện
tại vẫn còn khoảng gần 70% lao động nằm trong khu vực I (nông nghiệp, lâm nghiệp,
thuỷ sản) và 80% dân số sống ở vùng nông thôn thì việc thực hiện CNH-HĐH rất
không dễ dàng. Điều này cho thấy tính phức tạp của việc chuyển từ một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu sang một nền kinh tế có vóc dáng hiện đại, và cũng phải biết từ bỏ
tham vọng đốt cháy giai đoạn để tránh những bệnh do hình thức mà ra.
-12-
Từ năm 1980 đến năm 1997, dân số tăng 1,3 lần, lao động tăng 1,7 lần, riêng
lao động trong nông nghiệp là 1,75 lần nhưng diện tích trồng trọt là 1,38 lần. Do đó,
diện tích gieo trồng tính bình quân năm 1997 giảm đi. Vì vậy, cần phải tăng mạnh
năng suất lao động trong nông nghiệp để cải thiện tình hình.
Thứ năm, thiếu cân đối trong cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ. Hiện nay, tỷ
trọng lao động ở hai vùng đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng Sông Cửu Long cao
nhất nước (20,5% và 21,7% tổng lực lượng lao động xã hội). Trong khi đó vùng Tây
Nguyên rộng lớn, lực lượng lao động chỉ có 4%, vùng duyên hải Miền Trung 10,4%
và Đông Nam Bộ 12,7%. Sự mất cân đối này không chỉ gây nên khó khăn cho vấn đề
công ăn việc làm mà còn ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế xã hội cũng như an ninh
quốc phòng của quốc gia.
Thứ sáu, chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra rất chậm theo ngành kinh tế. Vai
trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thực ra không dừng lại ở chỗ nó chiếm bao
nhiêu phần trăm trong GDP mà ở chỗ nó thu hút đến trên 80% lực lượng lao động xã
hội (bảng 4 và 5):
Bảng4: Thay đổi lao động trong khu vực nhà nước 1990-1995
1990 1991 1992 1993 1994 1995
Tổng số lao động (nghìn) 30286 30994 31815,2 32718 33663,9 34589,6

Khu vực nhà nước 3415,7 3135,7 2975,2 2960,4 2928,3 3053,1
Tỷ trọng (%) 11,3 10,1 9,4 9,0 8,7 8,8
Tăng, giảm (nghìn) -280 -160,5 -14,8 -32,1 124,8
Nguồn: Niên giám thống kê
Bảng 5: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
-13-
Đơn vị: %
1994 1995 1996 1997
(1) (2) (1) (2) (1) (2) (1) (2)
Tổng số 33,664 8,70 34,950 8,83 35,792 8,77 33,994 8,83
Khu vực I
Nông nghiệp và Lâm nghiệp
Thuỷ sản
71,68
69,99
1,69
1,24
1,23
1,68
69,74
68,00
1,74
1,21
1,20
1,48
69,22
67,48
1,74
1,04
1,03

1,49
68,78
67,07
1,70
1,01
1,00
1,35
Khu vực II
CN khai thác
CN chế biến
SX và PP điện, khí đốt và nước
Xây dựng
12,93
0,34
9,26
0,44
2,89
22,79
73,33
19,07
32,21
27,25
13,25
0,60
9,33
0,44
2,88
22,93
49,08
18,56

35,15
29,78
12,93
0,59
9,19
0,43
2,72
23,37
46,48
19,09
39,46
30,18
12,52
0,57
8,90
0,41
2,64
24,73
52,6
19,38
38,56
34,65
Khu vực III
Thương nghiệp và sửa chữa
Khách sạn, nhà hàng
Vận tải, kho bãi, thông tin
Tài chính và tín dụng
Hoạt động và KHCN
Kinh doanh tài sản và tư vấn
QLNN, ANQP, BHXH

Giáo dục và đào tạo
Y tế và cứu trợ xã hội
15,39
6,56
0,51
1,65
0,35
0,12
0,16
0,59
2,67
1,04
31,62
8,98
17,77
34,43
41,88
65,86
56,72
91,99
75,55
44,25
17,02
5,46
1,46
2,26
0,37
0,11
0,16
1,13

2,81
0,81
29,07
10,51
6,83
24,96
37,66
69,79
51,72
52,00
73,01
58,52
17,85
0,63
1,54
2,39
0,35
0,11
0,21
1,14
2,78
0,82
28,16
9,61
7,27
24,49
39,66
81,63
44,21
53,10

74,49
57,24
18,70
7,22
1,40
2,31
0,34
0,11
0,21
1,11
2,70
0,80
26,95
7,68
7,19
23,00
41,78
79,63
44,13
57,60
77,75
58,51
-14-
Hoạt động VHTT
Hoạt độngdảng, đoàn thể
Phục vụ cá nhân và cộng đồng
0,31
0,23
1,02
28,27

68,15
4,00
0,27
0,28
1,65
33,83
56,32
2,71
0,72
0,28
1,66
33,72
54,91
2,78
0,26
0,27
1,61
34,72
64,66
3,68
Nguồn: Tính toán từ niên giám thống kê
(1): Tổng số lao động: Triệu người, cơ cấu lao động là % trong tổng số.
(2): Tỷ lệ lao động trong khu vực nhà nước trong tổng số lao động của mỗi ngành
kinh tế.
Bảng 4 cho ta thấy lao động trong khu vực nhà nước chỉ chiếm 10% trong tổng
số lao động đang làm việc. Năm 1990, tỷ trọng đó là 11,3%, năm 1994 còn 10,1% và
năm 1995 còn 8,8% và duy trì ở mức đó cho đến nay (nhưng trong tương lai sẽ còn
giảm). Theo số liệu thống kê thì từ năm 1991 đến năm 1994, khu vực nhà nước đã đưa
ra gần nửa triệu lao động và chính khu vực ngoài quốc doanh đã tiếp nhận phần lớn số
lao động này.

Ta hãy xét bảng 5 ở trên để thấy được cơ cấu lao động và quá trình phân bổ lại
lực lượng lao động trong nền kinh tế từ năm 1994 đến năm 1997. Khu vực I chiếm
70% lao động đang làm việc, khu vực II chỉ chiếm vào khoảng 13% và còn lại là khu
vực dịch vụ trên dưới 17%. Lao đông trong khu vực I có xu hướng giảm, khu vực II
gần như không thay đổi và khu vực III có chiều hướng gia tăng, nhưng nói chung sự
thay đổi là không đáng kể, qqua trình phân bổ lại lực lượng lao động giữa các ngành
kinh tế lớn vẫn chưa diễn ra, khu vực I vẫn còn quá lớn và hầu hết là ngoài quốc
doanh. Khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng lớn và hầu như bao trumg ở những ngành
công nghiệp, những ngành đòi hỏi có trình độ kỹ thuật và đào tạp tốt. Có hay không sự
trùng hợp về lao động từ khu vực nhà nước chảy sang khu vực tư nhân từ năm 1991
đến năm 1994 làm cho tỷ lệ tăng trưởng cao, và khi khu vực nhà nước thu hút lao động
trở lại thì qúa trình tăng trưởng bị giảm sút là điều còn theo dõi và phân tích về sau
này. Từ bảng trên cho thấy trong khu vực ngoài quốc doanh hầu hết là nông nghiệp và
những ngành nghề đơn giản, trình độ kỹ thuật thấp, ít được đào tạo, vì thếviệc phân bổ
lại lực luợng lao động trong thời gian tới sẽ hết sức khó khăn.
-15-
Thứ bảy, năng suất lao động của nước ta còn rất thấp. Năng suất lao động xã
hội có thể hiểu là lượng GDP do một lao động làm ra trong năm. Chúng ta có thể thấy
mối quan hệ giữa lao động và vốn đầu tư qua bảng sau đây:
Bảng 6: Năng suất lao động và trang bị vốn đầu tư cho lao động
GDP(triệu đồng)/1 LĐ Vốn ĐT(triệu đồng)/1 LĐ
1995 1996 1997 1995 1996 1997
Chung trong nền kinh tế 5,65 5,97 6,25 1,68 1,89 2,14
Kinh tế nhà nước 25,67 27,79 29,27 6,72 9,73 11,66
Nguồn: Tính toán từ thống kê
Tính theo giá cố định năm 1994, năng suất lao động xã hội năm 1995 là 5,65
triệu đồng, năm 1996 là 5,97 triệu đồng và năm 1997 là 6,25 triệu đồng. Nghĩa là có sự
gia tăng liên tục năng suất lao động trung bình của toàn xã hội nhưng bức tranh năng
suất trong từng ngành lại rất khác nhau: năng suất thấp và hầu như không tăng trong
khu vực I với ngành nông nghiệp và thuỷ sản; ở khu vực III có năng suất khá cao

nhưng không có gia tăng trong các năm 1995-1997. Kinh tế nhà nước với các ngành
công nghiệp, dịch vụ có mức năng suất cao và tăng nhanh qua các năm, nhưng ở khu
vực I, khu vực lao động của ngoài quốc doanh thì lại có năng suất rất thấp và sự gia
tăng không đáng kể. Nguyên nhân chính là vốn đầu tư cho một lao động ở khu vực II,
III cao hơn so với khu vực I và ở khu vực I hầu như không tăng qua các năm 1995-
1997 về mức vốn đầu tư cho một lao động.
2.3. Nguyên nhân gây ra những bất cập
Thứ nhất, do có sự suy giảm đáng kể đào tạo nghề dài hạn, mất cân đối với đào
tạo nghề ngắn hạn. Điều này có nguồn gốc từ những nỗ lực chưa đủ mức của chính
ngành giáo dục và đào tạo.
Bảng 7: Số học sinh của các trường nghề
và vốn đầu tư qua các niên học 1986-1997
Năm Số học sinh đi học(nghìn người) Đầu tư
-16-
Trung học CN Dạy nghề Tỷ đồng % GDP
Năm có nhiều học sinh nhất
1986
1987
1988
1989
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
147 (1979/1980)
126,6

123,3
115,8
107,5
101,3
104,7
92,3
97,8
108,1
116,4
116,1
124,6
171 (1984/1985)
119,7
102,0
118,4
92,4
60,3
57,6
68,7
74,7
58,7
69,9
102,5
439
748
1495
2321
3414
4722
5500

7150
1,0
1,0
1,4
1,7
2,0
2,1
2,1
2,1
Nguồn: Niên giám thống kê
Trong giai đoạn 1990-1998, tổng đầu tư từ ngân sách cho giáo dục gia tăng liên
tục, tỷ lệ đầu tư cho từng cấp giáo dục riêng lẻ kể cả đào tạo nghề giảm. Năm 1994,
chi phí cho đào tạo nghề là 11% tổng ngân sách nhà nước dành cho giáo dục (mức chi
phí này ở các nước khác là 25%). Hơn nữa, phần chi cho giáo dục từ ngân sách nhà
nước chiếm phần lớn trong chi phí cho đào tạo nghề. Sự suy giảm các chương trình
đào tạo nghề dài hạn thể hiện rất khác nhau tong từng loại hình và chuyên ngành đào
tạo. Nhìn chung, năm 1992-1993 là năm có số học sinh đi học thấp nhất. Sự suy giảm
mạnh nhất diễn ra ở các nhóm ngành nông-lâm-thuỷ sản và sư phạm đối với loại hình
trung học chuyên nghiệp; và ở nhóm ngành xây dựng, cơ khí đối với loại hình đào tạo
-17-
nghề. Đối chiếu thực trạng này với tình hình mở rộngviệc làm trong nửa đầu thập niên
90 cho thấy, đào tạo nghề dài hạn đã suy giảm trong khi cơ hội việc làm gia tăng, số
học sinh giảm mạnh nhất trong chuyên ngành dịch vụ, nơi có tốc độ gia tăng việc làm
nhanh nhất. Thực tế này đang đặt ra nhiều vấn đề nổi cộm đối với hệ thống đào tạo
nghề. Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu do sự thích
ứng chậm của hệ thống đào tạo nghề đối với nền kinh tế nhiều thành phần, cả về chất
lượng đào tạo lẫn cơ cấu ngành đào tạo; sự nghèo nàn của đội ngũ giáo viên và trang
thiết bị cũng làm suy giảm đáng kể năng lực của các trường nghề. Phần lớn các trường
nghè hiện nay chỉ đáp ứng được dưới 50% như cầu về hạ tầng “trường sở”, trang thiết
bị, phòng thí nghiệm, sách giáo khoa, xưởng thực hành.

Thứ hai, do quy mô đào tạo ở các trường trung học, dạy nghề quá nhỏ, trên
50% các trường có quy mô đào tạo dưới 500 học sinh/năm. Quy mô nhỏ là lý do chính
làm cho chi phí đào tạo trên một đơn vị đào tạo cao. Trước sức ép của nhu cầu đào tạo
thực tế, nhiều trường rơi vào tình trạng quá tải.
Thứ ba, từ lâu nay, chúng ta hầu như đào tạo rất ít cho đào tạo nghề. Từ năm
1995 đến năm 1995, tỷ trọng đầu tư cho giáo dục đào tạo từ ngân sách Nhà nước tăng
từ 11% lên 13% (từ mức 1094 tỷ đồng lên 1600 tỷ đồng ) nhưng số tiền này chủ yếu
được rót vào cho hệ đại học, cao đẳng, phổ thông, còn các trường dạy nghề không
được CHLB Đức và Hàn Quốc trang bị cho một số thiết bị hiện đại. Đã thế, đầu tư cho
đào tạo nghề lại rất phân tán và không đúng hướng. Do nhiều năm không được đầu tư
nên số trường đào tạo nghề giảm từ 512 trường năm 1991 xuống 400 trường năm
1998. Trường sở và nơi ăn, ở của học sinh dột nát nhiều, số lượng người học giảm một
nửa. Trang thiết bị dạy nghề lạc hậu cũ kỹ, nhiều trường hoàn toàn dùng thiết bị của
50 năm trở về trước.
Thứ tư, về quản lý thì hầu như phân tán và buông lỏng. Sau ngày sáp nhập Tổng
cục dạy nghề và Bộ Giáo dục và đào tạo, các cơ sở dạy nghề phải tự túc về nội dung,
chương trình và phương tiện đào tạo, phải chạy lo tìm đủ môn sinh, hàng loạt trường
phải chấp nhận tuyển gần như 100% người nộp đơn dự tuyển. Do đó chất lượng đào
tạo kém.
-18-
Trong khi đó thì hệ đại học dưới dạng khầu hiệu “đa dạng hoá ngành, cấp học
và hình thức học”, cùng với cách đào tạo theo kiều “mì ăn liền” của cá nhân và tổ chức
khắp nơi nhảy ra kinh doanh lĩnh vực đào tạo làm cho các trường đào tạo nghề vắng
lạnh một cách dễ sợ.
Cái buông lỏng nữa là Nhà nước không có quy định bắt buộcvề nội dung đào
tạo, chương trình và thời gian đào tạo và kiểm tra việc thực hiện, kể cả với một số
trường đã từng có một thời thực hiện khá nghiên ngặt. Một số người đi học thực chất
chỉ là lấy bằng cấp chứ không phải lấy kiến thức.
Thứ năm, chất lượng đội ngũ giáo viên còn bất cập. Tình trạng quá tải đã gây
thiếu giáo viên cả về tương đối và tuyệt đối. Điều này làm cho không ít nơi giáo viên

không có thời gian để nghiên cứu, bổ sung kiến thức thường xuyên và tình trạng “chạy
sô” khá phổ biến. Nhưng theo một đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì đội ngũ
giáo viên đã có chất lượng tốt hơn trước đây. Chỉ số của sự đánh giá chất lượng cao
hơn này gồm có: thâm niên giảng dạy trung bình cao hơn, và số có bằng đại học và sau
đại học nhiều hơn trước đây. Song thực chất, chỉ số này chưa đủ để phản ánh toàn diện
chất lượng giáo viên. Số năm thâm niên trung bình cao có thể cảnh báo một xu hướng
già hoá, lớp trẻ ít quan tâm đến việc trở thành giáo viên ở các trường đào tạo nghề.
Đồng thời các chỉ số về chuyên môn cụ thể cho các môn học ngành nghề hiện nay
đang thấp hơn nhiều so với các bộ môn cơ bản. Như vậy, điểm yếu vẫn đang tập trung
ở các trường kỹ thuật ngành nghề.
Thứ sáu, nhu cầu đào tạo nghề phần lớn còn mang tính tự phát, thiếu qui hoạch
đồng bộ với nhu cầu của nền kinh tế. Các chỉ tiêu đào tạo của bộ chủ quản còn quá lệ
thuộc vào kinh phí, chưa theo nhu cầu thực tế của nền kinh tế, có nơi, có lúc còn mang
nặng tư tư tưởng “xin - cho”, cấp phát đơn thuần. Do áp lực từ phía người lao động mà
gần đây ĐTN ngắn hạn nổi lên như một hình thức mới để bù đắp cho sự suy giảm
ĐTN dài hạn và sự thiếu hụt trầm trọng công nhân kỹ thuật. Số học sinh theo học các
khoá ngắn hạn tăng 8 lần trong 10 năm từ 1986-1996. Sự thu hẹp các khoá đào tạo
nghề dài hạn còn chứa đựng xu thế “sao nhãng” các nghề đòi hỏi đào tạo công phu, chi
phí đào tạo cao. Qua khảo sát 421.500 người được đào tạo nghề gần đây, chỉ có 0,5 %
thuộc ngành cơ khí, 2,4% thuộc ngành điện.
-19-
Thêm vào đó sự phân bố các trung tâm đào tạo nghề rất không đồng đều theo
địa lý cũng như theo nhu cầu sử dụng. Phần lớn các trung tâm tập trung ở thành thị,
trong khi lại rất vắng bóng ở các vùng nông nghiệp, nông thôn, nơi đang cần có những
người nông dân được đào tạo bài bản để hội nhập nền nông nghiệp nước nhà với thế
giới. Hơn nữa, không có sự bổ sung kịp thời những lao động có đào tạo cho nông
nghiệp thì quá trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn khó mà đạt kết quả như mong
muốn.
Tính tự phát và thiếu qui hoạch đồng bộ một thời gian dài đã gây ra tình trạng
mất cân đối nghiêm trọng về nguồn lực, trong khi kinh nghiệm của các nước trên thế

giới là duy trì cơ cấu bậc học “tháp hình chuông” thì ở nước ta, số học sinh vào đại
học thường vượt quá nhiều lần so với học sinh các trường nghề.
Thứ bảy, có cả lý do từ tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm. Tỷ lệ thất
nghiệp ở khu vực thành thị tuy đã giảm từ 12% năm1989 xuống 6% năm1996, nhưng
lại tăng lên 8-10% năm 1998 và 1999. Tại nông thôn, tỷ lệ thiếu việc làm là từ 25%
đến 35% và nhóm bất lợi là độ tuổi từ 15-24. Có một nghịch lý là trong khi tỷ lệ thất
nghiệp cao thì thị trường lao động lại không cung cấp đủ nhu cầu cho doanh nghiệp,
nghĩa là có tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Lao động thiếu không chỉ ở trình độ lành
nghề mà còn ở trình độ kỹ thuật cấp trung. Nếu ở các khu vực kinh tế phát triển hơn,
sự thiếu hụt lao động có thể nhìn thấy rõ trong các ngành kinh tế đang mở rộng, thì ở
khu vực nông thôn sự thiếu hụt lục lượng lao động có kỹ năng khó nhìn thấy hơn và
khó đánh giá hơn. Các khu vực kinh tế kém phát triển ở các vùng nông thôn rộng lớn
đang cần những nhóm lao động hạt nhân, năng động để tạo ra phong trào làm kinh tế
giỏi.
Thứ tám, hệ thống đãi ngộ và việc làm hiện nay chưa khuyến khích lao động
làm việc tại nông thôn. Nhiều con em vốn từ nông thôn, đã qua đào tạo, dù khong có
việc làm cũng cố ở lại thành thị chờ cơ hội. Thực tế này không chỉ làm xói mòn các
kiến thức đã được đào tạo và lãng phí nguồn lực, mà còn tạo xu thế kém phát triển lâu
dài ở các vùng nông thôn rộng.
Thứ chín, hiệu quả đầu tư giáo dục của nước ta còn thấp, Chính phủ đã đặt mục
tiêu nâng tỷ lệ lao động được đào tạo tới 25% lực lượng lao động và nâng cáap các
-20-
chương trình đào tạo, cung cấp các trang thiết bị, tài liệu giảng dạy mới và theo sát
hơn các công nghệ mới. Tuy nhiên, mục tiêu chung ấy phải được chi tiết hoá thành các
chỉ tiêu cụ thể để có tính khả thi khi triển khai. Khi đưa ra các mục tiêu như vậy, cần
được tính đến các mối quan hệ về lợi ích - chi phí. Song đến nay tỷ lệ thu hồi đối với
đầu tư giáo dục là rất thấp. Gần đây, tài liệu của nước ta và của ngân hàng thế giới lưu
ý rằng hầu hết các khoản đầu tư cho giáo dục ỏ Việt Nam có tỷ lệ thu hồi thấp, trong
đó đầu tư cho đào tạo nghề tỏ ra là một khoản đầu tư đặc biệt kếm hiệu quả. Tỷ lệ thu
hồi vốn đầu tư từ góc độ cá nhân ở cả đào tạo nghề lẫn giáo dục đại học không thoả

mãn kiểm nghiệm 10%. Trong khi ngay các nước thu nhập thấp khác có mức thu hồi
trung bình là 10,6%. Điều này chúng tỏ hiệu quả đầu tư giáo dục ở nước ta còn quá
thấp.
CHƯƠNG 3:
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN
NHÂN LỰC TRONG THỜI KỲ CNH – HĐH ĐẤT NƯỚC
3.1. Những giải pháp chung
- Tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới sâu rộng hơn, huy động sức mạnh tổng
hợp của mọi thành phần kinh tế, tranh thủ mọi nguồn vốn đầu tư cho các ngành kinh tế
mũi nhọn. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong đó ưu tiên cho
công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn và vùng kinh tế biển làm cho kinh tế của
tỉnh phát triển nhanh, vững chắc.
- Chỉ đạo thực hiện tốt các chương trình hỗ trợ trực tiếp cho người dân như:
chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân, chăm sóc sức khoẻ sinh sản và dịch vụ kế hoạch
hoá gia đình, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài… tạo điều kiện
cho người dân nói chung và nguồn nhân lực, lực lượng lao động của tỉnh khoẻ về thể
chất, có trình độ chuyên môn kỹ thuật có nhiều công việc tự tạo được việc làm và tìm
được việc làm trong nước và xuất khẩu lao động.
- Phát triển nguồn nhân lực về số và chất lượng phải gắn với việc sử dụng
nguồn nhân lực để phát huy hiệu quả, phát triển nguồn nhân lực để phục vụ cho yêu
-21-
cầu phát triển kinh tế xã hội, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá của tỉnh và phục
vụ cho chương trình xuất khẩu lao động.
3.1.1. Một số quan điểm chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực.
- Chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa
hiện đại hóa ở nước ta.
- Giáo dục đào tạo giữ vai trò quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực. Giáo
dục đào tạo có nhiệm vụ nâng cao dân chí, đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài.
- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo điều kiện phát triển tài
năng.

- Phát triển nguồn nhân lực gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ
khoa học - công nghệ và sự nghiệp củng cố an ninh quốc phòng.
- Phát triển nguồn nhân lực là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và nhân
dân.
- Phát triển nguồn nhân lực phải tính đến sự hội nhập quốc tế và khu vực trên
cơ sở kế thừa và giữ vững những tinh hoa văn hóa dân tộc.
3.1.2. Từ những đánh giá tổng quát trên, có thể đưa ra phương hướng để
nâng cao chất lượng lực lượng lao động trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, về quy môvà mức độ, ở Việt Nam mặc dù đẫ có mục tiêu đạt 25% lực
lượng lao động qua đào tạo song mục tiêu này không được gắn trực tiếp với tỷ lệ của
các cấp đào tạo. Tính đến các yếu tố như, nguồn lực hạn hẹp, chi phí cao của các cấp
đào tạo nghề ở bậc sau trung học và khả năng tạo việc làm của nền kinh tế, Việt Nam
cần khuyến khích đào tạo nghề cấp trung học. Hiện tại cần lưu ý một số yếu tố thuận
lợi cho việc mở rộng giáo dục đào tạo nghề cấp trung học như sau: Một là, với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường, giới trẻ trở nên thực tế và định hướng thị trường nhanh
nhạy hơn. Do vậy, yếu tố thu nhập chứ không phải các yếu tố khác quyết định tham
gia vào chương trình đào tạo này hay chương trình đào tạo khác. Hai là, hệ thống tiền
lương hiện nay duy trì sự khác biệt quá nhỏ giữa lao động chân tay với lao động trí óc,
-22-
không tạo ra sự khác biệt lớn giữa sự lựa chọn giáo dục phổ thông, với mục tiêu nhất
thiết là phải vào cho được đại học với lựa chọn vào trưòng dạy nghề. Ngoài ra, mở
rộng đào tạo nghề còn giúp lớp trẻ có lựa chọn nghề sớm ngay khi họ tốt nghiệp trung
học. Điều giúp cho giảm áp lực vào các cuộc tuyển sinh đại học và tiết kiệm chi phí,
giúp cho học sinh tránh được cú sốc tinh thần khi thi trượt. Sự hướng nghiệp sớm còn
giúp họ yên tâm với sự lựa chọn từ đầu của mình. Nhờ đó, khi có việc làm theo đúng
chuyên môn đào tạo họ nỗ lực làm việc tốt hơn và cho năng suất lao đôngj cao hơn,
khắc phục được tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”.
Thứ hai, trong khi khuyến khích mở rộng đào tạo nghề, các nhà hoạch định
chính sách cần lưu ý đến giới hạn tối ưu của nó, ở giai đoạn phát triển hiện nay vốn
dựa chủ yếu vào ngành sử dụng nhiều lao động và tổ chức lao đôngj theo phương pháp

Taylo thì việc mở rộng đào tạo nghề thung học đồng nghĩa với việc tiết kiệm nguồn
lực trong nước và giảm chi phí cơ họi cho học sinh. Việc mở rộng đào tạo nghề nên
được xem như một quá trình luôn có sự điều chỉnh và sự điều chỉnh này cũng cần tính
tới khả năng, việc mở rộng thái quá đào tạo nghề trung học cũng có thể dẫn tới một
thực tế ngoài mong đợi, khi nền kinh tế đi vào con đường hội nhập với nền kinh tế
toàn cầu và thực hiện mô hình tổ chức linh hoạt, đòi hỏi phải có những công nhân đa
chức năng.
Thứ ba, để tiết kiệm nguồn lực và thời gian, cần sắp xếp lại và nâng cấp các
trường đào tạo nghề sẵn có, khuyến khích luồng học sinh vào để khắc phục quy mô
nhỏ, vốn là nguyên nhân quan trọng dẫn đến chi phí đơn vị cao trong đào tạo nghề
hiện nay. Đồng thời tiến hành các thay đổi cần thiết trong các chương trình học và
phân ngành đào tạo sao cho có thể phản ánh được các thay đổi trong cơ cấu ngành
nghề trong hệ thống làm việc.Cần chuyển khỏi đào tạo nghề chuyên môn hẹp và đi
theo hướng đào tạo rộng hơn trong đào tạo nghề. Cần tăng cường kiểm soát chất lượng
và tạo cơ hội cho học sinh được chuyển đổi giữa các lựa chọn trung học phổ thông và
trung học nghề. Sau khi cac strường nghề hiện thời được nâng cấp và đạt được quy mô
hợp lý, mới xem xét mở rộng trường mới.
Thứ tư, có chính sách cụ thể quan tâm thực sự tới sự phát triển bền vững của
đào tạo nghề. Khác với giáo dục đại học, đào tạo nghề không dễ có một vị thế cao
-23-
trong xã hội. Vị thế xã hội đáng mong ước của đào tạo nghề bao quát hai khía cạnh:
Một là, sự kính trọng và uy tín của cấp giáo dục này trong nhận thức của người dân.
Những thái độ và giá trị của người dân dành cho đào tạo nghề là rất quan trọng vì
chúng cho phép tái sản xuất quá trình đào tạo, nói cách khác cho phép quá trình đào
tạo được liên tục. Hai là, các giá trị của đào tạo nghề cần được thể hiện trong hệ thống
việc làm, chế độ đãi ngộ. Điều đó có nghĩa là đầu tư cá nhân vào đào tạo nghề (dưới
hình thức tiền của lẫn thời gian) phải được phản ánh rõ trong việc làm và thu nhập.
Thứ năm, xây dựng một hệ thống đào tạo nghề ưu tiên phát triển nông nghiệpvà
nông thôn, tự tạo việc làm và kỹ năng kinh doanh nhỏ. Với yêu cầu sử dụng lao động
cũng như cuộc cải cách nông nghiệp trong những năm 80, hệ thống đào tạo nghề

dường như tụt lại phía sau so với hệ thống việc làm. Do đó, lực lượng lao động thiếu
việc làm ở nông thôn tương đối cao. Hậu quả là luồng di cư từ nông thôn ra thành thị
diễn ra mạnh, làm tăng thêm số người nghèo đói ở thành thị cùng với áp lực môi
trường và nhiều tiêu cực khác. Nguyên nhân có nhiều nhưng yếu tố không thể bỏ qua
là thiếu đào tạo nghề. Nếu hệ thống đào tạo nghề nhấn mạnh khả năng tự tạo việc làm
kết hợp với các giải pháp chính sách hỗ trợ kinh doanh nhỏ sẽ giúp cải thiện đáng kể
tình hình.
Phát triển hệ thống đào tạo nghề ở nông thôn thực hiện lin hoạt vvới chương
trình, thời gian và địa điểm đào tạo theo nhu cầu địa phương. Trong vài năm trước
mắt, ưu tiên phát triển đào tạo nghề dài hạn ở khu vực thành thị và đào tạo nghề ngắn
hạn ở nông thôn, đồng thời sự phát triển đào tạo nghề ở nông thôn còn được khuyến
khích song song với các hệ thống phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn. Trong khi
phát triển hệ thống đào tạo nghề ở nông thôn cần chú trọng đào tạo kỹ năng kinh
doanh nhỏ và tự tạo việc làm.
Thứ sáu, tăng cường đội ngũ giáo viên. Thực tế cho thấy đội ngũ giáo viên dạy
nghề hiện đang là khâu yếu, cần tập trung phát triển khi đất nước mở rộng đào tạo
nghề. Ngay từ đầu cuộc cải cách đào tạo nghề ở nước ta cần đưa ra các giải pháp khắc
phục sự thiếu hụt về số lượng và chất lượng giáo viên dạy các môn ngành nghề. Trong
giai đoạn trước mắt của ta, khi đội ngũ giáo viên nghề giỏi chưa hình thành đầy đủ,
việc sử dụng đội ngũ thợ lành nghề đã về hưu hoặc đưng chức là phù hợp. Sử dụng đội
-24-
ngũ thợ lành nghề về hưu sẽ tận dụng được một nguồn lực không nhỏ. Tuy có thể
phương pháp sư phạm của họ bị hạn chế, song ở họ lại có sự dày dạn về kinh nghiệm.
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.2.1. Những giải pháp về việc làm.
Thứ nhất, Chính phủ cần tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế và tạo việc làm
ở nông thôn trên cơ sở phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, tiếp tục chuyển
dịch cơ cấu lao động nông thôn trên cơ sở đa dạng hoá việc làm.
Thứ hai, tập trung phát triển các ngành, các lĩnh vực, các sản phẩm có lợi thế,

phát triển các doanh nghiệp với kỹ thuật và công nghệ cao để tạo ra mũi nhọn tăng
trưởng, đồng thời phải khuyến khích các ngành, các lĩnh vực đầu tư ít vốn, sử dụng
nhiều lao động, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ ba, thực hiện tốt việc kết hợp giữa sắp xếp lại sản xuất, cổ phần hoá các
doanh nghiệp Nhà nước với duy trì đảm bảo việc làm cho người lao động, chống sa
thải công nhân hàng loạt, thông qua chính sách trợ giúp của Nhà nước về thuế, vốn,
công nghệ, lập quỹ hỗ trợ doanh nghiệp để phát triển sản xuất, mở rộng ngành nghề,
nhất là doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ.
Thứ tư, đẩy mạnh xuất khẩu lao động trên cơ sở mở rộng thị trường, phấn đấu
đạo tạo nghề để đưa lao động có nghề đi xuất khẩu lao động, đảm bảo mỗi năm đưa đi
được khoảng 20-25 vạn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Thứ năm, tổ chức tốt việc quản lý hiện tượng di dân tự phát vào thành phố tìm
kiếm việc làm tiếp tục hỗ trợ di chuyển lao động và dân cư để xây dựng các vùng
kinhtế mới.
Thứ sáu, tiếp tục hoàn thiện Luật Đầu tư nước ngoài và chính sách khuyến
khích đầu tư trong nước vì kinh nghiệm cho thấy rằng đây không những là nguồn vốn
quan trọng để đẩy nhanh tiến trình CNH-HĐH đất nước mà còn là nhân tố hàng đầ góp
phần giải quyết hiệu quả tình trạng thiếu việc làm ở Việt Nam hiện nay
-25-

×